C
harles Dickens sinh năm 1812 trong một gia đình công chức bình thường ở Pomao, một thành phố của nước Anh. Ông là nhà văn hiện thực phê phán lớn của nước Anh thế kỷ XIX. Năm 1817, gia đình dọn đến ở Satam gần Luân đôn. Tuy thời gian sống ở đây không lâu, nhưng đó là “một giấc mơ đẹp không bao giờ quên” của Dickens. Năm 9 tuổi, gia đình ông trở nên túng thiếu khi cha ông bị phá sản và bị bắt giam vào nhà tù ở Macxanxi, một loại nhà giam đặc biệt của nước Anh tư bản chủ nghĩa.
Năm 12 tuổi, chàng thiếu niên Dickens đã phải đi làm thuê cho một xưởng chế tạo xi đánh giày, làm việc cực nhọc suốt ngày dưới hầm nóng nực, bẩn thỉu do đó đã hiểu rõ tình cảnh nghèo khổ của những người lao động và sự bóc lột của các chủ xưởng. Ước ao trở thành văn sĩ, khi màn đêm buông xuống, công việc của công xưởng đã xong, ông mang những cuốn tiểu thuyết cũ trong thư viện gia đình ra đọc và tập viết văn.
Được ít lâu, nhờ món gia tài của một người bà con để lại, ông đã trả hết nợ nần, và bố ông ra khỏi nhà tù rồi Dickens lại được đi học. Nhưng chế độ nhà trường hà khắc ở Anh lúc bấy giờ đã để lại những ấn tượng không bao giờ phai trong đầu óc ông. Năm 16 tuổi, ông tự học tốc ký rồi lần lượt làm thư ký cho một trạng sư, làm nghề ghi chép ở nghị viện, ở toà án, làm phóng viên báo chí. Đây chính là một dịp để ông hiểu rõ mặt trái xấu xa và tính chất giả dối, quan liêu của chính quyền tư sản Anh, hiểu rõ cuộc đời cơ cực của nhân dân lao động trong những khu phố nghèo tối tăm ở Thủ đô Luân đôn. Năm 21 tuổi, ông bắt đầu sáng tác văn học. Tác phẩm đầu tiên của ông là một số bài bút ký, phóng sự lấy bút danh là Bôdơ. Năm 1837, tiểu thuyết “Truyện phiêu lưu của Picuych” hoàn thành và bắt đầu đăng tải trên các báo. Đây là tác phẩm thành công đầu tiên của ông. Với một giọng văn hài hước, tế nhị và đầy cảm xúc, Dickens đã gợi lên hình ảnh nước Anh nông nghiệp đang chuyển biến thành nước Anh công nghiệp, gợi lên những phong tục của các thành phố nhỏ của Anh. Sau khi tác phẩm ra đời, nhà văn nổi tiếng từ đó.
Tiếp theo, nhiều tác phẩm khác lần lượt ra mắt độc giả như “Oliver Twist” (1837-1838), đây là cuốn tiểu thuyết xã hội lớn đầu tiên của Dickens, trong đó hiện lên cuộc sống đầy ải của những em bé mồ côi và bức tranh đáng thương của tầng lớp dưới xã hội ở ngoại ô Luân đôn. Năm 1839, tác phẩm “Nicholas Nickleby” ra đời, cuốn tiểu thuyết tố cáo chế độ nhà trường hà khắc với những quy chế tàn nhẫn, hình phạt kỳ quái. Năm 1842, trở về sau chuyến đi thăm nước Mỹ ông cho xuất bản “Bút ký về nước Mỹ”, vạch trần tính chất dân chủ giả hiệu, chính sách phân biệt chủng tộc, sự mục nát của các cơ quan chính quyền, lề thói bỉ ổi của giới báo chí... Năm 1844, tiểu thuyết “Mactin Chudơlơuyt” (1844) ra đời tiếp tục tố cáo giai cấp tư sản Mỹ và thế lực tai quái của đồng đôla. Năm 1850, nhà văn cho xuất bản tác phẩm tự truyện nổi tiếng “Đêvit Copơphin”, đây được coi là kiệt tác của Dickens.
“Đêvit Copơphin” là tác phẩm bao gồm 64 chương và một lời tựa, mỗi chương mang một tiêu đề riêng. Lúc mới ra đời, tác phẩm được in thành từng tập mỏng, có đánh số thứ tự như phần lớn các tác phẩm của Dickens và các tác giả thời ấy. Nội dung tác phẩm là câu chuyện được kể thông qua hồi ức xen lẫn với hiện tại của nhân vật chính: Đêvit Copophin, một thanh niên trung thực, dũng cảm, cũng là nhân vật chiếm mọi cảm tình của mọi thế hệ độc giả.
