• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Đi dọc Hà Nội
  3. Trang 10

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 9
  • 10
  • 11
  • More pages
  • 42
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 9
  • 10
  • 11
  • More pages
  • 42
  • Sau

7 TỪ THIỆN Ở HÀ NỘI XƯA

Đình làng Phú Mỹ (xã Mỹ Đình, huyện Từ Liêm) có hai đạo sắc của vua Lê Cảnh Hưng (1740-1786) cho Nguyễn Quang Minh chức Hiền cung đại phụ vì đã có lòng tốt đóp góp 250 quan tiền để phát chẩn cho dân nghèo nên được thăng chức Tham nghị. Tờ sắc thứ hai cho biết Tham nghị Nguyễn Quang Minh lại góp quỹ 50 quan phát chẩn cho dân nghèo đói nên được phong hàm Thái bộc tư khanh. Đó là bằng chứng về người làm từ thiện đất Thăng Long.

Từ đời vua Gia Long đến đời Tự Đức và kéo dài tới những năm 20 thế kỷ XX, trên các con phố nhỏ xinh của Hà Nội bao giờ cũng có vại nước vối ủ nóng và một cái bát sạch để trước cửa nhà để người đi đường khát thì uống. Và cứ đầu năm, phố trưởng đi quyên các nhà cho quỹ giúp người, đóng bao nhiêu cũng được, tùy tâm. Cũng nhờ quỹ này mà dân mất nhà vì vụ cháy các phố phía đông Hồ Gươm cuối thế kỷ XIX có thêm tiền lo chỗ ở mới.

Thời vua Tự Đức, có một bà ở Hà Nội thương người như thể thương thân, luôn giúp đỡ người nghèo khó, thiếu thốn đó là bà Lê Thị Mai. Góa chồng từ khi còn trẻ, không có con nhưng bà không đi bước nữa. Thuộc hàng khá giả ở Hà Nội nhưng bà không ham làm giầu thêm mà đã dùng số tiền đó làm nhiều quán sinh đồ ở đầu phố Hàng Giấy, Hàng Đậu gần trường đại tập của ông nghè Lê Đình Diên, một nhà Nho có khí phách chống thực dân Pháp. Trò nghèo xin trọ bà không lấy tiền, trò nào quá khó khăn bà cho tiền mua mực, sách và cho ăn. Năm 1873, Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ I thì cũng năm đó Bắc Kỳ lụt lội mất mùa, dân đói kém và kho lương của triều đình phát chẩn không đủ nên bà đã đi khắp thành vận động các gia đình khá giả ủng hộ lương thực, tiền giúp người thiếu ăn sắp chết qua cơn đói vì thế nhiều người đã mang ơn bà. Khi bà mất dân Hà Nội đã lập miếu thờ bà bên cạnh mộ. Tấm lòng thơm thảo của bà Lê Thị Mai đến tai vua Tự Đức và vị vua này đã ra sắc phong "Tiết phụ Từ". Bản đồ Hà Nội năm 1890 vẫn còn ghi rõ địa điểm mộ và miếu thờ ven hồ Trúc Bạch (chỗ giáp với đền Trấn Vũ), nhưng sau đó chính quyền thành phố mở mang nên cả miếu và mộ bị san phẳng không rõ năm nào.

