K
hổng Tử còn gọi là Khổng Phu Tử là một nhà tư tưởng, nhà triết học xã hội nổi tiếng Trung Hoa, các bài giảng và triết lý của ông có ảnh hưởng rộng lớn đối với đời sống và tư tưởng của các nền văn hóa Đông Á.
Khổng Tử là danh hiệu tôn kính của hậu thế dành cho Khổng Khâu hay Khổng Khưu, tự là Trọng Ni. Ông sinh ngày 27 tháng 8 năm 551 TCN, vào thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc, tại ấp Trâu, làng Xương Bình, nước Lỗ (nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc). Nhiều sử sách ghi rằng ông sinh trong một gia cảnh nghèo, nhưng thực tế gia đình ông có ông tổ ba đời vốn thuộc dòng quý tộc sa sút từ nước Tống dời đến nước Lỗ. Cha của Khổng Tử, Thúc Lương Ngột (cháu 13 đời của Vi Tử Diễn, anh của vua Trụ nhà Thương) là quan võ thuộc ấp Trâu, đến 70 tuổi mới lấy Nhan Thị mà sinh ra ông. Năm lên ba, Khâu mồ côi cha, lớn lên, phải làm lụng vất vả để nuôi mẹ, nhưng rất ham học. Năm 19 tuổi, ông lấy vợ và làm một chức quan nhỏ coi kho. Năm 22 tuổi, ông mở lớp dạy học. Học trò gọi ông là Khổng Phu Tử, hay gọi gọn hơn là Khổng Tử . “Tử” ngoài ý nghĩa là “con” ra còn có nghĩa là “Thầy”. Do vậy, Khổng Tử là “Thầy Khổng”.
Trong suốt gần 20 năm, từ năm 34 tuổi, Khổng Tử dẫn học trò đi khắp các nước trong vùng để truyền bá các tư tưởng và tìm người dùng các tư tưởng đó. Có nơi ông được trọng dụng nhưng cũng có nơi ông bị coi thường. Năm 51 tuổi, ông quay lại nước Lỗ và được giao coi thành Trung Đô, năm sau được thăng chức Đại tư khấu (coi việc hình pháp), kiêm quyền tể tướng. Sau ba tháng, nước Lỗ trở nên thịnh trị. Nhưng rồi bị ly gián, dèm pha, ông bèn từ chức và lại ra đi một lần nữa.
Năm 68 tuổi, Khổng Tử trở về nước Lỗ, tiếp tục dạy học và bắt tay vào soạn sách. Trong những năm cuối cùng này ông đã soạn ra bộ “Luận Ngữ”. Ông mất tháng 4 năm 479 TCN.
Trong cuốn “Luận Ngữ”, Khổng Tử tự coi mình là một “người truyền đạt lại cái đã có mà không phát minh ra thứ gì khác”. Ông rất nhấn mạnh tầm quan trọng của sự học, và chương mở đầu “Luận Ngữ” cũng đề cập tới việc học. Thay vì tìm cách xây dựng một lý thuyết mang tính hệ thống về cuộc sống và xã hội, ông muốn các môn đồ của mình phải suy nghĩ sâu sắc cho chính mình và lặng lẽ nghiên cứu thế giới bên ngoài, chủ yếu thông qua các cuốn kinh cũ và qua các sự kiện quá khứ có liên quan (như Kinh Xuân Thu) hay những tình cảm của nhân dân trong quá khứ (như Kinh Thi).
Ở thời đại của sự phân chia, hỗn loạn và những cuộc chiến tranh không dứt giữa các nước chư hầu, ông muốn tái lập “Thiên mệnh” để có thể thống nhất “thiên hạ” (mọi thứ dưới gầm trời) và mang lại hòa bình, thịnh vượng cho nhân dân. Vì thế Khổng Tử thường được coi là người đã đề xướng chủ nghĩa bảo thủ, nhưng khi xem xét kỹ những đề xuất của ông ta, thấy ông đã sử dụng những định chế và lễ nghi trong quá khứ nhằm đặt ra một hệ thống chính trị mới của riêng mình: sự khôi phục một vương quốc thống nhất mà những vị vua phải được lựa chọn theo đạo đức, không phải theo dòng họ, những người cai trị phải hành động vì nhân dân, và họ phải đạt tới mức hoàn thiện. Một vị vua như vậy có thể dùng đạo đức của mình giáo hóa nhân dân thay vì áp đặt mọi người bằng pháp luật và quy định.
