G
oethe (Johann Wolfgang Von Goethe) sinh ngày 28 tháng 8 năm 1749 tại thành phố Fankfurt bên bờ sông Rhine, trong một gia đình tư sản khá giả. Cha ông là một nhà luật học, là nghị viện của hội đồng thành phố. Mẹ ông cũng thuộc gia đình quyền thế và giàu có. Thuở nhỏ, Goethe được hưởng một nền giáo dục khá toàn diện. Ông biết nhiều cổ ngữ, sinh ngữ, toán học, song có lẽ cái tủ sách phong phú của cha, tài kể chuyện dân gian rất hấp dẫn của người mẹ và tấm thẻ vào rạp xem hát không mất tiền của ông nội cho là những yếu tố góp phần tạo nên tài năng của Goethe sau này.
Thời đại mà Goethe sống chính là thời đại biến động to lớn trong lịch sử châu Âu. Năm Goethe 40 tuổi, ông được sống trọn vẹn trong những ngày lịch sử của nước Pháp năm 1789, tiếp đến là những cuộc chiến tranh do Napoleon khởi xướng lôi kéo toàn châu Âu vào trận địa. Về già, Goethe được chứng kiến cuộc Cách mạng tháng 7 của nước Pháp nhằm lật đổ triều đình phong kiến, cùng với cuộc chiến tranh giành độc lập của Bắc Mỹ. Năm 1765, Goethe vào học luật tại trường Leipzip. Nhưng học chưa xong thì ông mắc bệnh nên phải về quê hương dưỡng bệnh. Sau đó ông lại tiếp tục học luật tại trường Đại học Strassburg. Những năm tháng sống tại đây là dấu mốc quan trọng trong cuộc đời Goethe. Strassburg lúc đó đang là trung tâm của phong trào Bão táp và xung kích, nơi diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt của khuynh hướng dân tộc chống lại ảnh hưởng của Pháp trong lĩnh vực văn hoá nghệ thuật. Goethe tham gia phong trào Bão táp và xung kích, chẳng bao lâu trở thành người dẫn đầu phong trào, ông bắt đầu viết những tác phẩm chan chứa tinh thần phản kháng. Tại Strassburg, Goethe cũng được tiếp xúc với tác phẩm của Spinoza, nhà triết học phiếm thần luận Hà Lan. Chủ nghĩa phiếm thần luận đậm màu sắc duy vật đã để lại cho ông nhiều ấn tượng sâu sắc, sau này trong tác phẩm Thi ca và chân lí ông đã nói rõ Spinoza là nhà tư tưởng có ảnh hưởng quyết định đối với ông và toàn bộ sáng tác của ông.
Sau khi đạt học vị tiến sĩ luật, ông trở về Frankfurt làm luật sư. Nhưng Goethe không hứng thú với việc “kiện thưa”, mà ông hầu như dành công sức cho việc sáng tác. Điều này khiến cha ông hết sức tức giận. Trong thời gian này, Goethe đã cho ra đời hai tác phẩm quan trọng nhất thời tuổi trẻ của mình là “Faoxtơ” và “Nỗi đau của chàng Vecte”.
Năm 1775, Goethe nhận lời mời của công quốc Weimar, một tiểu quốc chư hầu đến cung đình của nước này để làm việc. Goethe được cử làm cố vấn uỷ viên hội đồng chính trị, rồi lần lượt làm giám đốc ngành khai thác mỏ, giám đốc ngành xây dựng cầu đường, làm bộ trưởng chiến tranh, sau đó lại làm bộ trưởng tài chính và phụ trách ngành thuế. Từ đầu năm 1782, ông giữ chức tể tướng. Thời gian này, Goethe đã đi sâu vào nghiên cứu nhiều ngành khoa học như địa chất, khoáng vật, thực vật, giải phẫu...
Tháng 9 năm 1786, Goethe bí mật rời bỏ triều đình. Ông sang Italia để nghiên cứu văn học cổ đại, học vẽ và du ngoạn. Nhưng chưa đầy hai năm sau, ông lại quay về triều đình Weimar, sống ở đó cho đến cuối đời.
Tác phẩm “Nỗi đau của chàng Vecte” được Goethe viết trong bốn tuần lễ. Cuốn tiểu thuyết đã thu hút đông đảo giới trí thức châu Âu thời đó. Ngay Napoleon cũng mang cuốn tiểu thuyết này đi viễn chinh Ai Cập. Tác phẩm lôi cuốn được sự quan tâm của độc giả không phải do câu chuyện tình yêu đáng thương, mà sự phiền muộn của chàng Vecte đã phản ánh nỗi đau khổ về mặt tinh thần trong thời đại đó của đông đảo giới bình dân, nhất là của những phần tử trí thức thuộc giới bình dân.
Nhắc đến Goethe, người ta thường nhắc đến tiểu thuyết “Nỗi đau của chàng Vecte”, vở kịch “Faoxtơ”. Bên cạnh đó, ông còn là một nhà thơ lớn. Về phương diện thơ ca thuần tuý thì thơ Goethe chiếm vị trí đặc biệt có một không hai trong lịch sử văn học Đức... Riêng về thơ ca trữ tình thì đến nay Goethe vẫn chiếm địa vị độc tôn trong văn học Đức và là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất của nhân loại.
