• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Đi dọc Hà Nội
  3. Trang 11

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 10
  • 11
  • 12
  • More pages
  • 42
  • Sau

8 DỊ NHÂN HÀ THÀNH

Người có tính cách hay lối sống khác lạ làm những việc không giống ai song không hại ai nhưng không phải là điên thì người đời thường gọi họ là: dị nhân, lập dị hay gàn dở... Xã hội nào cũng có, thời nào cũng có những người như vậy và thế kỷ XX, Hà Nội ít nhất cũng có hai người...

Pétrus Lê Công Đắc nhà ở phố Sinh Từ (nay là phố Nguyễn Khuyến). Không rõ ông xuất thân thế nào nhưng nhiều người khẳng định, Lê Công Đắc không tốt nghiệp trường nào vì thập niên 20 thế kỷ XX Hà Nội chỉ có vài trường cao đẳng và số học sinh Việt Nam cũng không nhiều nên ai học thì gần như cả thành phố biết. Không học hành trường nào nhưng thiên phú cho ông khả năng học ngoại ngữ, tự học tiếng Latin và chỉ trong một năm ông đã thông thạo khiến nhiều sinh viên trường thuốc kính nể. Vì sao người ta gọi ông là giáo sư? Thời nay, học hàm giáo sư do nhà nước phong nếu người đó đáp ứng đầy đủ các tiêu chí đặt ra nhưng thời Pháp thuộc, cứ dạy học thì xã hội đều gọi là giáo sư. Còn vì sao ông lấy tên thánh Pétrus dù ông không theo công giáo, người ta cho rằng ông bắt chước Trương Vĩnh Ký, một học giả ở Sài Gòn nổi tiếng cả nước cuối thế kỷ XIX.

Ở nông thôn thì muộn hơn nhưng tại các thành phố lớn trong đó có Hà Nội, nhiều thanh nữ đã cạo răng đen thành răng trắng, còn nam thanh để tóc ngắn (bằng chứng là đầu thế kỷ XX, Hà Nội đã có rất nhiều hiệu cắt tóc và thanh niên làng Kim Liên theo nghề này rất đông) nhưng Pétrus Lê Công Đắc vẫn để tóc dài và xõa ra giống như các nhà triết học phương Tây. Đi đâu cũng cắp theo cuốn sách tiếng Pháp dầy cộp và cài chiếc bút máy ở túi áo ngực. Nhận thấy các cuốn tự điển dầy cộp to tướng không tiện cho người sử dụng nếu họ muốn học hay tra từ lúc đi chơi ông đã kết hợp với Barbier soạn tự điển Pháp Việt nhỏ gọn, và nó đã được các thầy tu ở Nhà Chung xuất bản.

Tử những năm 1920 nhu cầu người lớn tuổi học tiếng Pháp là rất lớn, vì nói được tiếng Pháp sẽ dễ xin được chân lái xe, làm lao công, phục vụ ở sở Tây và nói được tiếng Pháp cũng dễ xin làm giúp việc cho gia đình Tây. Lại thêm học sinh các trường tiểu học kém môn tiếng Pháp cũng muốn luyện thêm nên Pétrus Lê Công Đức đã thuê nhà ở phố Gia Long (nay là Bà Triệu) mở lớp dạy tiếng Pháp và tiếng Latin theo các trình độ khác nhau. Với người cao tuổi, để họ dễ nhớ ông đã soạn thành thơ lục bát, hay sưu tập các kiểu học tiếng Pháp bồi ở các tỉnh thành khác đưa vào giáo trình, ví dụ:

Pe-re (Peré) tiếng gọi là cha

Me-re ( Meré) là mẹ, ông bà e-ơ ( aieux)

Hay:

Bớp(boeuf) bò, sư tử li-ông (lion)

Sơ-vanh (cheval) con ngựa, mu- tông (mouton) con cừu

Cốc (coq) gà, siêng (chien) chó, ti (tigre) beo

Ca- na (canard) con vịt, sa (chat) mèo, búp (buffle) trâu

Manh (main) tay, cu (cou) cổ, tét (tête) đầu

Đăm (dent) răng, bít (bouche) miệng, má ru (joue), ria (rire) cười

...

