D
iderot (Denis Diderot) sinh ngày 5 tháng 10 năm 1713 tại Langres, trong một gia đình thợ rèn khá giả. Vì thế, thuở nhỏ, ông được theo học đến nơi đến chốn. Ông là nhà văn, nhà lý luận và phê bình nghệ thuật, nhà triết học duy vật lớn và là nhà bác học, người đã đặt nền móng cho phong cách hiện thực, mở đầu nền văn học tiến bộ Pháp thế kỷ XVIII.
Cha của Diderot là một người thợ thủ công luôn mong cho con mình trở thành một linh mục để có cuộc sống sung túc và được trọng vọng.
Từ năm 1723-1728, ông học ở tỉnh nhà. Năm 1728, gia đình cho ông lên Paris theo học trường Trung học Haccua, còn gọi là trường Trung học Lui Đại đế, một trường học nổi tiếng thời đó. Diderot có một người chú và hai người anh em họ làm mục sư, ba người chú khác làm thầy dòng, vì vậy gia đình cũng có ý muốn hướng cho Diderot vào nghề tôn giáo. Mới đầu, chính ông cũng chịu khó đọc các sách tôn giáo, nhưng càng đọc càng thấy không thể nào tán thành những giáo lý của nhà thờ và không muốn trở thành mục sư. Cha ông không hài lòng về thái độ ấy nên không chu cấp tiền cho ông học nữa. Từ năm 1733, ông bắt đầu sống cuộc đời của một trí thức nghèo khổ ở Paris, có thời gian làm gia sư hoặc nhiều nghề khác để kiếm sống, nhưng ông không nản lòng. Ông say sưa lao vào con đường sáng tác văn học và nghiên cứu triết học. Tháng 12 năm 1742, Diderot gặp Ruxô và hai người trở thành đôi bạn thân. Năm 1746, ông cho ra mắt tác phẩm “Những tư tưởng triết học” với nội dung lên án gay gắt thần học, giáo hội, nhà thờ. Tác phẩm bị Nghị viện Paris kết án và bị đốt. Năm 1749, Diderot cho xuất bản “Bức thư về những người mù để cho những kẻ sáng đọc”, bộc lộ rõ rệt quan điểm duy vật. Nhân vật là nhà toán học Xônđecxông bị mù, chỉ tin vào cảm giác. Ông phủ nhận sự tồn tại của Thượng đế vì không sờ thấy được Thượng đế. Như vậy, theo Diderot, nguồn gốc của nhận thức là cảm giác và thế giới khách quan đã cung cấp cho người ta những cảm giác ấy. Bức thư về những người mù cũng bị kết án. Ngày 24 tháng 7 năm 1749, ông bị tống giam vào ngục Vanhxen, đến ngày 3 tháng 11 mới được trả lại tự do. Từ năm 1750, ông cùng với Đalăngbe dồn sức vào việc biên soạn “Bách khoa toàn thư”, một công trình khoa học có ý nghĩa cách mạng to lớn, đã làm cho ông đạt tới tuyệt đỉnh vinh quang. Trong suốt mấy chục năm, ông đã bộc lộ tinh thần kiên trì và quyết tâm rất lớn, vượt qua nhiều cấm đoán, trở ngại để hoàn thành tác phẩm đồ sộ này. Bộ “Bách khoa toàn thư” mang khuynh hướng chính trị, chiến đấu rõ rệt. Nó khai chiến với giáo hội Thiên chúa giáo, kịch liệt công kích những quy định của chế độ phong kiến và chính quyền chuyên chế. Do đó, việc xuất bản bộ “Bách khoa toàn thư” nhiều lần bị đình chỉ và bị cấm. Tuy vậy, toàn bộ bộ sách này cũng đã được lần lượt xuất bản trong hơn 20 năm (1751-1772).