Cuối thế kỷ XIX, nhiều người Việt Nam nhanh chóng bắt kịp với lề lối làm ăn của người Pháp và họ đã khá giả lên nhanh chóng trong số đó phải kể đến ông Bạch Thái Bưởi, người sau đó trở thành nhà tư sản dân tộc có hãng tầu thủy cạnh tranh với hai hãng tầu chở khách Sauvage của chủ Pháp và hãng của Hoa kiều. Cùng với công việc kinh doanh, ông Bạch Thái Bưởi cũng đã dành một phần tiền cho các hoạt động từ thiện, xã hội giúp đỡ dân nghèo ở Hà Nội và Bắc Kỳ. Trong những hai năm 1903 và 1904, Hà Nội đã xảy ra dịch bệnh làm nhiều người chết trong đó có rất nhiều xác chết vô thừa nhận nên không ai chôn cất. Thương cảm với những số phận không may, Bạch Thái Bưởi đã cùng với các ông Vũ Quang Huy, Đỗ Đình Đắc, Phạm Sỹ Hạnh, Long Ngổ... góp tiền lập ra Hội Hợp Thiện với mục đích ban đầu là "Phù thi tử lộ" chôn cất tử tế những người chết vô thừa nhận. Theo thời gian, hội không chỉ lo ma chay cho hội viên và người nhà của họ mà còn lo ma chay cho người nghèo ở ngoài hội. Để có đất chôn cất, Hội Hợp Thiện đã mua 300 mẫu ruộng của làng Quỳnh Lôi (nay thuộc quận Hai Bà Trưng) làm nghĩa địa. Và từ "độ tử" Hợp Thiện đã chuyển sang "độ sinh", giúp đỡ những người khốn cùng trong xã hội. Năm 1935, Hợp Thiện mở một quán cơm bán giá rẻ gọi là Bình dân phạn điếm ở phố ngõ Hàng Đũa (nay là Ngô Sỹ Liên), cạnh chùa Phổ Giác. Bình dân phạn điếm bán cơm cho những nhà không nhà không cửa, túng thiếu lang thang lấy nơi đây làm chỗ dựa cho hai bữa. Thành phố hỗ trợ gạo còn lại thức ăn,nấu nướng, phục vụ đều do Bình dân phạn điếm tự lo bằng nguồn kinh phí của Hợp Thiện. Vào những năm 1936, giá một bữa cơm bình dân là ba hào thì Bình dân phạn điếm chỉ lấy một hào. Cùng với mở Bình dân phạn điếm, Hợp Thiện còn đứng ra xin đất ở hai bên chùa Phổ Giác xây các dãy nhà rẻ tiền cho dân nghèo thuê. Một dãy nhà một tầng gồm 20 gian ở đầu phố Quốc Tử Giám và một dãy 10 gian nay là cuối phố Ngô Sỹ Liên lúc nào cũng chật chỗ. Năm 1938, Hợp Thiện mở thêm Viện tế bần ở phố Tholance (nay là Đoàn Thị Điểm).Viện tế bần là dãy nhà một tầng có mặt bằng khá rộng, kiến trúc đẹp, Tế bần thu nạp người thất cơ lỡ vận, sống cầu bơ cầu bất cho họ ngủ qua đêm, sáng ra còn cho ăn bát cháo trước khi họ ra phố kiếm sống. Tiếp đó năm 1940, Hợp Thiện đỡ đầu cho bà Cả Mọc, bà Vũ Quang Huy, bà Lê Trung Ngọc mở Dạ lữ viện nằm trên phố Phan Văn Trị (nay là cơ sở y tế) cho người nghèo thuê với rẻ. Dạ lữ viện có chăn ấm, nước nóng về mùa đông, chăn chiếu luôn sạch sẽ. Lúc cao điểm Dạ lữ viện có đến 300 người.

