M
ontesquieu là nhà triết học, kinh tế, xã hội học, sử học và nhà văn Pháp, đại biểu cho khuynh hướng tư tưởng chính trị của giai cấp tư sản Pháp giữa thế kỷ XVIII. Các tác phẩm của ông được rất nhiều người hoan nghênh.
Dòng họ của ông khá nổi tiếng về sự lâu đời và giàu có ở Bordeaux. Cha của ông nhiều năm giữ chức vụ quan trọng trong ngành tư pháp. Sinh trưởng trong gia đình quý tộc, nên ông được tiếp thu một nền giáo dục ưu tú thời bấy giờ.
Tốt nghiệp đại học luật, ông làm việc trong ngành tư pháp và chưa đầy 30 tuổi ông đã giữ chức chủ tịch tòa án Boócđô và đảm nhiệm chức vụ này trong 10 năm. Vì vậy, ông hiểu khá rõ hệ thống cai trị và thực chất chế độ chuyên chế của nước Pháp phong kiến. Sau 3 năm đi du lịch châu Âu trở về, ông dành thời gian chủ yếu cho nghiên cứu khoa học. Ông đã trình bày học thuyết của mình trên một số lĩnh vực.
Trong tác phẩm “Thư của người Ba Tư”, Montesquieu phê phán gay gắt chế độ chuyên chế thời Lu-i XIV. Trong hai tác phẩm “Nhận định về những nguyên nhân thịnh suy của người La Mã” và “Tinh thần pháp luật”, ông vạch ra nguồn gốc của nhà nước, giải thích tính chất của pháp luật để dựng lên một kế hoạch cải cách xã hội trên nền tảng “tự nhiên” đó. Theo Montesquieu, sự phát triển tuân theo những quy luật. Ông định nghĩa quy luật là những “mối quan hệ tất yếu nảy sinh từ bản tính của sự vật”. Quy luật cũng thống trị cả trong lĩnh vực quan hệ xã hội.
Mặc dù có lúc thể hiện thái độ thỏa hiệp với chính quyền phong kiến, song quan điểm cơ bản của ông là phê phán chế độ phong kiến và nhà nước quân chủ chuyên chế. Ông chia thể chế nhà nước ra ba loại: độc tài, quân chủ lập hiến và cộng hòa. Phê phán thể chế độc tài, ca ngợi thể chế cộng hòa là tốt đẹp nhưng không thực hiện được trong thực tế, ông chủ trương thể chế chính trị hợp lý nhất của nước Pháp và nhiều nước là quân chủ lập hiến.
Ông đã nêu ra nguyên tắc phân quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp, trong đó nghị viện giữ quyền lập pháp, vua giữ quyền hành pháp, các quan tòa nắm quyền tư pháp. Các ngành này độc lập nhưng kiểm soát lẫn nhau, giai cấp tư sản nắm giữ cơ chế này trong xã hội.
Học thuyết của ông không chủ trương lật đổ chế độ phong kiến bằng cách mạng mà chỉ là những cải cách cho phù hợp với đòi hỏi và quyền lợi của giai cấp tư sản nhưng trong bối cảnh chế độ chuyên chế tàn bạo lúc đó, tư tưởng của ông thể hiện tính chất tiến bộ và có giá trị tinh thần to lớn. Là nhà thần luận, ông phê phán nhà thờ Cơ đốc giáo dù vẫn dành cho tôn giáo một vai trò nhất định trong việc duy trì đạo đức xã hội. Ông đặt thành nguyên tắc về quy luật tồn tại của các quy luật chung, quyết định mọi hiện tượng của đời sống tự nhiên và xã hội. Dù cách diễn đạt còn giản đơn song mang tính tiến bộ cao. Nó đối lập với thuyết chính thống trong thần học giải thích mọi hiện tượng tự nhiên xã hội bằng ý chí của thượng đế.
Montesquieu là một trong những người xây dựng “lý luận địa lý” trong xã hội học. Theo Montesquieu, bộ mặt tinh thần của một dân tộc, tinh thần của pháp luật và của những tổ chức của dân tộc đó phụ thuộc vào khí hậu, đất đai, sự rộng hẹp của lãnh thổ mà dân tộc ấy sống. Không có nhà nước, tôn giáo nào, pháp luật, phong tục nào là tuyệt đối hợp lý, mà chỉ dựa trên lý tính. Tất cả đều phụ thuộc vào điều kiện sinh hoạt của dân tộc, nghĩa là điều kiện địa lý. Nhưng theo Montesquieu, pháp luật không phải là kết quả của những mối quan hệ xã hội khách quan. Pháp luật do lý tính định ra, lý tính phải chú ý tới tinh thần của dân tộc mà tinh thần của dân tộc lại do điều kiện địa lý quyết định. Như vậy học thuyết của Montesquieu có tính chất duy tâm chủ nghĩa và tách xa sự hiểu biết khoa học về những quy luật phát triển của xã hội.
Tuy nhiên, tư tưởng của ông về tính quy luật của lịch sử loài người, tư tưởng chủ yếu của cuốn “Tinh thần pháp luật” đã đánh dấu một bước tiến, Montesquieu cho rằng trạng thái tự nhiên của con người là hòa bình và bình đẳng. Vì không hiểu tính chất của nhà nước, nên ông coi nền quân chủ lập hiến là hình thức nhà nước tốt nhất.
Montesquieu đã sáng tạo ra lý luận tự do về tam quyền phân lập: hành chính, lập pháp và tư pháp. Ông là một trong những tác giả của thuyết “số lượng” tiền tệ. Tuy không phải là người vô thần, nhưng ông đã phê phán sâu cay Giáo hội và tăng lữ.
Các tác phẩm chính của ông như: “Thư của người Ba Tư” (1721), “Nhận định về những nguyên nhân thịnh suy của người La Mã” (1734), “Tinh thần pháp luật” (1748).