“Bác Beckham ơi! Bác cho David ra công viên đá bóng với bọn cháu nhé?”
T
ôi cá là mẹ tôi vẫn có thể tìm lại được đoạn video trong chồng băng đĩa ở nhà ghi lại những bước đi chập chững đầu tiên của tôi. Trong đoạn video ấy, tôi là nhân vật chính, David Robert Joseph Beckham, khi ấy 3 tuổi, mặc chiếc áo mới toanh của Manchester United mà bố tôi đã tặng nhân dịp Giáng sinh. Tôi chơi bóng trong căn phòng phía trước của nhà tôi tại quận Chingford. Và 25 năm sau, Victoria cũng có thể quay một đoạn video tương tự khi tôi và Brooklyn chơi đùa cùng trái bóng trước khi tôi đi tập. Có thể, màu áo tôi khoác trên mình đã khác nhưng có những điều sẽ mãi mãi không thay đổi trong tôi.
Trong vai trò một người bố theo dõi cậu con trai dần lớn lên và trưởng thành, tôi chợt nhớ lại những điều mà mình đã từng trải qua khi còn là một đứa trẻ và nhớ về những kỉ niệm mà tôi và bố đã cùng trải qua. Ngay khi chập chững những bước đi đầu tiên, bố luôn cố gắng để tôi được chơi đùa với trái bóng. Thời điểm ấy, có lẽ tôi cũng không trông chờ hay mong đợi gì về chúng cả. Tôi vẫn còn nhớ khi Brooklyn mới chỉ vừa biết đứng dậy, chúng tôi vẫn thường chơi đùa mỗi chiều sau các buổi tập. Dù mới chỉ chập chững biết đi nhưng có lần Brooklyn đã nhanh chân đá thật mạnh vào lon đậu hầm ở dưới sàn. Điều tôi sợ nhất là thằng bé có thể bị đau, thậm chí gãy xương nếu làm như thế. Tôi lại gần ôm thằng bé và không thể ngừng cười. Tôi chợt nghĩ, có vẻ cảnh tượng này không khác mấy với những gì trước kia tôi đã từng trải qua với ông nội thằng bé.
Niềm say mê với trái bóng có lẽ đã nằm trong gen di truyền. Hãy nhìn Brooklyn thì biết: thằng bé lúc nào cũng chỉ muốn chơi với trái bóng, hết chạy, nô đùa rồi lại đá và vờn bóng. Lúc nào nó cũng như đang lắng nghe, giống như đã sẵn sàng để học hỏi mọi thứ. Khi thằng bé được 3 tuổi rưỡi, nếu tôi lăn trái bóng lại chân nó và bảo nó dừng bóng lại, nó sẽ nhanh chóng khống chế quả bóng bằng chân. Sau đó thì lùi lại, lấy đà trước khi sút trả cho tôi. Thằng bé giữ thăng bằng rất tốt. Gia đình chúng tôi đã từng ở New York khi Brooklyn mới 2 tuổi rưỡi, tôi vẫn nhớ có lần khi chúng tôi vừa ra khỏi nhà hàng và cùng nhau bước xuống bậc thang, thằng bé đứng thẳng người, ngẩng lên nhìn Victoria và tôi trong khi 10 ngón chân thì đã chớm trên một bậc thang mà gót chân thì vẫn đang bập bênh ở một bậc khác. Có một người đàn ông có vẻ như đã quan sát thằng bé từ lúc ở trong nhà hàng, bất ngờ tiến đến và hỏi tuổi của nó. Ông giải thích mình là một nhà tâm lí học và ông cho rằng Brooklyn còn nhỏ tuổi mà đã có khả năng giữ thăng bằng như thế thì rất tốt và đó là điều rất lạ nếu so sánh với những đứa trẻ cùng trang lứa.
Có thể còn hơi sớm để nói với Romeo, nhưng Brooklyn thực sự có sự tự tin xuất phát từ chính năng lượng, sức mạnh và khả năng phối hợp vận động của mình. Thằng bé lướt vèo vèo trên chiếc xe trượt hai bánh, phải nói là như bay. Cảm giác nó tự tin vào chính mình, và tôi biết trước đây tôi cùng vậy. Khi còn là một cậu nhóc, tôi chỉ cảm thấy tự tin vào bản thân mỗi khi được chơi bóng. Thực tế tôi vẫn nói vậy về mình, cho dù sau này, Victoria giúp tôi hoàn thiện mình hơn ở những phương diện khác nữa. Tôi biết cô ấy cũng đang làm thế với Brooklyn và Romeo.
Theo quan điểm của nhiều người, bố và con sẽ có nhiều điểm chung, nhưng xem ra, tôi và Brooklyn khá khác biệt. Khi còn ở độ tuổi của nó, tôi đã từng mạnh dạn bảo với người khác rằng: “Con sẽ thi đấu cho Manchester United.” Thằng nhóc cũng muốn là một cầu thủ bóng đá giống như bố, nhưng là United hay Real thì chúng tôi cũng chưa nghe nó nói. Nhưng Brooklyn thực sự khỏe mạnh và có một thân hình săn chắc. Ngược lại, hồi trẻ tôi khá mảnh khảnh. Cho dù tôi có ăn uống nhiều bao nhiêu thì cũng chẳng có mấy thay đổi. Khi chơi bóng, thậm chí trông tôi còn nhỏ bé hơn bởi lẽ khi ấy tôi thường ở công viên Chase Lane, ngay gần nhà và chơi bóng với các anh gấp đôi tuổi mình. Tôi không biết liệu có phải vì tôi giỏi thật hay vì họ có thể đá bay tôi trên sân mà sau mỗi buổi học, đám bạn luôn xuất hiện ở cửa: “Bác Beckham ơi! Bác cho David ra công viên đá bóng với bọn cháu nhé?”
Tôi đã từng dành rất nhiều thời gian ở công viên Chase Lane. Nếu không đi cùng các anh như Alan Smith, sống cách nhà tôi hai nhà trên cùng con phố, thì tôi cũng sẽ đi với bố ra công viên đó. Ban đầu, chúng tôi thường đá bóng ở sân sau nhà, nhưng vì tôi thường làm hỏng mấy luống hoa sau vườn của mẹ nên về sau, hai bố con hay ra công viên sau mỗi ca làm việc của bố, để luyện tập hàng giờ liền. Tất cả những điểm mạnh của tôi đều xuất phát từ những điều mà bố đã dạy tôi trong công viên 20 năm về trước: chúng tôi tập tiếp bóng và sút bóng cho đến khi trời tối mịt không nhìn thấy gì nữa mới thôi. Ông sẽ đá bóng thật cao lên không trung và bắt tôi phải đón bóng, kiểm soát bóng trong chân. Sau đó thì bắt đầu chuyền bóng. Dù nhiều lúc nó khiến tôi phát chán, nhưng quả thật những bài tập đó rất bổ ích. Tôi đã từng nghĩ, “Sao bố không chỉ đứng ở cầu môn và để con sút bóng về phía bố?” Mặc dù vậy, tôi luôn cảm ơn bố, người sẵn sàng ở bên tôi mọi lúc.