Cuối năm 1753, tác phẩm triết học Về việc giải thích tự nhiên ra đời. Từ năm 1757-1758, ông viết một số vở kịch như: “Đứa con hoang” (1757), “Người cha trong gia đình” (1758). Tuy không phải là những tác phẩm thành công, nhưng những vở kịch này cùng với Ý kiến ngược đời về diễn viên (viết năm 1773, in năm 1830) đã có những đóng góp quý báu trong lĩnh vực lý luận sân khấu. Sau “Thư gửi Đalăngbe” (1758), từ tháng 11 năm 1759, ông theo dõi rất sát các cuộc triển lãm hội họa tổ chức ở Paris và kịp thời viết các bài phê bình sâu sắc, già dặn. Di sản phê bình hội họa của ông rất phong phú, tập hợp trong các phòng triển lãm dày trên 1000 trang, bao quát suốt chín cuộc triển lãm trải dài trong 22 năm (1759 -1781). Ngoài ra, còn có “Những tuỳ bút về hội họa” (viết năm 1765, in năm 1769) và “Những suy nghĩ tản mạn về hội họa, điêu khắc, kiến trúc và thơ ca”. Từ năm 1760, tác giả hoàn thành những tiểu thuyết nổi tiếng như “Nữ tu sĩ” (viết năm 1760, in năm 1796) với nội dung vạch trần những sự thực xấu xa, tàn bạo trong các nhà tu kín; “Cháu ông Ramô” (viết khoảng năm 1762 - 1779, in năm 1823), viết theo thể đối thoại triết học, một tác phẩm có tính chất hiện thực cao, phản ánh xã hội phong kiến Pháp đã đến lúc thoái trào, không tránh khỏi một cuộc cách mạng, “một kiệt tác duy nhất” (Mác); “Giăc, người theo thuyết định mệnh” (viết năm 1773, in năm 1796), chỉ trích sự ngu dốt và tính chất ăn bám của các giai cấp thống trị qua hình thức đối thoại giữa người hầu Giăc và chủ của Giăc. Năm 1773, nhận lời mời của Nữ hoàng Ecatêrina II, ông đã sang Nga. Trong thời gian này, ông thường xuyên trao đổi ý kiến với Nữ hoàng nhưng khi đề nghị với Nữ hoàng một chương trình cải cách chính trị ở Nga thì bị phản đối. Ngày 5 tháng 3 năm 1774, ông trở về Paris.
Tiểu thuyết “Cháu ông Ramô” hoàn thành nhưng tác phẩm không được xuất bản lúc Diderot còn sống. Đến năm 1823, “Cháu ông Ramô” mới được dịch từ bản tiếng Đức của Gơt để xuất bản ở Paris. Và mãi đến năm 1891, người ta mới tìm thấy nguyên bản của nó.
Cháu ông Ramô là một người có thật; đó là Giăng Phrăngxoa Ramô, cháu trai nhạc sĩ nổi tiếng Giăng Philip Ramô (1683-1764). Hắn vốn là một gã đê tiện, sống cuộc đời ăn bám bằng cách nịnh hót hoặc làm trò hề mua vui cho những kẻ có tiền và đến năm 1771 thì chết trong một nhà tế bần dành riêng cho những kẻ vô gia cư. Tiểu thuyết viết theo hình thức đối thoại tường thuật cuộc trò chuyện giữa tác giả với anh chàng đó, giữa “Tôi” và “Hắn”, trong quán cà phê La Rêgiăngxơ ở Paris vào một buổi chiều bên cạnh những người đang chơi cờ. Xen vào giữa những lời đối đáp giữa “Tôi” và “Hắn”, thỉnh thoảng có đôi đoạn tự sự dùng để dẫn chuyện. Về mặt hình thức, cuộc trò chuyện giữa “Tôi” và “Hắn” có vẻ giống như bất cứ cuộc trò chuyện nào thuộc loại ấy, nhảy từ vấn đề này sang vấn đề khác, chẳng đi theo một trình tự ấn định trước. Nhưng kỳ thực, “câu chuyện đối thoại này thật là có mạch lạc tài tình; người nào tưởng rằng cuộc đối thoại ấy rời rạc lỏng lẻo như một cuộc trò chuyện thường thì thật là sai lầm: nó chỉ giống cuộc trò chuyện thường ở chỗ linh hoạt mà thôi” (Gơt). Theo các nhà nghiên cứu, câu chuyện lần lượt xoay quanh bốn chủ điểm. Thoạt tiên là chủ điểm “Nhận xét về con người và tính cách” với các nhận xét tâm lý, các bức họa phong tục và tính cách. Tiếp đến là chủ điểm “đạo đức” chứa đựng những suy nghĩ về các khái niệm lương thiện và bất lương, thiện và ác và về việc giáo dục con cái. Thứ ba là chủ điểm “triết học” với những suy nghĩ về lý lẽ của các hiện tượng, về bản chất của các sự vật. Cuối cùng là chủ điểm “thị hiếu” bàn luận về mỹ học, về thiên tài, về âm nhạc, về sáng tác văn học. Trong cuộc trò chuyện, triết gia chỉ thỉnh thoảng mới nói một câu ngắn để gợi ý hỏi Ramô, hoặc khi thấy những quan niệm của hắn vô liêm sỉ quá, buộc phải nói để phản đối. Vì vậy, hầu như từ đầu đến cuối ta chỉ nghe thấy tiếng nói của Ramô trình bày với triết gia về cuộc sống đê tiện của hắn, cùng với những ý nghĩ, những quan niệm của hắn về xã hội và thế thái nhân tình.
