Gần 17 năm trước, khi bắt đầu chiến dịch “thu gom” sách và đọc để chuẩn bị cho việc có con, tôi thực sự bị “choáng”. Biết bao khái niệm đã hình thành trong tôi từ những ngày còn thơ bé, gần như đã trở thành bất di bất dịch, dần dần vỡ tan như bong bóng xà phòng.
Phải sau gần một năm, tôi mới bắt đầu hiểu ra một sự thật:
Ở các nước phát triển, cụ thể là Anh và Mỹ, hầu hết các ông bố bà mẹ đều có kế hoạch và sự chuẩn bị chu đáo trước khi quyết định có con. Đối với họ, quyết định có con là tự nguyện chứ không bị ai ép buộc hoặc tác động vào. Khi một đứa trẻ được sinh ra, ngoài niềm vui, đó là trách nhiệm lớn lao của bố mẹ đối với con và với xã hội. Ở các nước này, giáo dục phổ thông trong hệ thống trường công của nhà nước (cho công dân họ) là bắt buộc và miễn phí hoàn toàn. Còn học đại học lại là việc khác: Muốn cho con học đại học, các ông bố bà mẹ có hai cách:
1. Lập kế hoạch tài chính ngay khi (hoặc thậm chí trước khi) đứa trẻ được sinh ra: Với các gia đình có khả năng, họ có thể mở một tài khoản riêng dành cho việc học đại học của con hoặc mua bảo hiểm thời hạn 18 năm để khi con đủ 18 tuổi, bố mẹ sẽ có một khoản tiền giúp chúng học đại học. Nhìn chung, không có nhiều ông bố bà mẹ thực hiện phương án này.
2. Vì bố mẹ chỉ phải có trách nhiệm với con đến 18 tuổi nên học đại học là việc của con. Con muốn vào đại học phải vay tiền từ các nguồn, rồi trả dần khi bắt đầu đi làm việc. Vậy mới có cảnh ở Mỹ, có người khi về hưu vẫn chưa trả hết nợ học đại học.
Ở Việt Nam, rất ít cha mẹ lập kế hoạch chuyện học hành của con một cách chu đáo. Tôi chưa thấy ai hỏi tôi về việc lập kế hoạch cho con học đại học ngay khi đứa bé vừa được sinh ra. Ngược lại, các bậc phụ huynh bắt đầu nghĩ đến và chuẩn bị cho con đi du học lúc chúng 15 – 16 tuổi đã được khen là biết chuẩn bị sớm. Còn theo tôi, lúc đó cũng đã là hơi muộn (nếu không muốn nói là rất muộn).
Sẽ có một câu hỏi to tướng phát sinh: Chuẩn bị gì mà kỹ thế? Cứ có tiền bỏ ra là đi DU HỌC được mà? Theo quan điểm của tôi, sau khi tốt nghiệp phổ thông, học bất cứ cái gì, kể cả đại học, đều là một dạng đầu tư và là quyết định đầu tư quan trọng nhất cho cuộc đời của con cái. Nếu bạn lập kế hoạch sớm và đúng (không chỉ về tài chính) thì tiền vốn phải bỏ ra có thể sẽ không đáng kể, nếu không nói là hầu hết mọi người có thu nhập trung bình đều có thể đủ sức cho con du học. MIỄN LÀ BẠN PHẢI TÌM HIỂU ĐỦ THÔNG TIN VỀ HỆ THỐNG GIÁO DỤC CỦA CÁC NƯỚC KHÁC NHAU và phải biết đủ sớm để còn kịp chuẩn bị.
Còn nhớ, cách đây 8 năm, khi một cậu cùng công ty tôi kể về cô con gái 10 tuổi mới chuyển từ Hà Nội vào, đang học tiếng Pháp, tôi khuyên rất nhiệt tình: “Nếu em đủ khả năng, cho con vào học trường Pháp”, hình như chi phí lúc đó gần 1.500 – 2.000 Euro/năm. Cô bé đó hiện nay đang học tại Pháp, mỗi năm bố mẹ vẫn chỉ phải trả tổng cộng 2.000 Euro vì được tài trợ một phần tiền ăn ở (còn rẻ hơn học đại học ở Việt Nam?) Chắc nhiều người biết, học đại học ở các nước châu Âu (trừ ở Anh), học sinh ngoại quốc được đối xử tương tự với dân bản địa. Do vậy, hầu hết các em không phải trả học phí, chỉ phải lo tiền ăn ở. Rất nhiều bạn trẻ chỉ cần bố mẹ lo cho 6 tháng hoặc 1 năm đầu, sau đó là vừa học vừa làm, thậm chí còn dư tiền bỏ tiết kiệm. Nếu biết trước là thu nhập hạn hẹp, sao bạn không nghĩ đến phương án này từ sớm và thay vì “chạy theo đám đông” để bằng mọi cách cho con học tiếng Anh, có ai nghĩ TIẾNG ĐỨC, TIẾNG PHÁP sẽ là giải pháp? Nếu con bạn thành thạo ngôn ngữ đó (được học từ sớm), chắc chắn sẽ kiếm được những tài trợ cho phần tiền phải trả cho việc ăn ở.