Bố tôi, Ted, từng thi đấu cho đội bóng địa phương có tên là Kingfisher ở Giải quận, và tôi thường cùng mẹ Sandra, chị gái Lynne và cô em gái Joanne đến sân để cổ vũ ông. Ông thi đấu ở vị trí tiền đạo; giống Mark Hughes, nhưng bố tôi có vẻ to khỏe hơn. Ông cũng đã từng thử việc tại Leyton Orient và thi đấu theo dạng bán chuyên khoảng vài năm tại Finchley Wingate. Bố tôi là một cầu thủ giỏi, dù thường bị bắt lỗi việt vị. Tôi cũng phải mất một thời gian khá dài mới hiểu được luật việt vị ra sao và tôi cũng không chắc ông ấy có hiểu nó hay không nữa. Tôi thích được tận mắt chứng kiến ông thi đấu. Tôi yêu mọi thứ xung quanh các trận đấu; tôi cũng hiểu các trận đấu và việc được thi đấu có ý nghĩa quan trọng như thế nào với ông. Khi ông bảo tôi rằng ông sẽ thi đấu ít đi để dành thời gian tập trung vào việc tập luyện và huấn luyện cho tôi, mặc dù lúc đó mới chỉ 8, 9 tuổi nhưng tôi cũng phần nào hiểu được sự hy sinh của ông lớn đến cỡ nào, cho dù ông chưa hề chia sẻ với tôi về điều đó.
Từ khi lên 7, bố bắt đầu đưa tôi đến tập luyện với Kingfisher vào các buổi tối giữa tuần tại Wadham Lodge, ngay gần đường North Circular. Tôi vẫn nhớ như in những ký ức tuyệt vời ở buổi tối đầu tiên. Lí do không phải là vì được đi với bố và các đồng đội của bố, mà là vì sân bóng. Chỉ mất khoảng 10 phút đi ô tô từ nhà đến sân. Bố lái xe dọc theo con phố dài, những ngôi nhà sát hai bên đường, đi qua một cổng chào khá lớn bằng gỗ, màu xanh, đỗ xe vào ô thứ hai của bãi đỗ xe nằm cạnh sân tập. Mặt sân đất rải sỏi màu cam và than xỉ nhuyễn, có cột gôn và lưới, và một quán bar nho nhỏ bên trong khu tập luyện, tôi không để ý tới chúng cho lắm. Ngoài sân này, còn có khoảng 3-4 sân khác nữa, trong đó có một sân tốt nhất để chuẩn bị cho các dịp đặc biệt hoặc các trận đấu tranh cúp. Bao quanh khu tập luyện là bức tường nhỏ và hai khu huấn luyện dành cho hai đội. Tại thời điểm đó, đối với tôi, sân vận động trông mới to lớn làm sao! Tôi mơ ước mình sẽ được thi đấu tại đó.
Tuy nhiên say này, Wadham Lodge có vẻ không được chăm sóc cho lắm. Tôi vẫn còn nhớ phòng thay đồ trong các trận đấu tại Giải phong trào Sunday League: bùn đất bám đầy trên mặt sàn, hệ thống chiếu sáng khá tệ, nước nhỏ giọt từ đường ống nhà tắm. Nồng nặc mùi của loại dầu mà các cầu thủ thường dùng để xoa chân. Đó là những thứ sẽ gây ấn tượng cho bạn khi đến đây. Có khoảng 6 chiếc đèn trên cột đèn, nhưng mỗi buổi tập, họ phải đi ra ngoài và ấn đồng xu vào chiếc công tơ điện trong một cái tủ sau cánh cửa phòng thay đồ để bật ánh sáng.
Ngoài việc tập luyện với Kingfisher trong suốt mùa giải, chúng tôi vẫn sẽ quay trở lại Wadham Lodge vào mỗi dịp nghỉ hè. Bố tôi đã từng thi đấu trong các giải diễn ra vào mùa hè, vì thế mà tôi được đến sân với ông. Chúng tôi cùng nhau tập luyện trước và sau mỗi trận đấu và ngay cả khi các trận đấu đang diễn ra trên sân đấu chính, tôi cố tìm một vài đứa trẻ khác để cùng thi đấu ở khoảng sân nhỏ bên cạnh. Sau này, khi đã có một sự nghiệp thi đấu chuyên nghiệp tại các câu lạc bộ với điều kiện cơ sở vật chất thuộc hạng tốt nhất, nơi mà mọi thứ đều được chuẩn bị, chỉnh trang và chăm chút cẩn thận, tôi vẫn luôn cảm thấy hạnh phúc với những trải nghiệm thú vị thuở ấu thơ tại một nơi như Wadham Lodge. Nếu không có mặt ở đó cùng bố, có lẽ tôi sẽ chẳng bao giờ biết được thế nào là Xà phòng buộc dây (Soap on a Rope). Và hơn hết, đây cũng chính là nơi mà tôi bắt đầu thực hiện những quả đá phạt. Sau khi mọi người hoàn thành buổi tập và tham gia câu lạc bộ, tôi thường đứng quanh khu vực vòng cấm và thực hiện những pha đá bóng chết về phía khung thành. Mỗi lần sút trúng xà ngang, tôi sẽ được bố cho thêm 50 xu tuần đó. Nhưng có lẽ quan trọng hơn cả là những lời khen từ bố.