Ngay sau khi ra đời, “Đêvit Coppophin” đã được nhiệt liệt hoan nghênh. Một thời gian rất dài đã trôi qua, nhưng độc giả ngày càng xác nhận đó là một kiệt tác của Dickens cũng như của văn học thế giới. Nó đã làm nổi bật một cách hoàn hảo những sở trường của tác giả, một thiên tài khắc họa nhân vật và xây dựng cốt truyện chặt chẽ. Tác phẩm cũng làm giảm đến mức thấp nhất những sở đoản của tác giả như coi nhẹ thế giới nội tâm, tính chất biếm họa lấn át hương vị trữ tình, đánh dấu một bước chuyển biến trong toàn bộ “nghệ thuật tuyệt mỹ” (Sextơxtơn) của tiểu thuyết Dickens (kết hợp khắc họa chân dung với phân tích tâm lý, dựng nên những nhân vật đa năng, uyển chuyển đầy mâu thuẫn, trở thành những điển hình mẫu mực của văn học thế giới). Toàn bộ tác phẩm là một sự hấp dẫn duyên dáng, thông qua ánh sáng nóng rực của kỷ niệm, do nhân vật chính nói ra như những lời tâm sự. Chủ nghĩa hiện thực của Dickens ở đây quả thực đã mang phương thức biểu hiện trẻ trung nhất, làm nổi bật bản sắc cốt yếu của nó là tình cảm nhân đạo chủ nghĩa. Với cuốn tiểu thuyết trứ danh này, Dickens cũng đã kích thích và mở đầu cho loại chuyện viết về chủ đề tuổi trẻ sống lang thang, bị cuộc đời hắt hủi trong văn học của nhiều nước.
Cuối thế kỷ XIX, sau cuộc khủng hoảng 1846-1847, nước Anh bước vào thời kỳ phát triển kinh tế, mở rộng thị trường thế giới cùng với việc xâm chiếm thuộc địa rất dã man. Trong hoàn cảnh ấy, chủ nghĩa hiện thực Anh có chiều hướng đi xuống. Nhiều nhà văn thay thế những bức tranh xã hội rộng lớn trong tác phẩm của họ bằng những chủ đề nhỏ hẹp, có tính chất “trong phòng". Nhưng Dickens hoàn toàn khác. Sau 1850, chính là thời gian xuất hiện nhiều kiệt tác đề cập đến những vấn đề xã hội rộng lớn và có sức tố cáo mạnh mẽ như “Ngôi nhà lạnh lẽo” (1853). Ngoài ra còn có “Câu chuyện hai thành phố” (1859), “Những ước vọng lớn lao” (1861), “Người bạn chung của chúng ta” (1865) và bản thảo cuốn tiểu thuyết cuối cùng viết chưa xong “Điều bí mật của Eđuin Đơrut”. Sau khi ông mất, thi hài ông được đưa vào điện Oexmintơ, nơi an nghỉ cuối cùng của những người con ưu tú của nước Anh.
Dickens là một cây bút hiện thực xuất sắc miêu tả tài tình xã hội Anh nửa đầu thế kỷ XIX. Những trang sách của ông vạch trần không thương xót những thói tham lam, ích kỷ, vụ lợi, vô liêm sỉ của giai cấp tư sản, đồng thời thấm nhuần lòng thương yêu sâu sắc đối với những người lao động bị áp bức. Ông phê phán thói giả nhân giả nghĩa, một biểu hiện đặc biệt của giai cấp tư sản Anh. Có thể nói, không ở nơi nào thói giả nhân giả nghĩa lại tinh tế và phát triển đến cao độ như ở Anh. Ông miêu tả nhiều loại tư sản, kể cả loại tư sản chủ nhà máy bóc lột sức lao động của công nhân. Một điểm khác nổi bật lên trong tiểu thuyết của Dickens là tấm lòng nhân đạo, luôn luôn băn khoăn đến số phận của những người nghèo khổ. Trước khi mất ít lâu, nhà văn đã từng nói: “... Lòng tin của tôi đối với giai cấp thống trị rất yếu ớt, không đáng kể, nhưng đối với giai cấp bị trị thì thật mênh mông, vô bờ bến”. Hạn chế của Dickens là tư tưởng có phần nào điều hoà giai cấp. Nhà văn miêu tả những cái xấu là nhằm khuyên răn người đời từ bỏ nó để xã hội được tốt đẹp. Vấn đề luân lý, đạo đức được đề cao một cách mạnh mẽ. Dickens tin rằng cuối cùng cái thiện sẽ thắng cái ác, cũng vì thế mà phần lớn các tác phẩm của ông đều kết thúc có hậu. Về phương diện nghệ thuật, đặc điểm của nhà văn là tính chất châm biếm, một sắc thái độc đáo của Anh. Cái cười của ông thường nhẹ nhàng nhưng cũng có lúc chua cay, phù hợp với cả hai khuynh hướng tố cáo và giáo dục trong tác phẩm.