T
hánh thơ Đỗ Phủ, tự là Tử Mỹ, sinh năm 712 ở vùng Hà Nam, Trung Quốc, trong một gia đình có truyền thống văn học, ông là cháu của thi nhân nổi tiếng Đỗ Thẩm Ngôn. Ông là một nhà thơ Trung Quốc nổi bật thời nhà Đường. Cùng với Lý Bạch, ông được coi là một trong hai nhà thơ vĩ đại nhất Trung Quốc. Đỗ Phủ là bạn thân của tiên thơ Lý Bạch. Nhưng con đường sự nghiệp của hai ông lại không giống nhau. Đỗ Phủ là một trong những nhà thơ theo dòng chủ nghĩa hiện thực vĩ đại nhất trong lịch sử văn học Trung Quốc. Với hàng loạt tập thơ xuất chúng như “Tam sử”, “Tam biệt”, ông đã vẽ nên bức tranh lịch sử đời nhà Đường bằng chính ngòi bút của mình. Vì vậy, người ta gọi ông là “Thánh thơ” và xem các tập thơ của ông là “Thi sử”.
Ngay sau khi Đỗ Phủ ra đời không lâu, mẹ ông đã qua đời và ông đã được người thím nuôi một thời gian. Người anh trai của ông mất sớm, ông cũng có ba em trai và một em gái khác mẹ, họ thường được nhắc tới trong các bài thơ của ông, dù ông không bao giờ đề cập đến mẹ kế.
Vì là con trai của một học giả quan lại bậc thấp, thời trẻ ông được tiếp thu nền giáo dục đúng theo tiêu chuẩn thời đó để có thể trở thành một quan lại dân sự sau này: học thuộc lòng các tác phẩm triết học kinh điển Khổng giáo, lịch sử và thi ca.
Ngay từ khi mới 7 tuổi, Đỗ Phủ đã bắt đầu biết đọc thơ, 15 tuổi đã nổi tiếng khắp thiên hạ. Theo sử sách ghi chép lại thì cuộc đời của Đỗ Phủ có thể chia thành 4 thời kỳ.
Từ Huyền Tông Khai nguyên năm thứ 19 (năm 731) đến Thiên Bảo năm thứ 4 (năm 745) là thời kỳ đầu tiên và cũng là thời kỳ chu du thiên hạ của Đỗ Phủ. Chính trong thời gian này, Đỗ Phủ đã kết bạn tâm giao cùng tiên thơ Lý Bạch ở vùng Lạc Dương.
Thời kỳ ở Trường An. Sau khi chia tay Lý Bạch, Đỗ Phủ một mình lặn lội đến vùng Trường An mong phát triển sự nghiệp chính trị của mình. Nhưng sau nhiều năm vất vả chốn trường thi, mãi đến năm Thiên Bảo thứ 14, Đỗ Phủ mới được bổ nhiệm giữ chức Huyện uý. Trong 10 năm sống ở Trường An, với biết bao khó khăn của cuộc sống và thăng trầm của nghiệp quan trường, Đỗ Phủ đã ý thức sâu sắc hơn về bóng đen xã hội và sự thối nát của chính trị, đồng thời cũng hiểu hơn về cuộc sống bất hạnh của người dân lao động cùng khổ.
Thời kỳ thứ ba, đây có thể nói là thời kỳ lưu vong của Đỗ Phủ. Từ năm 756 đến năm 759, Trường An rơi vào cảnh loạn lạc. Cuộc sống của Đỗ Phủ thêm phần khó khăn, nhưng sự nghiệp sáng tác lại gặt hái được nhiều thành công lớn. Sau khi Trường An bị chiếm đóng, Đỗ Phủ chạy đến vùng Linh Vũ cầu cứu Tiêu Tông, nhưng không may trên đường đi ông lại bị bắt và trở thành tù binh gần nửa năm trời, về sau ông trốn được đến với Tiêu Tông, được bổ nhiệm một chức quan nhỏ. Khi Trường An được thu hồi, Đỗ Phủ trở lại kinh đô giữ chức cũ. Thời kỳ này, Đỗ Phủ càng nhận thức rõ ràng hơn về cuộc sống hiện thực và có gần 200 bài thơ nổi tiếng đã ra đời, trong đó có “Tam sử”, “Tam biệt”.
Thời kỳ phiêu bạt vùng Tây Nam. Trong vòng 11 năm, từ năm 760 đến năm 770, Đỗ Phủ đã sống ở nước Thục 8 năm và sống ở vùng Kinh, Tương 3 năm. Mùa xuân năm 765, Đỗ Phủ dựng một gian nhà cỏ ở Thành Đô để sống trong thời gian 5 năm, nhưng về sau bão đã làm sập ngôi nhà này. Ngôi nhà cỏ này đã đi vào thơ ca của ông nhờ tác phẩm “Mao ốc vi thu phong sở phá ca". Năm 765, Nghiêm Vũ băng hà, Đỗ Phủ không còn chỗ dựa, gia đình ông đành phải rời bỏ Thành Đô và lang thang phiêu bạt khắp chốn. Theo sử sách ghi chép lại thì vào thời kỳ này, cuộc sống của Đỗ Phủ chủ yếu là sống trên thuyền chài. Mùa đông năm 770, Đỗ Phủ qua đời khi đang trên thuyền đi từ Trường Sa đến Nhạc Dương, hưởng thọ 59 tuổi. Chính trong thời gian này Đỗ Phủ cho ra đời nhiều tác phẩm nhất trong cuộc đời sáng tác của mình với gần 1000 bài thơ tuyệt cú và thi luật.
Hiện nay, Đỗ Phủ đã để lại cho hậu thế gần 1400 bài thơ. Các tác phẩm này đã phản ánh một cách sâu sắc và đầy đủ bộ mặt xã hội đời nhà Đường trong gần 20 năm trước và sau khi Trường An loạn lạc. Đồng thời, cũng ghi chép lại một cách sinh động cuộc sống khó khăn, vất vả mà tác giả phải trải qua. Thơ ca của Đỗ Phủ đã đạt đến sự thống nhất hoàn mỹ về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật. Nó trở thành đại diện tiêu biểu cho thi ca đời Đường.
Cuộc đời của Đỗ Phủ nếm trải không ít khó khăn, gian khổ. Thành công của ông bắt nguồn từ chính tư tưởng canh cánh nỗi lo cho dân cho nước. Qua các tác phẩm của ông, chúng ta có thể thấy được phần nào bức tranh xã hội thời bấy giờ từ lúc thịnh vượng đến lúc suy tàn. Tuy cuộc sống của bản thân vô cùng khốn khó, nhưng ông luôn nghĩ đến sự bất hạnh của người dân để tìm được tiếng nói chung đồng cảm.
Thành công của Đỗ Phủ bắt nguồn từ chính nguồn cảm hứng bất tận với thi ca. Nguyên tắc sáng tác thi ca của ông là: Thơ không kinh động lòng người thì chết sẽ không yên.
Chính quan điểm sáng tác này đã giúp Đỗ Phủ làm nên thành công rực rỡ trên con đường thi ca của mình.