Thỉnh thoảng, các đồng đội của bố tôi cũng đưa những đứa con trạc tuổi tôi tới sân, còn tôi thì ở đó từ tuần này qua tuần khác. Tôi thường ngồi theo dõi các cầu thủ dưới sân tập luyện cho tới cuối buổi tập, họ sẽ cho tôi tham gia cùng trong các trận đấu 5 đấu 5. Tôi luôn háo hức được ra sân chơi bóng cùng với các cầu thủ, những người đàn ông đã trưởng thành. Tôi vẫn nhớ có lần, một người trong số họ lao đến tắc bóng bằng pha xoạc bóng nguy hiểm. Bố tôi không mấy vui vẻ, nhưng nếu tôi có ngã xuống thì bố cũng chỉ bảo tôi đứng dậy, rồi dặn tôi phải làm quen với điều đó. Ông cũng thường nhắc tôi phải chuẩn bị đối phó với những tình huống vào bóng thô bạo. Nếu bố tôi chạy khắp sân để nhắc mọi người đừng vào bóng quyết liệt với tôi, thì tôi ở đó cũng vô ích. Thực tế là việc được thi đấu bên cạnh các cầu thủ to lớn hơn và khỏe mạnh hơn ngay từ khi còn bé đã giúp tôi rất nhiều trong sự nghiệp thi đấu chuyên nghiệp sau này.
Tối nào không ở Wadham Lodge, tôi sẽ đến công viên Chase Lane. Chúng tôi có một lối đi tắt: băng qua đường và bốn hoặc năm ngôi nhà tính từ nhà tôi, ở đó có một hẻm nhỏ. Chúng tôi thường đến đó khi không còn ai và sau đó chạy khoảng 50 mét cho đến hàng rào rồi lách qua lỗ hổng trên hàng rào chắn. Tôi quen một, hai cậu bạn khi gặp nhau tại Chase Lane. Tôi vẫn tiếp tục đi học cùng với Simon Treglowen và anh trai cậu ấy - Matt, và cho đến giờ, tôi vẫn giữ liên lạc với Simon. Chúng tôi thường xuyên tranh cãi về những bàn thắng trong mỗi lần chơi bóng. Điều này từng khiến chúng tôi xô xát, mặc dù Simon lớn hơn tôi 4 tuổi. Đánh nhau có lẽ là cách hài hước nhất để kết bạn. Chúng tôi thường cùng nhau chơi bóng cho đến khi trời tối mịt. Một câu lạc bộ trẻ được quý bà Joan điều hành cũng tập luyện ở đây. Mẹ tôi biết cô ấy và thường liên lạc với cô ấy qua điện thoại, thỉnh thoảng tôi và mẹ cũng đến thăm cô ấy. Ở đó, bạn có thể chơi bóng bàn, bơi lội hoặc là uống thứ gì đó hay dùng một chút sôcôla. Có một bể bơi ngoài trời ở phía sau đầy ắp người mỗi khi hè đến. Một số lần, Joan tổ chức chuyến xe buýt nhỏ cho chúng tôi đi xuống phòng tắm ở Walthamstow. Ngoài ra, còn có một đường dốc trượt ván bên cạnh ngôi nhà. Vài vết sẹo, vết bầm tím của tôi là do trượt ván, mặc dù tôi không được phép. Một lần bị ngã khá nặng của tôi là vào buổi tối khi tôi cố lấy trái bóng bị rơi xuống bể bơi sau khi đã đóng cửa. May mà Joan vẫn ở đó và cô ấy đã gọi cho mẹ tôi để nói về vết thương trên đầu của tôi. Trong khoảng sáu hoặc bảy năm trời, cả thế giới của tôi dường như chỉ nằm trong công viên. Giờ đây, toàn bộ những thứ ấy đã không còn nữa. Thời gian đã trôi qua và những đứa trẻ đã phá hỏng mọi thứ trước khi chúng bị đóng cửa.
Một trong số những người bạn thân đầu tiên của tôi là John Brown, sống ngay gần nhà. John và tôi học cùng nhau từ tiểu học đến trung học. Cậu ấy không phải là một cầu thủ, vì thế, khi không thể nói chuyện với cậu ấy về những cú sút hay những pha bóng trong công viên, chúng tôi thường chơi lego, một vài trò chơi tại nhà, đạp xe hay chơi ván trượt trên đường phố. Về sau, khi tôi bắt đầu thi đấu cho Ridgeway Rovers, John cũng thường đến sân theo dõi cho dù tôi không được ra sân thi đấu. Chúng tôi, đặc biệt là tôi và một cầu thủ khác của Ridgeway là Nicky Lockwood, thường đi xem phim với nhau và John cũng hay đi cùng; tôi vẫn nhớ mẹ thường đón chúng tôi tại rạp chiếu phim ở Walthamstow. Hồi nhỏ, John Brown và tôi là bạn thân nhất của nhau nhưng tôi cho rằng bóng đá đã đưa tôi đi theo một hướng rất khác. John trở thành một thợ làm bánh sau khi ra trường.
Thật may mắn cho tôi, ở trường tiểu học Chase Lane, họ cũng yêu bóng đá. Tôi vẫn nhớ thầy McGhee, người thường huấn luyện chúng tôi: một người Scotland hết sức đam mê với môn thể thao này, cũng giống như Alex Ferguson. Những đứa trẻ thường kể chuyện ông McGhee từng ném ấm trà, quả bóng cricket hay bất cứ thứ gì vào tường khi ông thấy khó chịu. Tôi chưa từng chứng kiến nhưng vẫn hơi hãi vì “tiếng tăm” của thầy. Chúng tôi có một tập thể xuất sắc và thường ra sân trong trang phục màu xanh. Tôi cũng thường thi đấu cho cả đội Cubs nữa, chỉ có thể chơi khi đi nhà thờ vào Chủ nhật. Vì thế, cả nhà tôi - tôi, bố, mẹ và chị gái - luôn ở đó hằng tuần, không bỏ lỡ buổi nào cả.
Bố mẹ hiểu tôi yêu bóng đá đến nhường nào. Nếu có cơ hội tham gia một trận nào đó, họ sẽ làm mọi cách để giúp tôi thực hiện, cho dù là thi đấu hay chỉ tham gia các lớp tập luyện đơn thuần. Và tôi bắt đầu đến trường đào tạo đá bóng. Ngôi trường bóng đá đầu tiên của đời tôi là trường Roger Morgan. Đây là ngôi trường được một cựu cầu thủ của Tottenham Hotspur điều hành. Bố tôi là fan ruột của United và chúng tôi thường xuyên đến xem các trận đấu của họ mỗi khi họ hành quân tới London. Trong khi đó, đội bóng mà ông ngoại tôi hâm mộ lại là Tottenham, vì thế ông thường dẫn tôi đến sân White Hart Lane. Mỗi dịp Giáng sinh, tôi nhận được món quà là trang phục thi đấu của cả United và Tottenham, và thi thoảng mẹ tôi còn tặng áo của tuyển Anh nữa. Cứ có bóng đá hoặc bất cứ thứ gì liên quan đến bóng đá, đều sẽ thấy sự hiện diện của tôi.