Tất nhiên, với những gia đình có điều kiện hơn về kinh tế, thì tiếng Anh (và du học ở những nước nói tiếng Anh) vẫn là lựa chọn số 1. Trong các bài tiếp theo, tôi sẽ chia sẻ kỹ về việc chuẩn bị cho con du học Anh và Mỹ.
Tôi đã gặp gỡ nhiều sinh viên Việt Nam du học ở nước ngoài. Nói chuyện với các em, tôi cảm thấy vừa thương, vừa xót xa, lại tiếc và giận. Tiếc là nhiều gia đình, bố mẹ phải “thắt lưng buộc bụng” cho con đi du học để rồi các em “thu mình”, sống cuộc sống y xì ở Việt Nam, thu gọn mọi sinh hoạt trong cộng đồng sinh viên Việt Nam. Thậm chí, có những em chỉ ở lỳ tại ký túc xá, không biết bất cứ danh lam thắng cảnh nào của chính thành phố đó. Các cụ nói “đi một ngày đàng, học một sàng khôn”, còn nhiều em thì bay đến “mấy ngày đường” mà cái sàng khôn (không chỉ về học vấn) chẳng được bao nhiêu. Quà bố mẹ gửi cho các em là những thùng mì ăn liền to đùng mà cái hại của mì ăn liền thì chắc ai cũng biết? Nhiều em, khi tôi rủ đi ăn, không hề biết ăn đồ Tây, chỉ thích vào quán Việt hoặc quán Tàu. Ô hay, đồ Việt và đồ Tàu mình tự nấu được, sao không thử các đồ ăn khác? Còn giận là giận bố mẹ các em, không biết chuẩn bị tâm lý và cách sống, cách nghĩ “thoáng hơn” (open minded) cho con từ sớm, để chúng có thể học được những điều hay, tốt của đất nước mà mình may mắn có dịp sinh sống. Có thể nhiều người lo lắng về việc con mình bị “Tây hóa”, rồi hành xử y như Tây trong mọi trường hợp? Thay vì muốn chúng khép mình để khỏi “hư”, hãy dạy chúng biết phân biệt điều hay và cái dở. Nhưng điều cơ bản mà các bậc phụ huynh hay “kêu ca” đó là “nó không nghe lời bố mẹ nữa”. Cái này thì tôi không tán thành. Với những việc của cuộc đời chúng, hãy để cho con tự quyết định. Cái bạn cần chuẩn bị cho con trước tiên là trách nhiệm của chính nó với bản thân. Con bạn sẽ không bao giờ có trách nhiệm với bản thân hoặc với ai khác nếu mọi việc bạn quyết hộ và bắt chúng làm theo.
Trước khi quyết định cho con đi du học sớm, bạn phải cân nhắc thật kỹ để đảm bảo con bạn đã được chuẩn bị tốt nhất. Nên xác định trước ít nhất 1 – 2 năm, với các việc cụ thể cần chuẩn bị như sau:
1. Về ăn uống: Cách chăm sóc của các bà mẹ Việt Nam hay làm cho các cháu rất khó tính trong việc ăn uống và chỉ có thể ăn được các món do mẹ nấu. Tôi đã từng gặp những cô cậu (tuổi cũng đã lớn, trên 15 – 16) khi ăn gì cũng so với các món mẹ (bà) từng nấu. Ăn cơm cùng, có cháu còn nói bác phải làm đậu phụ (thịt xá xíu) như ở nhà cháu hay ăn. Tôi liền bảo: “Cháu có lựa chọn là tự làm hoặc về nhà ăn. Nhưng tốt nhất là cháu nên làm quen với các loại đồ ăn khác nhau, thì sẽ có cuộc sống thoải mái và dễ chịu hơn”. Nên cho các cháu ăn nhiều loại đồ ăn, cũng đừng “nâng cao” hoặc ca ngợi một món nào đó do bố, mẹ hoặc bà làm bởi mục đích có thể là chỉ làm cho người lớn vui lòng nhưng sẽ gieo vào tâm lý trẻ con là các món ăn khác là không chấp nhận được. Chúng sẽ từ chối thử, trước tiên là món ăn mới, rồi các hoạt động mới. Tôi vẫn nghe các bà mẹ khoe một cách tự hào: “Chồng (con) em khó tính lắm. Chỉ có em nấu thì mới chịu ăn thôi!”. Đó có thể là niềm vui trong gia đình, nhưng lại vô tình trở thành “lực cản rất lớn”, khi con vào đời.