Cuộc trò chuyện giữa tác giả và cháu ông Ramô là có thật. Tuy nhiên chắc chắn đây không phải chỉ là một cuốn ký sự đơn thuần ghi lại trung thực sự việc xảy ra. “Hắn” có nhiều khả năng không hoàn toàn là Giăng Phrăngxoa Ramô. Nhà văn chắc đã nhìn thấy trong số phận anh ta những nét đặc biệt của thời đại và từ nguyên mẫu đó xây dựng nên một nhân vật có tính khái quát xã hội. Còn “Tôi” có thể là “triết gia” chứ không nhất thiết phải là triết gia Diderot. Ramô phủ nhận tất cả những cái gì là tốt đẹp ở trên đời và chỉ công nhận có một nguyên tắc sống là thoả mãn bản năng đê hèn, tuy hắn biết như thế là bỉ ổi. Trong sự phủ định triệt để của Ramô, tuy hết sức đê tiện, nhưng lại chứa đựng không ít sự thật về xã hội Pháp trước Cách mạng tư sản 1789, vì vậy vẫn toát lên ý nghĩ phê phán tích cực. Ramô chính là hình ảnh của lớp người vật lộn trong xã hội Pháp thời kỳ lịch sử đó để tự khẳng định, nhưng cuộc đấu tranh của họ không vượt ra ngoài khuôn khổ của chủ nghĩa cá nhân. Ý nghĩa tích cực của nhân vật Ramô bộc lộ ở khía cạnh triệt để phá hoại cái cũ. Nó báo hiệu một cuộc cách mạng không thể tránh khỏi và sắp bùng nổ. Nhưng hình ảnh Ramô cũng nói lên sự bế tắc của một thế hệ sống trong buổi giao thời, giã từ cái cũ mà cũng chưa tin tưởng ở tương lai và không nhìn ra đâu là con đường chân chính. Xét về một phương diện khác, hình thức đối thoại trong tác phẩm này dường như chỉ là một dạng đặc biệt của độc thoại. Có thể xem “Tôi” và “Hắn” là hai mặt của chính tác giả. Diderot tự tách một phần của mình ra để trò chuyện. Ông gán cho Ramô những ý nghĩ, những lời lẽ mà bản thân ông thấy bỉ ổi quá không thể trực tiếp nói ra. Không có sự đối lập giữa “Tôi” và “Hắn”, giữa tác giả và nhân vật, giữa độc thoại và đối thoại. Đối thoại ở đây trở thành một biện pháp để tác giả tự phân đôi và trình bày những mặt mâu thuẫn thống nhất của chính bản thân mình. Mác nhận xét Cháu ông Ramô là “kiệt tác duy nhất” và là “kiệt tác về mặt biện chứng” theo sự đánh giá của Ănghen.
Công lao của Diderot rất to lớn. Ông là đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật Pháp thế kỷ XVIII, một trong ba ngọn nguồn của chủ nghĩa xã hội khoa học của Mac và Ănghen.
Lênin trong Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán đã đánh giá cao quan niệm duy vật của Diderot. Tuy còn mang tính chất siêu hình và trong lĩnh vực xã hội lại vào duy tâm, chưa nhìn thấu đáo vấn đề đấu tranh giai cấp, nhưng chủ nghĩa duy vật của Diderot đã góp phần rất lớn vào cuộc đấu tranh giải phóng của đẳng cấp thứ ba, chống chủ nghĩa duy tâm, thần học, nhà thờ Thiên chúa giáo và Giáo hội. Khuynh hướng duy vật trong triết học của Diderot chi phối quan điểm mỹ học tiến bộ của ông. Quan điểm trong văn học, nghệ thuật phản ánh chân thực cuộc sống và quan niệm “chân, thiện, mỹ” gắn bó chặt chẽ với nhau, văn nghệ không thể tách rời cuộc đấu tranh cho sự tiến bộ xã hội; ông kêu gọi nghệ sĩ phải thâm nhập thực tế, tìm hiểu đời sống khổ cực của quần chúng. Quan điểm mỹ học của Diderot cũng như những sáng tác của ông góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy phong trào cách mạng cuối thế kỷ XVIII và đặt nền móng cho chủ nghĩa hiện thực thế kỷ XIX.