Mẹ tôi không quá hâm mộ bóng đá. Trong khi đó ông ngoại là một fan hâm mộ nhiệt thành, đó là một trong những lý do tôi thích được bên cạnh ông nhiều nhất có thể. Ông ngoại tôi, Joe, làm cho một công ty thuộc ngành in. Trong suốt một thời gian dài, ông làm việc tại Stationery Office ở Islington. Sau đó, ông chuyển về Fleet Street. Ông và bà tôi - Peggy - cùng sống tại một ngôi nhà trên phố City Road, ngay gần Old Street. Bố tôi thường phải đi làm từ sớm vào các thứ Bảy nên mấy mẹ con tôi sẽ đón tàu tại Walthamstow để đến chơi nhà ông bà ngoại cả ngày. Chúng tôi sẽ phải ở đó trước buổi trưa vì cứ khoảng 11.30 là ông sẽ đi xem Spurs thi đấu. Trước khi đi, ông sẽ xuống dưới tầng trệt và xem tôi chơi bóng trong công viên nhỏ ở khu đất bên cạnh. Tôi cá là ông vẫn còn nhớ những lần mà tôi làm vỡ kính mắt của ông. Mặc dù mới lên 6, nhưng tôi đã từng sút những cú khá mạnh khiến cặp kính của ông tôi vỡ toang khi vô tình đá trúng.
Mỗi lần ông đi xem đá bóng ở White Hart Lane, bà sẽ đưa chúng tôi đến cửa hàng mua sắm. Thỉnh thoảng, chúng tôi đến West End, nhưng thường thì sẽ bắt xe buýt đến Angel và đi siêu thị Chapel. Có lẽ tôi cũng không thể nhớ hết tất cả. Tôi chẳng thấy thú vị gì khi phải lẽo đẽo đi theo mẹ, bà và các chị em loanh quanh trong siêu thị, và cứ đến buổi chiều là tôi lại lèo nhèo để đòi một món đồ chơi hoặc một cái gì đó. Chúng tôi cũng thường ăn bánh táo và khoai tây chiên vào bữa trưa ở phố Chapel. Khi chúng tôi đã về tới nhà thì ông có lẽ vẫn đang đi trên đường.
Sau đó, ông chuẩn bị để đi làm ca đêm. Bố đón chúng tôi trên Wenlock Street sau khi hết ca làm và cả nhà sẽ cùng nhau về nhà.
Kể từ khi tôi bắt đầu luyện tập bóng đá một cách nghiêm túc, ông bà thường đến thăm chúng tôi vào mỗi sáng Chủ nhật. Ông bà theo dõi tất cả các trận đấu của tôi. Tôi thích ông ở đó: ông luôn nhẹ nhàng khi nói chuyện về trận đấu và màn trình diễn của tôi trên sân. Điều này thì hơn hẳn bố tôi. Cả mẹ tôi cũng muốn đến sân để xem tôi thi đấu, thế nên bà nội sẽ ở nhà để chăm nom cho chị gái Lynne của tôi và chuẩn bị bữa tối cho tất cả mọi người. Buổi chiều Chủ nhật, chúng tôi thường đến công viên Victoria ở Hackney. Ở đó, có rất nhiều không gian để chơi bóng cùng bố và ông, cũng có rất nhiều thứ khác để chơi: một sân chơi lớn, hồ chèo thuyền và thậm chí là một sở thú nhỏ.
Tôi không thể đòi hỏi gì nhiều hơn thế và thực tế là tôi cũng không làm vậy. Tôi đã chuyển đến Ridgeway Rovers và điều đó đã thay đổi cuộc đời tôi. Khi ấy tôi mới lên 7, tôi không thể biết điều gì đã xảy ra với mình vào thời điểm đó. Mẹ tôi kể lại là tôi được một người tên là Stuart Underwood tình cờ để mắt đến khi đang chơi bóng trong công viên và được ông đưa ra một lời đề nghị về việc cho tôi tập luyện trong môi trường chuyên nghiệp. Mặc dù vậy, bố tôi đã để ý đến tin tức trên một tờ báo địa phương nói về buổi kiểm tra trình độ của đội bóng trẻ mới được thành lập. Và buổi chiều hôm đó chính là buổi kiểm tra của tôi. Dù sao đi nữa, tôi vẫn cảm thấy thực sự biết ơn và tự hào khi trở thành một phần của đội bóng đầu tiên Ridgeway Rovers. Và Stuart đã làm nhiều thứ để mang đến tương lai cho tôi.
Stuart Underwood khá to cao. Ông ấy cao khoảng 1m90, có giọng nói sang sảng và một vóc dáng hết sức tuyệt vời. Ông từng là một sĩ quan quân đội. Ban đầu, tôi cũng hơi sợ ông ấy. Ông có vẻ khá khó tính: dù còn trẻ như thế nào, nếu bạn không chơi tốt, dù là thi đấu hay tập luyện, ông ấy sẽ mắng bạn chẳng khác gì bạn là thứ rác rưởi và nhấn mạnh rằng bạn cần phải làm tốt hơn, thay vì vài câu nói bông đùa.
Stuart luôn chân thành với các cầu thủ của mình, nhưng ông không phải là mẫu người thích chạy sát đường biên trong các trận đấu của đội trẻ để hò hét chỉ đạo. Có lẽ đây cũng là điểm yếu của ông. Con trai ông, Robert, cũng từng thi đấu trong đội, nhưng Stuart dường như là người cha thứ hai đối với tất cả chúng tôi. Và ông luôn muốn tạo ra một đội bóng xuất sắc.
