E
sin sinh năm 525 TCN, trong một gia đình quý tộc ở Ơlơdit gần Aten. Ông là nhà thơ bi kịch đầu tiên của Hy Lạp cổ đại, người được Ănghen gọi là “cha đẻ của bi kịch”. Trong cuộc chiến tranh của khối liên minh các thành bang Hy Lạp chống quân xâm lược Ba Tư (500 - 449 TCN), Esin là một chiến sĩ đã tham dự các trận đánh lớn (490 TCN). Khoảng 472 TCN, Esin rời Athens đến đảo Xixin (Italia) sống trong triều đình của tiếm vương Hiêrông. Ông mất tại thành Ghêla trên đất Xixin.
Cống hiến của Esin đối với sân khấu bi kịch Hy Lạp rất lớn. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, ông đã viết 90 vở kịch (70 vở bi kịch và 20 vở kịch xatirơ), nhưng đến nay chỉ còn giữ lại được 7 vở bi kịch. Trong hội diễn hàng năm ở Aten, ông đã 30 lần giành được giải nhất trong các cuộc thi diễn kịch. Esin thường viết một bộ ba vở bi kịch gắn bó với nhau trong một đề tài. “Ôrexti” là bộ ba bi kịch duy nhất còn giữ lại được. Tác phẩm của Esin phản ánh bản chất tiến trình lịch sử của đất nước Hy Lạp và của nhân loại. Ông ca ngợi văn minh chính nghĩa và sự tiến bộ, khẳng định sức mạnh ý chí của con người, biểu dương lý tưởng yêu nước, dân chủ, phản kháng chuyên chế và bạo tàn. Người ta gọi ông là “Nhà thơ của thời kỳ hình thành nền dân chủ nô lệ”. Vở bi kịch nổi tiếng nhất của ông là “Prômêtê bị xiềng”, đã gây cho Mác những xúc động và cảm hứng sâu sắc.
“Prômêtê bị xiềng” là bi kịch bằng thơ hay nhất trong số bảy vở bi kịch còn lại của Esin. Các nhà nghiên cứu cho rằng đây là một tác phẩm trong bộ ba vì tìm thấy những tư liệu về vở Prômêtê - người mang lửa và Prômêtê được giải phóng. Khai thác cốt truyện và đề tài trong thần thoại về những “Người khổng lồ, nhưng đã cải biên và nâng cao lên rất nhiều. Vở bi kịch mở đầu bằng cảnh Prômêtê bị thần Uy quyền và thần Bạo lực áp giải đến Xitơ để thần thợ rèn Hêphaixtôx đóng đinh xiềng vào núi đá. Trong cảnh bị xiềng xích, Prômêtê được các nàng tiên đại dương bày tỏ niềm thông cảm và kính phục. Prômêtê kể lại cho họ biết nguồn gốc của sự trừng phạt tàn nhẫn này. Chàng đã giúp đỡ thần Dớt dùng mưu lật đổ vị thần già Crônôx, cướp được ngai vàng. Nhưng vừa lên ngôi vua, Dớt không hề quan tâm đến cuộc sống của loài người khốn khổ mà lại muốn tiêu diệt loài người để tạo ra một giống khác. Không một vị thần nào dám chống lại Dớt để bênh vực loài người, trừ Prômêtê. Chàng đã làm cho loài người không còn sợ chết bằng cách “đưa vào lòng họ những niềm hy vọng mông lung”, hơn thế nữa, chàng còn cho người trần “ngọn lửa chói lọi” và “nhờ nó họ sẽ biết được rất nhiều kỹ thuật”. Prômêtê còn làm cho loài người khốn khổ và dại khờ trở thành những con người có tư duy và lý trí. Chàng còn phát minh ra mọi khoa học cho loài người như văn tự, số học, y học, nghề hàng hải v.v... “Nói tóm lại - Prômêtê nói - tất cả mọi kỹ thuật của loài người đều do Prômêtê này mà ra cả”. Dớt cử thần Đại dương xuống dụ dỗ Prômêtê khuất phục nhưng bị Prômêtê vạch trần thái độ đầu hàng hèn nhát, thần đại dương đành phải ra đi. Tiếp đó, một thiếu nữ tên là Iô chạy đến gặp Prômêtê. Iô là một thiếu nữ đã bị Dớt bỏ rơi sau khi thoả mãn dục vọng, Dớt đã bỏ rơi nàng khiến nàng phải sống dưới lốt một con bò cái và bị nữ thần Hêra cho một con ruồi trâu đuổi theo châm đốt. Prômêtê nói cho Iô biết tương lai của nàng với một thái độ cởi mở chân thành. Prômêtê còn cho nàng biết số phận của Dớt: Dớt sẽ kết duyên với một người đàn bà rồi sinh ra một đứa con mạnh hơn bố nó, và sẽ truất ngôi của bố. Thần Dớt liền sai thần Hecmex xuống đe doạ Prômêtê buộc Prômêtê phải nói rõ cuộc hôn nhân của Dớt cụ thể là với ai, thế nào. Nhưng chàng kiên cường, bất khuất, quyết giữ vững điều bí mật. Cuối cùng thần Dớt giáng sấm sét, chôn vùi Prômêtê.
“Prômêtê bị xiềng” phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp của xã hội Hy Lạp trong quá trình xây dựng nhà nước dân chủ chủ nô. Esin đã đứng về phía những lực lượng tiến bộ, tầng lớp quý tộc công thương và những người dân tự do, phê phán chính quyền chuyên chế, tàn bạo của những tên tiếm vương. Những thành tựu văn hoá khoa học của xã hội cổ đại - niềm tự hào về sức mạnh của con người - được Esin khái quát vào trong hình ảnh tượng trưng là người anh hùng văn hoá Prômêtê. Ý nghĩa lớn lao của vở bi kịch là khẳng định nhân loại không thể bị tiêu diệt, và ngày càng văn minh tiến bộ hơn. Lý tưởng và phẩm chất của Prômêtê, lòng căm ghét của Prômêtê đối với tất cả mọi thần thánh, đã khiến cho Mác gọi “Prômêtê là vị thánh đầu tiên, người tuẫn tiết đầu tiên trong lịch sử triết học”. Prômêtê trong lịch sử văn học nhân loại là hình ảnh tượng trưng của tự do và công lý, bất khuất và đấu tranh, văn minh và cách mạng. Nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà nghệ thuật lớn trên thế giới đã tái tạo hình ảnh Prômêtê trong những tác phẩm của mình.