Một mảng thơ lớn trong kho tàng thơ ca của Goethe là những bài thơ viết về tình yêu. Thời thanh niên, Goethe từng nếm trải nhiều mối tình say đắm và ông đã gửi hết vào thơ của mình. Mối tình đầu tiên với con gái một mục sư khi ông 21 tuổi đã tạo cảm hứng cho ông trong việc sáng tác ra các bài thơ “Với một dải băng vẽ hoa hồng”, “Đón chào và vĩnh biệt”, “Bài ca tháng Năm”, “Hoa hồng trên nội cỏ”...
Tháng giêng 1775, ông sáng tác nhiều nhiều bài thơ như: “Tình yêu mới cuộc đời mới’, “Công viên của Lili”, “Hân hoan vì đau khổ”... Đây là chùm thơ có âm điệu hân hoan nguồn hạnh phúc mới xen lẫn những lo toan trong cuộc sống tương lai.
Nhưng thơ tình yêu của Goethe không đơn thuần phản ánh tình cảm cá nhân, mà còn là cái ta của thế hệ thanh niên tư sản đầy nhiệt tình. Người đọc tìm thấy một tâm hồn Goethe đầy nhiệt huyết, say sưa cuộc sống nhưng họ cũng bắt gặp mình trong đó, chính vì vậy thơ tình yêu của Goethe được tán tụng rất nhiều.
Ngoài thơ tình yêu, Goethe còn viết nhiều bài thơ trữ tình ngắn tham gia phong trào Bão táp và xung kích. Đây là những bài thơ hừng hực khí thế, giàu nhạc điệu. Đến thời kì sáng tác cổ điển chủ nghĩa, những vần thơ sôi nổi hào hứng không còn. Thay vào đó là những u uất của một người không thoả chí nguyện.
Tác phẩm thơ ca cuối cùng của Goethe là Tập thơ “Tây - Đông” gồm 335 bài sáng tác từ năm 1814 - 1818, chia thành 12 quyển. Tập thơ là hình ảnh tác giả lúc về già chín chắn và điềm đạm, sâu lắng và triết lý. Đối với Goethe, ông làm thơ là để giãi bày cảm xúc chứ không phải để miêu tả đạo đức hay tả cảnh. Đây là một điều khá mới mẻ lúc bấy giờ và vì vậy mà thơ ông được mọi tầng lớp đồng cảm, đặc biệt là thanh niên.
Goethe trở thành một trong số ít văn hào kiệt xuất trong lịch sử văn học Âu châu là do ông đã sáng tạo ra tác phẩm “Faoxtơ”. Đây là một vở kịch thơ độc đáo gồm trên 12.000 câu thơ. Có cảnh được viết bằng văn xuôi, chia làm hai phần Faoxtơ I và Faoxtơ II có cấu tạo khác nhau, chưa kể hai câu thơ đề tặng và màn “giáo đầu ở nhà hát”, “khúc dạo đầu trên thiên đường” trước khi vào kịch chính.
Trong vở kịch, hình tượng Chúa, quỷ, thiên thần cũng như những chi tiết như thiên đường, địa ngục, tiếng chuông nhà thờ, ngày lễ Phục sinh... chỉ là những biểu tượng nghệ thuật chứ không mang ý nghĩa tôn giáo. Goethe cũng như Faoxtơ đều chẳng tin gì ma quỷ, thánh thần. Xét về một phương diện khác, Faoxtơ và con quỷ là hai mặt của hai vấn đề. Quỷ tượng trưng cho những yếu tố tiêu cực, lầm lạc trì trệ của con người. Còn Faoxtơ tiêu biểu cho những yếu tố tích cực, tiến bộ. Việc kí giao kèo với quỷ còn là việc con người tự thách thức bản thân mình. Cuộc đấu tranh diễn ra dai dẳng, quyết liệt. Ham muốn đôi khi làm cho Faoxtơ phạm sai lầm, gây ra những nỗi đau đáng tiếc cho nhiều người xung quanh, nhưng cuối cùng cái thiện cũng chiến thắng cái ác. Vở kịch bật lên niềm tin vào con người, đúng như Chúa bảo với quỷ: “Ở nhành cây non, người làm vườn nhìn thấy rõ - Năm tháng tới cành tươi sẽ sai hoa trĩu quả”.
“Faoxtơ” không phải là một quyển sách dành cho đại chúng. Rất nhiều người Đức có học thức cũng đọc nhưng không hiểu tập hai của vở kịch này. Để cho một tác phẩm đầy rẫy những danh ngôn về triết lí, những tư tưởng uyên bác, những tình huống vừa sâu sắc lại vừa khiến cho người xem phải rơi lệ có thể phổ cập đến những người có trình độ cao, cũng như những người trình độ thấp thì phải có quyển sách hướng dẫn đọc. Cho đến đầu thế kỷ XX, đã có hơn hai ngàn đầu sách nghiên cứu về “Faoxtơ”, còn số lượng những bài báo, những bài bình luận về vở kịch cũng như về Goethe thì không thể thống kê hết được.
Có thể nói, Goethe là người phát triển và đưa nền văn học dân tộc sánh ngang cùng thế giới. Ông là văn hào kiệt xuất mà tên tuổi ông cho đến nay vẫn là niềm tự hào của nhân dân Đức nói riêng, của nhân loại tiến bộ nói chung. Ông là nhà thơ, nhà tiểu thuyết, nhà soạn kịch giàu chất sáng tạo mà chỉ riêng vở kịch Faoxtơ cũng đã đủ khiến tên tuổi của ông trở thành bất tử.
Những gì người đọc biết về nhà văn hào cũng như các tác phẩm của ông dường như không bao giờ cạn, người đọc vẫn thưởng thức và tiếp tục phát hiện.