Mỗi đứa trẻ khi ấy đều muốn thi đấu cho Stuart và chúng tôi đã có một tinh thần đoàn kết thực sự tuyệt vời. Ông sắp xếp cho Ridgeway tham gia các giải bóng đá tại Hà Lan và Đức, vì thế, chúng tôi có nhiều kinh nghiệm thi đấu giống như các cầu thủ chuyên nghiệp của Champions League hay một giải đấu quốc tế vậy. Trong giai đoạn đó, những ông bố khác của các cầu thủ cũng tham gia vào quá trình huấn luyện chúng tôi. Bố tôi đảm nhận công việc huấn luyện. Steve Kirby, thi đấu cho Ridgeway, có con trai là Ryan, cũng vậy. Bố tôi cùng chạy với cả đội, và huấn luyện các kĩ thuật cơ bản cho chúng tôi. Trong khi đó, Steve giống như một chiến thuật gia, thường hướng dẫn các cầu thủ thi đấu theo vị trí và chạy chỗ khi không có bóng. Trong suốt quãng thời gian dài, cả ba người đều ở đó, chúng tôi được chia ra làm các nhóm nhỏ bởi lẽ không nhiều cậu bé ở độ tuổi của chúng tôi để ý đến việc được huấn luyện. Ba người - Steve, Stuart và bố tôi, rất hay tranh cãi, nhưng hầu hết đều có nguyên do. Họ là những người chân thành và đều muốn xây dựng một đội bóng xuất sắc nhất có thể.
Và họ đã làm được điều đó. Tôi không biết bằng cách nào mà ông Stuart có thể tìm ra các cầu thủ xuất sắc trong đội: Ryan Kirby, Micah Hyde - hiện tại đang thi đấu ở Watford, Jason Brissett - đang thi đấu cho Bournemouth (lần cuối tôi nghe nói về anh ấy), và Chris Day - người đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho QPR. Robert, con trai của Stuart Underwood là một ví dụ. Thực sự mà nói, khởi đầu của anh ấy không tốt nhưng anh ấy luôn thi đấu chăm chỉ trong mỗi trận đấu, và rồi tự hoàn thiện mình để trở thành một cầu thủ xuất sắc trong đội. Đó là sự ghi nhận với anh ấy, nhưng cũng là sự vinh danh đối với Stuart và phần còn lại. Chúng tôi chưa bao giờ nghĩ anh ấy không đủ khả năng thi đấu cho Ridgeway.
Stuart luôn thực hiện mọi động tác, mọi pha bóng hết sức hợp lí. Chúng tôi có một sân cỏ tốt để thi đấu các trận trên sân nhà, giống như một sân vận động tại Ainslie Wood Sports Ground. Sân này chỉ cách nhà tôi một quãng đường ngắn. Chúng tôi thường tập luyện ở đó 2 buổi mỗi tuần. Stuart cũng sống trên đường Larkswood gần đó, cạnh một công viên - nơi có điều kiện cơ sở vật chất khá ổn, vì thế chúng tôi thường tranh thủ tập luyện ở đây. Bằng cách này hay cách khác, Stuart luôn cố gắng đảm bảo những điều kiện tối thiểu mà chúng tôi cần phải có. Khi di chuyển để thi đấu tại các trận đấu quan trọng như chung kết, ông luôn nhắc nhở chúng tôi phải mặc áo có cổ và thắt cà vạt. Và có một quy định hết sức đơn giản, nhưng lại cực kỳ quan trọng, là nếu bạn không tham gia tập luyện trong tuần thì bạn sẽ không có tên trong danh sách thi đấu vào cuối tuần. Một thói quen rất tốt và đáng học hỏi - tôi luôn cố gắng tham gia các buổi tập và có mặt đúng giờ. Tôi thích được tập luyện và luôn cố gắng thật nhiều trong từng buổi tập. Nhưng cũng có một lí do nữa giải thích cho tập thể xuất sắc của cả đội: Ridgeway Rovers luôn có đấu pháp phù hợp.
Khi đối đầu với các đội có nhiều cá nhân xuất sắc, chúng tôi sẽ dồn sự tập trung vào các cầu thủ tài năng nhất. Họ có thể gây rất nhiều khó khăn cho từng cá nhân trong đội. Nhưng điều đó hoàn toàn không được phép với Ridgeway: bất cứ sự phô diễn nào cũng có thể khiến bạn phải nhường chỗ cho người khác. Chúng tôi đã bắt đầu giành chiến thắng với tỉ số 10 hoặc 11-0. Các câu lạc bộ chuyên nghiệp bắt đầu để mắt đến các cầu thủ. Hình như West Ham đã từng đưa ra lời đề nghị với tôi khi tôi mới 11 tuổi. Nhưng cả Stuart, Steve và bố tôi đều thống nhất rằng chúng tôi sẽ không gia nhập câu lạc bộ khác cho đến khi lớn hơn. Nếu bạn luyện tập trong các câu lạc bộ chuyên nghiệp, theo quy định của họ, bạn sẽ không thể tập luyện cùng Ridgeway vào mỗi Chủ nhật. Tôi không hề muốn điều đó xảy ra, và cũng thấy chưa sẵn sàng. Tất cả chúng tôi đều ở lại Ridgeway. Tôi nghĩ các quy định trên chính là lí do giải thích cho việc nhiều người trong số chúng tôi tiếp tục đạt được nhiều thành công trong tương lai. Chúng tôi đã học được rất nhiều điều về sự tận tâm và cống hiến ngay từ khi lững chững bước vào nghiệp “quần đùi áo số”.
Tôi phải học khi nào thì cầm bóng, khi nào thì không. Tôi thấp bé hơn hầu hết các cầu thủ khác, nên thường phải đón nhận những cú va chạm rất mạnh. Lúc nào cũng vậy, bố tôi luôn thúc giục tôi phải đứng dậy và tiếp tục làm quen với điều đó, giống như những gì mà tôi phải làm với các đồng đội của ông tại Wadham Lodge. Ông dạy tôi làm sao để tránh chấn thương. Trong vai trò của một cầu thủ chạy cánh, tôi thường phải đối đầu với các hậu vệ lúc nào cũng chỉ rình rập để cho tôi một cú tắc bóng. Bố dạy tôi cách duy trì trái bóng sao cho chúng liên tục di chuyển và chuyền bóng thật nhanh ngay khi có quyền kiểm soát. Điều đó giúp tôi tránh khỏi tình trạng bối rối như một cầu thủ chuyên nghiệp. Và đó là cách tốt nhất khi chơi bóng. Lúc lên 10, tôi từng gặp chấn thương, loại chấn thương vốn thường xảy ra với rất nhiều đứa trẻ. Khi chạy và bật nhảy liên tục, đặc biệt trên các mặt sân cứng, thì việc gặp phải những vấn đề với đầu gối, cẳng chân và mắt cá là chuyện chẳng có gì lạ. Với tôi, đó là ở hai gót chân: mới đầu chỉ tê buốt một chút nhưng sau đó mỗi lúc một đau nhức. Tôi đã cố gắng đặt một ít xốp mỏng trong giày nhưng cuối cùng vẫn phải nghỉ hoàn toàn. Không thể thi đấu, không thể tập luyện. Thậm chí không thể tập chuyền, sút trong công viên như mọi khi. Có lẽ đó là 5 tuần dài nhất trong cuộc đời tôi và tôi chưa từng trải qua thời gian nào như vậy. Tôi phải ngồi ngoài theo dõi, thay vì được vào sân thi đấu. Điều này khiến tôi thực sự thất vọng và có một chút lo lắng.