La (la) cái, lơ (le) đực, nhiều lê (les)

Muối xen (sel),cua(cuire) nấu, mết(mets) chè, ru (jus) canh

Bo (beau) tốt, bua (pur) sạch, ve (vert) xanh

Phu (fou) điên, le (laid) xấu, rượu vinh (vin) lam (lampe) đèn

...

Với các lớp nâng cao, ông cho học sinh ngồi quanh chiếc bàn tròn còn ông ngồi giảng bài, chấm bài ở bàn bên cạnh. Ông cho bài tập thật nhiều, bài dịch Pháp-Việt, Việt-Pháp, viết chính tả, làm bài luận. Trong buổi học, ông vừa giảng, vừa giải đáp các câu học của học viên vừa chấm bài mà tất cả vẫn đâu ra đấy. Có một chuyện thật như bịa không thấy ở bất cứ một lớp học nào là học viên dù đã nghỉ học nhưng ông vẫn đến tận nhà trả bài mà ông chưa chấm xong hoặc đã chấm xong nhưng chưa kịp trả.

Khi tiếng Hán thất thế trước tiếng Pháp và ngày càng ít người học nhưng Lê Công Đắc vẫn mở lớp. Ông dùng sách Nhất Thiên Tự, Tam Thiên Tự, Ngũ Thiên Tự để dạy học viên.

Thiên trời địa đất, vân mây

Vũ mưa, phong gió, trú ngày, dạ đêm

Nhạc non, sơn núi,hà sông

Lâm rừng, hải biển, nguyên nguồn, khê khe

Thử đầu, mục mắt, nhĩ tai

Yêu lưng, phúc bụng, kiên vai, càm cầm

Hay

Thiên trời, địa đất

Cử cất, tồn con

Tử con, tôn cháu

Lục sáu, tam ba

Gia nhà, quốc nước

Tiên trước, hậu sau

...

Không chỉ dạy học, ông còn viết kịch, khi xuất hiện phong trào "Tiểu thư đi bộ" ở Hà Nội (các cô gái mặc quần sooc đi bộ đến chào Thầy), ông đã viết một vở hài kịch châm biếm. Năm 1936, Lê Công Đắc quảng cáo trên "Hà Nội báo" theo kiểu dùng thư cảm ơn của học viên đỗ tiếng Pháp cao in kèm ảnh của họ và ảnh của giáo sư Lê Công Đắc. Cụ thể một quảng cáo có nội dung "Tôi là Đỗ Trọng Quát cám ơn giáo sư Pétrus vì nhờ theo các cua học của giáo sư mà tôi đã đỗ cao trong kỳ thi...". Giới trí thức thời đó lưu truyền câu chuyện hư thực về luật sư Nguyễn Mạnh Tường, người đậu tiến sĩ văn chương và luật khi mới 22 tuổi, mắc lỗi khi chấm thi tú tài Pháp ở Hà Nội vàLê Công Đắc đã tìm ra những chỗ trò đúng mà người chấm chưa chuẩn rồi đưa lên báo. Đọc những ý kiến đóng góp, luật sư Nguyễn Mạnh Tường phải công nhận là Lê Công Đức nói đúng. Do có những việc làm khác người nên Pétrus Lê Công Đắc bị thiên hạ coi là "gàn bát sách" và báo Phong Hóa của Tự lực Văn đoàn liên tiếp có nhiều số chế riễu ông nhưng không vì thế mà số học trò giảm đi.

