M
ohandas Gandhi sinh ngày 2 tháng 10 năm 1869 trong một gia đình quan chức, cha ông nguyên là một bộ trưởng của Ấn Độ. Ông học luật ở Anh, về nước năm 1890, làm luật sư ở Bombay. Từ năm 1893, ông làm cho một hãng buôn của Ấn Độ tại Nam Phi, tư vấn về pháp luật. Thời gian này, ông đã lãnh đạo cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc và sự chèn ép người Ấn. Cũng trong thời gian này, ông đã hình thành tư tưởng Đề kháng bất bạo động, một tư tưởng hết sức nổi tiếng.
Đầu năm 1915, ông trở về nước bắt đầu có những cuộc tiếp xúc với Đảng Quốc đại. Năm 1919, ông gia nhập Đảng Quốc đại và sau một thời gian ngắn, trở thành một trong những nhà lãnh đạo xuất sắc của đảng. Từ đó cho đến cuối đời, ông luôn là vị lãnh tụ tài ba của phong trào đấu tranh giải phóng của Ấn Độ. Dưới sự lãnh đạo tài tình của M.Gandhi, Đảng Quốc đại đã trở thành một đảng chính trị lớn mạnh, có uy tín, được nhiều tầng lớp nhân dân ủng hộ.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, Ấn Độ liên tục nổ ra những cuộc đấu tranh chống thực dân Anh, phản đối đạo luật khủng bố Rondelet. Đông đảo nhân dân đã đoàn kết lại dưới sự lãnh đạo của M.Gandhi, coi ông như một vị thánh dẫn đường chỉ lối cho đấu tranh. Ông cùng Đảng Quốc đại phát động phong trào Đề kháng bất bạo động, không dùng vũ lực chống lại những luật lệ bất công. Tuy nhiều lần bị bắt nhưng Gandhi không hề bộc lộ sự thù hận hay oán trách, vì ông tin có thể thuyết phục được kẻ thù theo cách này. Nhưng sau vụ tàn sát đám đông người Ấn Độ không có vũ khí làm 400 người thiệt mạng và hơn một nghìn người khác bị thương, ông đã thay đổi cách nghĩ.
Những năm sau đó, ông tiếp tục lãnh đạo nhân dân chống lại sự áp bức bất công, cự tuyệt hợp tác với chính quyền thực dân Anh. Trong cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933, phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ lại phát triển, M.Gandhi đại diện cho Đảng Quốc đại đấu tranh chính trị với thực dân Anh trong Hội nghị bàn tròn ở Luân Đôn. Mặc dù không đạt được kết quả như mong muốn, nhưng những cuộc đấu tranh dưới hình thức bất hợp tác và biểu tình thị uy, đặc biệt là “cuộc biểu tình đòi muối” năm 1930 do ông phát động đã lôi cuốn được nhiều tầng lớp nhân dân Ấn Độ tham gia.
Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, ông cùng G. Nehru phát động phong trào đấu tranh rộng lớn chống thực dân Anh với khẩu hiệu: “Thực dân Anh hãy cút khỏi Ấn Độ! Chúng ta hãy hành động hay là chết”. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, M. Gandhi và G.Nehru có nhiều cuộc thương thuyết với thực dân Anh. Trước phong trào đấu tranh mạnh mẽ và ý chí quật cường của nhân dân, ngày 15 tháng 8 năm 1947, thực dân Anh buộc phải trao trả độc lập cho Ấn Độ.
Trong thời gian này, ông vận động để cải thiện địa vị của tầng lớp thứ dân - những người có địa vị thấp kém trong xã hội Hindu truyền thống, đấu tranh xóa bỏ sự khác biệt ngày càng lớn giữa người Hindu và người Hồi giáo.
Ông đã bị thực dân Anh giam giữ nhiều lần, vào các năm 1922 - 1924, 1930 - 1931, 1942 - 1944. Trong nhà tù, M.Gandhi đã nhiều lần tuyệt thực phản đối sự thống trị hà khắc của thực dân Anh.
Tháng 1 năm 1948, M.Gandhi đã bị bọn phản động cuồng tín ám sát. Người dân Ấn Độ tiếc thương ông vô hạn. Hình ảnh và những tư tưởng của ông luôn luôn tỏa sáng và dẫn đường cho họ đi tiếp con đường đấu tranh cho một cuộc sống tốt đẹp và công bằng hơn.