Quãng thời gian tại Ridgeway Rovers thực sự là giai đoạn tuyệt vời đối với tất cả chúng tôi, không chỉ các cầu thủ. Gia đình của tất cả đều tham gia vào các hoạt động của câu lạc bộ, cho dù là giặt đồ, dọn vệ sinh, đưa đón cầu thủ nhí, tham gia các chuyến picnic hay vận động gây quỹ. Các thành viên trong đội đã gắn bó với nhau suốt 6 năm. Gia đình chúng tôi cũng tham gia với đội trong suốt khoảng thời gian đó. Và tất cả chúng tôi trở nên thân thiết hơn thông qua các hoạt động như thế. Tôi vẫn còn nhớ cảnh bác Ken và bố của Micah Hyde, với mái tóc cuộn thành từng lọn dài xoăn tít cùng với bố tôi đứng trên đường biên vào Chủ nhật trong các trận đấu của Ridgeway. Để có thể kiếm được nguồn tài trợ cho cả đội, phụ huynh của các cầu thủ nhí thường tổ chức bữa tối và các buổi khiêu vũ cùng nhau vào tối thứ Sáu. Mặc dù chính bố là người đưa tôi đi tập luyện, nhưng có lẽ mẹ tôi mới là người dành hầu hết thời gian cho tôi và đam mê bóng đá của tôi, mặc dù bà là thợ cắt tóc. Bà là người duy nhất trong số các mẹ biết lái xe. Khi bố đi làm, mẹ sẽ là người đưa tôi đi và đón tôi về với tất thảy mọi thứ cần thiết trong túi.
Nghĩ lại, có lẽ chị em gái tôi đã phải chịu nhiều thiệt thòi khi quá nhiều thời gian của gia đình đều dành cho sự nghiệp bóng đá của tôi. Tôi đã bộc bạch suy nghĩ này với Lynne và chị ấy cũng chia sẻ rằng nhiều lúc, có cảm giác như bị tất cả mọi người trong gia đình bỏ rơi. Chị Lynne lớn hơn tôi 3 tuổi và có những người bạn thân riêng của mình. Mặc dù vậy, khi chúng tôi còn học chung trường, chị Lynne vẫn luôn ở bên cạnh tôi dù có chuyện gì xảy ra. Tôi nhớ, trong một buổi ăn trưa ở Chingford High, tôi đã cãi vã với một cậu bé lớn hơn trong hàng, và rốt cuộc anh ta đã đánh tôi khi ra sân. Chị Lynne là người đưa tôi về nhà. Chị luôn ân cần chăm sóc tôi, mặc dù, chị không thực sự thích bóng đá. Cả hai chúng tôi hiện giờ đều đã lập gia đình: Lynne và anh rể Colin có một bé gái và một bé trai, Georgina và Freddie. Mặc dù chúng tôi không thường xuyên gặp nhau vì cả hai đều phải chăm nom lũ trẻ, nhưng tôi cảm thấy mình càng ngày càng thân với chị hơn so với khi tôi còn là một cậu bé.
Điều này lại không giống với em gái Joanne. Khi lên 5 tuổi, tôi nhớ hôm đó đang đứng trong bếp thì bố bước vào, nói rằng tôi đã có một em gái, tôi liền bật khóc. Tôi muốn một cậu em trai cơ mà! Nhưng mọi thứ vẫn ổn, chúng tôi lại thân nhau đến bất ngờ: nếu tôi muốn con bé đứng trong khung thành để làm thủ môn, nó sẽ không bao giờ từ chối. Nó luôn theo tôi mọi lúc, mọi nơi: sân bóng, công viên, cửa hàng. Joanne bây giờ cũng là một thợ cắt tóc giống mẹ, nhưng con bé mới chỉ bắt đầu công việc này vài năm trước, và khi tôi kết hôn, chúng tôi mới thôi quấn quýt như trước. Cuối cùng, con bé vẫn phải trưởng thành và tôi cũng thế. Mặc dù vậy, thỉnh thoảng tôi vẫn nhớ những khoảnh khắc vui đùa bên cô em bé nhỏ. Tôi cá là Joanne cũng sẽ nhớ những phút giây lăng xăng bên “đại ca” của mình.
Mẹ luôn muốn cả nhà sẽ cùng ăn tối trong không khí ấm áp của gia đình. Đó cũng là thời gian để bố mẹ lắng nghe tôi chia sẻ về một ngày dài ở trường. Bây giờ tôi cũng làm điều đó với Brooklyn. Nhưng nếu tôi hỏi thằng bé thì câu trả lời nhận được có lẽ cũng giống như câu trước đây bố vẫn thường nghe từ tôi: Không có gì cả. Đó chẳng phải là bí mật hay thứ gì đó đại loại thế. Ngay từ khi là học sinh tiểu học, tôi đã biết phụ giúp mẹ chuẩn bị bữa tối cho cả nhà. Tôi dẫn Joanne ra chơi ở sau vườn hoặc trước cửa phòng để mẹ không bị vướng víu khi Joanne mới chỉ chập chững biết đi. Đến giờ vào bàn ăn, tôi lau bàn. Sau đó, khi lên trung học, tôi đã chọn môn Kinh tế gia đình và Nấu ăn, bởi vì nếu không thì thay vào đó là hai tiết Khoa học. Tôi thích vào bếp mỗi khi ở nhà. Khi tôi 13 tuổi, nếu mẹ bận phải làm việc, mẹ sẽ để tôi chuẩn bị bữa tối cho cả nhà. Nếu mẹ đang cắt tóc tại nhà, tôi sẽ chuẩn bị mấy chén trà và một chút bánh kẹo cho khách của mẹ.