Vì hết sữa, tôi bắt đầu cho con ăn dặm lúc 3,5 tháng. Tôi lên thực đơn tất các các loại đồ ăn phù hợp với lứa tuổi và xoay tua cho con ăn. Món con thích, tôi cho ăn 2 lần/tuần, món ít thích hơn thì 1 lần/tuần. Bằng cách sử dụng sách, truyện tranh, tôi làm quen dần cho con cách ăn sao cho khoa học, ít tốn thời gian và giúp ta khỏe mạnh. Mỗi tuần, tôi cùng con ra ăn ngoài một vài lần, để con làm quen với món ăn của các dân tộc khác. Tôi cũng hay tâm sự với con: “Có những món mình thích và những món mình không thích. Khi có điều kiện, mình có thể lựa chọn. Nhưng khi không có điều kiện thì phải cắn răng mà nhai, mà ăn để tồn tại đã”. Con gái tôi rất thấm nhuần quan điểm này.
2. Về sinh hoạt: Các cháu có cuộc sống khép kín, ít bạn bè, bố mẹ lại hầu như không chia sẻ, tâm sự với con, sẽ hay có vấn đề về tâm lý khi đi xa môi trường quen thuộc. Hãy tâm sự với con, dạy con cách làm quen với người lạ, cách chia sẻ với người khác khi họ có khó khăn. Và cũng đừng ngại ngần tìm sự giúp đỡ khi mình có khó khăn. Khi con tâm sự với bố mẹ, đó là con cần một chỗ dựa, một lời khuyên, một sự thông cảm. Nếu bố mẹ cứ nghĩ là con chưa cố gắng, chưa quyết tâm và lại định “củng cố” sự quyết tâm đó bằng cách mắng mỏ và gạt đi, đó là bạn đang đẩy con vào sự cô đơn và mất định hướng.
3. Về khả năng sử dụng tiếng bản địa tại nơi con sẽ đến: Các bạn hãy tưởng tượng xem, ta nói tiếng Việt từ khi 1 – 2 tuổi. Vậy mà khi đến một địa phương nào đó cùng nói tiếng Việt nhưng có phát âm khác với nơi ta sống, ta cũng phải mất vài tuần để làm quen và hiểu họ nói gì. Con cái ta học ngoại ngữ được vài ba năm, sang xứ họ, nghe được vài câu chào hỏi đã là khá. Nếu bạn không xác định rõ cho con là chẳng việc gì phải xấu hổ khi con nói mà họ không hiểu, hãy nhắc lại cho đến khi họ hiểu. Nói thật, cách đây 35 năm, trong những lần làm việc bằng tiếng Anh, tôi nói bằng tay là chính. Nếu họ không hiểu, tôi hay đùa họ là: “Sao tiếng Anh ông (bà) kém thế, để hôm nào rảnh tôi dạy ông nhé!”. Tất cả phá lên cười, tôi cũng thấy thoải mái hơn. Hãy tập cho con sự tự tin, ham học hỏi, không ngại giao tiếp và không cần xấu hổ khi mình không làm điều gì xấu hoặc cư xử bất lịch sự. Rất đáng mừng là khả năng ngoại ngữ của các cháu bây giờ giỏi hơn thời chúng tôi nhiều nhưng để giao tiếp thoải mái, cần sự tự tin, sự cố gắng hòa nhập vào môi trường mới. Kỹ năng đó rất kém ở người Việt Nam chứ không chỉ riêng con cháu chúng ta.
Nếu chưa chuẩn bị được ít nhất là mấy điều kiện trên, lời khuyên của tôi là chưa nên cho con đi du học.
Có một cách rất tốt để thử xem con đã sẵn sàng chưa: Hãy tự tìm và đăng ký cho con đi một trại hè nào đó (2 – 3 tuần) ở nước dự kiến cho con du học. Không nên đi theo các trung tâm tổ chức cho học sinh Việt Nam mà hãy cho con đi một mình, đến một trại hè không có người Việt Nam nào tham gia. Sau kỳ đi đó, chắc chắn con bạn sẽ hiểu rõ hơn cuộc sống đó có phù hợp với chúng không. Chỉ sau một kỳ trại hè do tôi tự tìm và đăng ký cho con gái tại Anh 3 tuần, lúc hơn 7 tuổi, con tôi đã tự quyết định và yêu cầu tôi cho đi du học.