Nói đến làm việc thiện ở Hà Nội thời Pháp thuộc không thể không nói đến một người đó là bà cả Mọc. Bà tên thật là Hoàng Thị Uyên, người làng Kim Lũ trước kia làng thuộc xã Đại Kim, huyện Thanh Trì, nay thuộc phường Đại Kim, quận Hoàng Mai. Bà sinh năm 1870 và mất năm 1947. Bà là con gái cụ Cử Hoàng Đạo Thành, từng làm tri phủ, nhưng sau từ quan về quê, rồi tham gia phong trào Duy Tân. Đến tuổi lấy chồng, bà Cả Mọc nhận lời làm vợ ông Nguyễn Huy Vị, con trai một của cụ tú Nguyễn Đôn, người làng Hạ Đình (nay là phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân). Chung sống được mấy năm chưa có con thì chồng mất. Không lâu sau, cha chồng cũng qua đời, bà ở vậy để phụng dưỡng mẹ chồng, dù lúc bấy giờ tuổi bà chỉ ở khoảng 20. Nhà chồng không có ruộng nên mờ sáng bà cùng với nhiều người làng đi bán hàng thuê ở phố Hàng Đào. Khi mẹ chồng vào chùa ở, bà thuê nhà ở ngõ nhỏ phố Hàng Bạc rồi vay vốn bạn bè, chị em mở một cửa hàng nhỏ bán hàng tơ lụa ở phố Hàng Đào lấy tên là Nghĩa Lợi. Nhờ buôn bán thật thà, không nói thách nhiều lại sẵn sàng cho chịu nên cửa hàng ngày một đông khách. Năm 1923, Nam Định, Thái Bình bị vỡ đê ruộng vườn, nhà cửa lụt lội, dân đói ăn nằm la liệt trên đường, xót thương đồng bào, bà lấy tiền nhà ủng hộ, hết tiền, bà đi quyên chị em, bạn hữu và bà con buôn bán hàng phố rồi nhờ thanh niên đi phát cùng.Thấy con cái những người làm thuê, chạy xe tay lang thang trên phố vì không có ai chăm nom và buổi trưa cũng không có cơm ăn nên bà đã vận động chị em buôn bán gom lũ trẻ lại, cho ăn bữa trưa để bố mẹ chúng yên tâm kiếm tiền. Và bà nhận thấy không chỉ con cái của những người làm thuê ở Hàng Đào, Hàng Ngang, Hàng Đường... mà rất nhiều nhà có con nhỏ cần chăm sóc nên nhen nhóm ý tưởng lập nhà Tế sinh (còn gọi là Viện tế bần). Năm 1938, bà bỏ tiền mua miếng đất hơn 1000 mét vuông ở ngõ Hàng Đũa (nay là phố Ngô Sỹ Liên) để xây nhà Tế Sinh. Khi đấu thầu xây dựng, ông Thanh nhà ở Hàng Đẫy trúng thầu, ông Thanh chỉ lấy tiền vật liệu mà không lấy một đồng tiền công nào. Trên cổng ra vào bà cho đắp một khẩu hiệu "Ấu nhân chi ấu-Yêu con mình, yêu cả con người." Bên trong bà cho kẻ khẩu hiệu "Tất cả vì trẻ con" trên các bức tường. Nhờ có ông Nguyễn Văn Vĩnh và nhiều nhà báo khác đăng miễn phí liên tục mục đích của nhà Tế Sinh trên nhiều tờ báo nên người ta mới hiểu được hoạt động của lớp mẫu giáo này. Sáng sáng, những người làm thuê, nhà nghèo có con nhỏ không có người trông đã mang con đến gửi, chiều họ đón con về. Không chỉ tắm rửa cho trẻ sạch sẽ, Tế Sinh còn nuôi ăn mà không thu một đồng, nhưng ai có lòng hảo tâm tặng quà hay tiền thì hội nhận. Đốc lý Hà Nội đến thăm và không ngờ "An Nam" lại có nhà trẻ đầy tính nhân ái vì thời điểm đó, mô hình này ở châu Âu rất ít. Vua Bảo Đại nghe tin đã từ Huế ra thăm Tế sinh, trở về Bảo Đại ban cho bà bảng vàng nhưng bà từ chối. Khoảng năm 1943, bà Cả mua mảnh đất ở Nội Bài (nay thuộc huyện Sóc Sơn) xây dãy nhà để đón các lão ông, lão bà không nơi nương tựa về ở và trong mấy năm bà nuôi khoảng gần 30 cụ. Không chỉ nuôi ăn, bà còn cho mời bác sỹ từ Hà Nội lên để khám và chữa bệnh. Tháng 3-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho mời bà lên Bắc Bộ phủ dùng trà và Người khen ngợi những việc bà đã làm khi dân ta còn nhiều người nghèo khổ. Cảm kích trước những lời khen ngợi, bà thưa với Chủ tịch Hồ Chí Minh những việc làm đó không có gì to tát so với nhiều người Hà Nội lúc đó đóng góp cho hàng trăm lượng vàng cứu đói. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, bà đưa các cháu lên ấp này và mất ở đó năm 1947.

Ngoài Hợp Thiện, bà Cả Mọc, Hà Nội còn có Hội Phúc Thiện của công nhân ngành hỏa xa (trụ sở ở phố Lê Trực), Hội ái hữu tương tế rồi Hội Quảng Thiện (trụ sở ở ngõ Cổng Đục) và đặc biệt khi có lũ lụt dịch bệnh thì thanh niên, sinh viên hay Hội Công thương Bắc Kỳ đã tổ chức diễn văn nghệ ở Nhà hát lớn quyên tiền giúp người bị nạn.