Tuy nhiên, có vẻ như đã có một chút sai lầm khi tôi theo học trung học tại trường Chingford High ở Nevin Drive, bởi lẽ ở đây, người ta thường chơi bóng bầu dục (rugby), thay vì bóng đá. Nhưng thật may mắn, giáo viên dạy rugby của tôi, thầy John Bullock, rất nghiêm khắc và kỉ luật, nhưng lại là một người đàn ông dễ mến. Thầy luôn tốt với tất cả chúng tôi và dường như luôn dành nhiều thời gian cho tôi. Thầy là một người tuyệt vời. Thầy đã qua đời vài năm trước, đúng vào đêm mà tôi bị truất quyền thi đấu trong trận gặp Argentina ở Saint-Etienne. Thầy là một trong số ít giáo viên mà tôi vẫn còn giữ liên lạc. Thậm chí ngay sau lần đầu tiên xuất hiện tại Old Trafford, tôi đã viết một vài dòng thư gửi thầy, cũng như quay trở lại thăm thầy và trường cũ. Tôi nghĩ điều này có ý nghĩa rất lớn với thầy. Mọi người thường bảo tôi rằng thầy ấy thực sự yêu quý tôi, và dường như lúc nào cũng kể về tôi.
Ban đầu, tôi không nghĩ thầy Bullock quan tâm đến bóng đá, nhưng có nhiều lần khi chúng tôi cứ đeo bám mãi, thầy đã đồng ý thử chơi môn thể thao này. Và mọi thứ đã thay đổi. Ngay khi thành lập đội bóng của trường, chúng tôi bắt đầu giành được những danh hiệu có ý nghĩa rất lớn. Và điều đó cũng là vinh dự đối với nhà trường. Có lẽ bóng đá đã giúp chúng tôi hạnh phúc khi còn ở đó. Tôi không có được hứng thú như thế với bài vở trên lớp. Tôi đã từng là nhà vô địch chạy việt dã thành phố và vô địch bơi lội ở Chingford High, nhưng chỉ có một điều tôi muốn làm với cuộc đời mình. Tôi thật may mắn khi đã tìm ra động lực ngay từ khi tuổi đời còn rất trẻ. Tôi hiểu những gì mình muốn trong tương lai, nhưng điều gì sẽ chờ đón trong suốt chặng đường dài? Tất nhiên, có một vài lần tôi cũng đã gặp rắc rối vì sự hỗn xược, giống như mọi nam sinh khác, nhưng về căn bản, tôi vẫn là một cậu học trò ngoan và luôn hoàn thành bài tập về nhà. Tôi thường ghé vào nhà Alan Smith, nhờ cô Pat - mẹ của cậu ấy - làm giúp bài tập toán. Tôi vẫn còn nhớ, cô ấy rất giỏi toán, và Alan cũng vậy. Hiện giờ, cậu ấy đang làm việc cho công ty bảo hiểm Rothschild, và tôi cũng thường đến thăm Alan. Cậu ấy đã kết hôn và đã chuyển đi nơi khác nhưng vẫn làm việc trong căn hộ của bố mẹ cậu ấy. Điều quan trọng là tôi không bao giờ nghỉ học ở trường, trừ khi bị ốm, dù là trường Tiểu học Chase Lane hay trường Trung học Chingford.
Nếu không phải là bóng đá, tôi không biết mình sẽ làm gì khi lớn lên nữa. Tôi thích âm nhạc và khi ở trường tiểu học, họ nghĩ tôi có một chất giọng khá ổn. Tôi đã hát một mình trong dàn hợp xướng của trường ngay trước khi rời khỏi đó. Nhưng môn học mà tôi thực sự thích là Mỹ thuật. Ngay cả trước khi đến trường Chingford, tôi vẫn thích vẽ và tô màu. Giống như quãng thời gian ở trường Chase Lane, cô Joan có tất cả những thứ chúng tôi cần để vẽ trong lều tại công viên. Vào những ngày mưa, tôi dành cả ngày để vẽ lại những bức hình nhân vật trong phim hoạt hình Disney. Tôi vẫn nhớ chú vịt Donald là nhân vật yêu thích nhất của tôi. Khi lớn hơn, tôi bắt đầu vẽ những nhân vật do tôi tự sáng tạo ra. Và rồi những tác phẩm mỹ thuật đó của tôi dần hướng về bóng đá. Khi bắt đầu thi đấu cho Ridgeway Rovers, thay vì vẽ các nhân vật kiểu như Mickey và Donald, tôi bắt đầu vẽ những bức hoạt hình của các trận đấu và những cầu thủ góp mặt trong đội: những bàn thắng tuyệt vời, cùng với Stuart Underwood phía ngoài sân, và cả những lời nói của ông cũng được đưa vào trong khung hình.
Chơi bóng cho đội bóng của trường là một vinh dự lớn và là cách tốt để tiếp cận các giải đấu ở quy mô cao hơn. Tôi đã từng thi đấu cho quận Waltham Forest và hạt Essex. Từ những buổi tối chơi bóng cùng với bố trong công viên, tôi thật may mắn khi có thêm những người thầy giỏi. Don Wiltshire và Martin Heather, cả hai đều là những huấn luyện viên tuyệt vời đối với những đứa trẻ ở tuổi “teen” như tôi. Don, huấn luyện viên của đội bóng quận, là một người khá cứng nhắc, có một thân hình săn chắc và giọng nói trầm. Đặc biệt, ông luôn nắm rõ đâu là những thứ cần thiết với toàn đội. Lần đầu tôi thi đấu cho Waltham Forest, cảm giác giống như mình được tuyển chọn để thi đấu cho tuyển Anh vậy.
Mọi người đôi khi chỉ trích bóng đá trong trường học vì cho rằng tất cả các đội đều cố gắng cướp bóng từ phía đối thủ thật nhanh, sử dụng chiến thuật “đẩy bóng và chạy” và dùng những cậu nhóc cao to để kiểm soát trận đấu. Tất cả những gì tôi có thể nói là, khi tham gia ở cấp độ quận hay hạt, mọi thứ hoàn toàn khác so với bóng đá học đường. Tất cả mọi người trong đội luôn cố gắng thi đấu. Phải mất một quãng thời gian tôi mới có thể lọt vào đội hình thi đấu bởi lẽ tôi nhỏ hơn hầu hết các cầu thủ khác trong đội. Nhưng mỗi khi có cơ hội, Don và Martin đều động viên tôi, và cả toàn đội, hãy thi đấu dựa vào những điểm mạnh của mình. Martin Heather là huấn luyện viên của hạt Essex và có một số điểm hoàn toàn trái ngược với Don hay Stuart Underwood, về vấn đề này. Tất cả lũ trẻ đều yêu quý ông. Martin cũng là mẫu người mà các bà mẹ của chúng ta sẽ thích: điềm tĩnh, thông minh và rất khéo ăn nói. Ông cũng thuộc tuýp huấn luyện viên rất khác biệt. Ông hiếm khi la hét, nhưng một khi ông làm điều đó thì bạn phải biết là ông đang rất không vui. Ông luôn ân cần chăm sóc tất cả chúng tôi. Còn nhớ, ông đã đích thân dẫn chúng tôi tham gia một tour du đấu đến Texas khi tôi 13 tuổi. Tôi cứ nghĩ tất cả các bố mẹ phải quyên góp tiền, nhưng Martin đã lo chu đáo tất cả mọi thứ.