Trong dân gian vẫn lưu truyền câu chuyện "Đại lãn chờ sung", lời kể hài hước nhưng có tính giáo dục "Muốn ăn thì phải làm", song ở Hà Nội thời bao cấp có một người chỉ chơi không làm gì mà vẫn có ăn, vẫn chè Tầu thuốc lá, đó là ông Nguyễn Trần Thanh ở Ô Chợ Dừa. Sinh ra trong gia đinh khá giả ở phố Khâm Thiên, bé đi học nhưng chỉ học hết tiểu học, dứt khoát bỏ dù cha mẹ khuyên bảo, ne nẹt rồi ngon ngọt. Năm 1936, phố Khâm Thiên xuất hiện các nhà hát khiêu vũ, Thanh bắt nhịp ngay và do có năng khiếu nên nhiều người nhờ Thanh hướng dẫn và họ bao đủ thứ. Nhiều cô gái mê mẩn song Thanh không màng nên chủ báo Đông Tây, dân khiêu vũ và chơi bời có hạng Hoàng Tích Chu gọi Thanh là " thằng không hột". Năm 1954, gia đình di cư vào Nam nhưng con cả và Thanh không chịu đi, bà mẹ đã để lại một cái nhà và viết giấy cho hai anh em. Sau hòa bình ít lâu, Thanh bán phần cha mẹ chia cho anh cả rồi ra Ô Chợ Dừa nhẩy dù đất hoang dựng nhà tranh. Ngày đó đất rộng, người thưa và "đất đai là của nhân dân lao động" nên chính quyền cũng không có ý kiến gì. Bốn gian nhà lá rộng thênh thang, Thanh ở một gian còn ba gian cho mấy bà chuyên mua giấy cũ thuê làm kho lấy tiền chè Tầu thuốc lá. Thanh không mua gạo cung cấp như các gia đình mà lên phòng lương thực xin đổi ra 13 kg tem gạo để ăn cơm mậu dịch. Mỗi bữa cơm mậu dịch mất 250 gam tem và 13 kg tem gạo chỉ đủ cho 26 ngày nên Thanh cho bà bán xôi ngô ngồi nhờ trước cửa buổi sáng, buổi tối là bà bán phở gánh. Thế là 30 ngày, Thanh không lo chuyện ăn uống. Song một suất cơm mậu dịch mất 3 hào, để có tiền Thanh bán phiếu dầu, phiếu thực phẩm, bìa mua xà phòng, đường... tổng cộng được 14 đồng, thiếu một đồng 6 hào, Thanh lấy tiền cho thuê kho đắp vào. Thế là rong chơi suốt thời bao cấp, mặc cho mọi người xếp hàng mua gạo, mặc mọi người ăn độn. Ham chơi nhưng Thanh sáng dạ, hoạt ngôn, chính vì hoạt ngôn mà Thanh suýt vào tù. Chuyện là Thanh hay la cà ở các quán chè chén 5 xu, nói chuyện súng ống của Liên Xô, Trung Quốc, chuyện xe tăng Mỹ, pháo vua chiến trường nòng dài. Lại có khi nguyên thủ Liên Xô thế này thế kia. Một hôm vừa đứng lên khỏi quán nước chè ở phố Cầu Gỗ thì có công an chìm yêu cầu về khu Hoàn Kiếm (nay là quận). Công an qui tội Thanh nghe đài địch nên mới biết nhiều chuyện thế giới như thế, Thanh thanh minh vã bọt mép rằng nhà anh cho bà buôn giấy, báo thuê làm kho nên thi thoảng đọc được các bản tin cũ. Công an bắt dẫn về nhà, hóa ra các tờ tin thế giới của cơ quan thông tấn lúc mới chạy máy bị dính mực, lem luốc còn gọi là đề xê nên họ bán cho cánh mua giấy vụn. Hú hồn nhưng Thanh vẫn không chừa, lần thứ hai bị công an Hai Bà Trưng "hỏi thăm" cũng vì biết nhiều tin tức thế giới, Thanh lại chứng minh như lần trước nên được tha.

Năm 1975, đất nước thống nhất, biết tin cha mẹ vẫn sống, cuối năm 1976, Thanh bán nhà và vào Sài Gòn, không biết sau đó cuộc sống của ông ra sao, nếu còn sống thì năm nay ông cũng đã 93 tuổi.

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 10
  • 11
  • 12
  • More pages
  • 42
  • Sau