Khổng Tử cũng nhấn mạnh trên cái mà ông gọi là “lễ và nhạc”, coi hai thứ đó là những trụ cột của sự cân bằng cho trật tự và sự hài hòa. Lễ là để thể hiện thứ bậc xã hội, còn âm nhạc là để thống nhất mọi con tim cùng chung vui. Ông nói thêm rằng lễ không chỉ là cúng tế, và âm nhạc không chỉ là âm thanh của dùi đánh vào chuông. Cả hai còn là cách truyền đạt giữa lòng nhân của một người và hoàn cảnh xã hội của anh ta; cả hai yếu tố đó đều tăng cường các mối quan hệ xã hội, như ngũ luân (năm mối quan hệ chủ yếu): quân thần (vua tôi), phụ tử (cha con), phu thê (vợ chồng), huynh đệ (anh em) và bằng hữu (bạn bè). Các trách nhiệm luôn được cân bằng, nếu một người dân phải tuân lệnh vua, thì người dân cũng phải nói ra khi nhà vua sai lầm.
Những bài giảng của Khổng Tử sau này được các môn đồ của ông tập hợp lại thành một bộ sách tỉ mỉ về những quy định và cách thức thực hiện nghi lễ. Nhiều thế kỷ sau khi ông đã qua đời, cả Mạnh Tử và Tuân Tử đều viết những cuốn sách quan trọng, và lúc ấy, một triết lý đã được hình thành, gọi là Khổng giáo. Sau hơn một ngàn năm, học giả Chu Hi đã diễn giải ý tưởng Khổng giáo theo một cách hoàn toàn mới, được gọi là “Tân Khổng giáo”, để phân biệt với những ý tưởng trong cuốn “Luận Ngữ”. “Tân Khổng giáo” có ảnh hưởng rộng ở Trung Quốc, Triều Tiên và Việt Nam cho tới thế kỷ XIX.
Trí là làm đúng việc vì một lý do đúng đắn. Nghĩa dựa trên quan hệ qua lại. Một ví dụ sống theo nghĩa là tại sao phải để tang cha mẹ ba năm sau khi chết. Lý do là vì cha mẹ đã phải nuôi dưỡng chăm sóc đứa trẻ toàn bộ suốt ba năm đầu đời, và người có lễ nghĩa, trí phải đền đáp lại bằng cách để tang ba năm.
Cũng như lễ xuất phát từ nghĩa, thì nghĩa cũng xuất phát từ nhân. Nhân là cách cư xử tốt với mọi người. Hệ thống đạo đức của ông dựa trên lòng vị tha và hiểu người khác thay vì là việc cai trị dựa trên luật pháp có được như một quyền lực thần thánh. Sống cai trị bằng nhân thậm chí còn tốt hơn sống trong luật pháp của nghĩa.
Tư tưởng chính trị của Khổng Tử dựa trên tư tưởng đạo đức của ông. Ông cho rằng nhà nước tốt nhất là nhà nước cai trị bằng “lễ nghĩa” và đạo đức tự nhiên của con người, chứ không phải bằng vũ lực và mua chuộc. “Dùng mệnh lệnh, pháp luật để dẫn dắt chỉ đạo dân, dùng hình phạt để quản lý dân, làm như vậy tuy có giảm được phạm pháp, nhưng người phạm pháp không biết xấu hổ, sỉ nhục. Dùng đạo đức để hướng dẫn chỉ đạo dân, dùng lễ nghĩa để giáo hóa dân, làm như vậy chẳng những dân hiểu được thế nào là nhục nhã khi phạm tội, mà còn cam tâm tình nguyện sửa chữa sai lầm của mình.” (Tứ Thư - Luận Ngữ). Sự “biết sỉ nhục” là sự mở rộng của trách nhiệm, nơi mà hành động trừng phạt đi trước hành động xấu xa, chứ không phải đi sau nó như trong hình thức luật pháp của Pháp gia.
Trong khi ủng hộ ý tưởng về một vị hoàng đế đầy quyền lực, có lẽ vì tình trạng hỗn loạn ở Trung Quốc thời kỳ đó, các triết lý của Khổng Tử chứa đựng một số yếu tố hạn chế quyền lực của những nhà cai trị. Ông cho rằng lời lẽ phải luôn ngay thật, vì thế tính trung thực có tầm quan trọng hàng đầu. Thậm chí trên nét mặt, phải luôn thể hiện sự trung thực.
Triết học của Khổng Tử nhấn mạnh sự cai trị bằng đạo đức, sự chính xác của những mối quan hệ xã hội, sự công bằng và sự trung thực. Các giá trị đó đã có tầm ảnh hưởng lớn với mọi học thuyết khác ở Trung Quốc như Pháp gia hay Đạo gia trong suốt các triều đại phong kiến Trung Quốc. Các tư tưởng của Khổng Tử được phát triển thành một hệ thống triết học gọi là Khổng giáo. Khổng giáo được một người Italia là Matteo Ricci đưa vào châu Âu, ông cũng là người đầu tiên La tinh hóa tên Khổng Tử thành “Confucius”. Các bài giảng của Khổng Tử được nghiên cứu chủ yếu qua cuốn “Luận Ngữ”, một tập hợp những bài giảng, những buổi nói chuyện của ông được biên soạn nhiều năm sau khi ông qua đời.