Nhưng dù tôi ở Hackney Marshes hay ở tour du đấu nước ngoài thì cũng không có quá nhiều khác biệt. Quan trọng là tôi được chơi bóng. Bởi thế, hầu hết các chuyến đi thi đấu chỉ thoáng qua trong đầu tôi. Đến giờ, tôi chỉ nhớ: lên máy bay, sau đó, cả đội ăn, ngủ, thi đấu, quay trở lại máy bay và về nhà. Thế nhưng, tôi vẫn còn nhớ chuyến cả đội Essex đi thi đấu tại châu Mỹ.
Tôi yêu nước Mỹ. Tôi yêu tinh thần yêu nước, lối sống của họ. Tôi thậm chí còn không cảm thấy nhớ nhà gì cả. Chuyến đi đó rất khác, bởi lẽ thay vì ở cùng nhau, chúng tôi được chia nhỏ ra vào các gia đình tại địa phương. Người đầu tiên mà tôi ở cùng là người Mexico. Ngôi nhà của họ chỉ hơn cái lán một chút, nhưng thực sự mà nói, họ là những người rất tuyệt vời. Họ có một người con trai cũng tham gia giải đấu đó. Họ gần như phát cuồng với bóng đá. Tất cả các đồng đội của tôi sống trong những căn nhà lớn hơn và được đưa đón bằng những chiếc ô tô khá rộng rãi. Trong khi chúng tôi chỉ được đưa đến McDonald’s để ăn sáng vào mỗi sáng bằng chiếc xe bán tải. Tôi đã có một tuần thật thú vị cùng với gia đình họ. Thậm chí, bây giờ, thỉnh thoảng tôi vẫn nhớ đến họ.
Vui vẻ khi ở nhà và chơi bóng thỏa thích, chỉ có một điều duy nhất khiến tôi phải lo lắng: Manchester United sẽ không bao giờ để ý tới tôi khi tôi vẫn còn ở London. Mặc dù chính sách của Ridgeway là không cho phép các cầu thủ trẻ chuyển thẳng sang một câu lạc bộ chuyên nghiệp, nhưng tôi không chán nản. Tôi đã có một khoảng thời gian tuyệt vời để thi đấu và tập luyện cùng đội và, vì bố tôi, tôi chỉ muốn chơi bóng cho một câu lạc bộ chuyên nghiệp duy nhất. Tôi chỉ cần tin tưởng rằng, nếu tiếp tục tập luyện chăm chỉ, United sẽ để ý đến tôi. Liệu tôi có thể làm gì khác hơn nữa được chứ?
Có thông tin xoay quanh sự thành công của Ridgeway Rovers và chúng tôi cũng quen với việc có các tuyển trạch viên xuất hiện tại các trận đấu của chúng tôi mỗi tuần. Tôi biết bố đã được một vài tuyển trạch viên của West Ham và Wimbledon, cũng như Arsenal và Spurs, tiếp cận. Vào thời điểm phải đưa ra quyết định lựa chọn một câu lạc bộ chuyên nghiệp, tôi buộc phải chọn một trong hai câu lạc bộ ở Bắc London, bởi lẽ, dù sao tôi cũng chưa thể đến United, trừ khi chúng tôi chuyển tới Manchester để sống. Và tôi đã quyết định chọn Spurs. Có lẽ lựa chọn đó liên quan đến sự say mê cuồng nhiệt của ông ngoại tôi với Tottenham. Tôi vẫn còn nhớ những gì đã nói với mẹ khi ấy:
“Ông sẽ vui lắm, phải không mẹ?”
Tottenham là một câu lạc bộ khá thân thiện; hồi đó David Pleat là ông bầu của đội. Ở đó, tôi cảm giác như ở nhà. Phương pháp huấn luyện rất tốt và Spurs có một số cầu thủ xuất sắc ở độ tuổi của tôi: Nick Barmby và Sol Campbell. Tôi không biết huấn luyện viên và các cầu thủ khác nghĩ gì khi tôi xuất hiện để tập luyện cùng cả đội trong khi đang mặc bộ áo thi đấu của Manchester United. Tôi sẽ không giấu giếm tôi là một fan của Manchester United, mặc dù tôi cũng rất thích quãng thời gian tại White Hart Lane.
Bất chấp sự quan tâm từ các đội bóng London, trong tâm trí tôi chỉ có Manchester United. Trong việc tôi trở thành một cổ động viên và một cầu thủ của United, chắc chắn có vai trò chính của bố. Ông là một Cockney Red[1] chính hiệu. Và dường như ông truyền cảm hứng đó cho tôi trước cả khi tôi biết ông đang làm điều đó. Năm bố tôi 10 tuổi, xảy ra thảm họa Munich 1958. Khi ấy, ông đã theo dõi United và thảm họa đó đã trở thành nỗi ám ảnh trong suốt cuộc đời ông. Tôi nghĩ điều đó đúng với rất nhiều cổ động viên United cùng thế hệ với bố tôi. Khi tôi còn nhỏ, ông thường kể cho tôi nghe về United đương đại với những Robson, Strachan, Hughes và phần còn lại. Ông cũng thường nói về Những đứa trẻ của Busby, về Cúp châu Âu tại Wembley, về Best, Stiles, Law và Charlton. Còn có câu lạc bộ nào khác dành cho tôi? Tôi, một thiếu niên tuổi “teen”, mọi người nói rằng tôi chỉ có một nửa cơ hội để trở thành một cầu thủ chuyên nghiệp. Tôi không biết về sự ra đời của United; nhưng tôi sinh ra là để dành cho United. Và điều khiến tôi không ngừng phấn đấu là ý nghĩ rằng: cuối cùng thì tôi cũng sẽ nhận được cuộc gọi mà tôi đã chờ đợi từ rất lâu rồi, kể từ khi tôi thực hiện cú sút đầu tiên của cuộc đời mình.
[1] Người London nhưng lại dành tình cảm cho Manchester United.