• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Đi dọc Hà Nội
  3. Trang 9

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 8
  • 9
  • 10
  • More pages
  • 42
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 8
  • 9
  • 10
  • More pages
  • 42
  • Sau

6 XUẤT XỨ CÂU "TỰ NHIÊN NHƯ NGƯỜI HÀ NỘI

Có một thành ngữ về Hà Nội cho đến nay vẫn lưu truyền trong cuộc sống như "Ốc tháng Mười, người Hà Nội", " Một mét vuông bẩy thằng ăn cắp", hay "Tự nhiên như người Hà Nội". Nhà văn Nguyễn Trương Quý cũng đã lấy câu thành ngữ này để đặt tên cho tập tiểu luận về Hà Nội của mình. Thành ngữ xuất xứ từ cuộc sống nhưng đi tìm ngọn nguồn của nó không dễ tí nào.

Tôi đã bỏ nhiều công sức đọc các báo xuất bản ở Hà Nội trước 1954 trong kho lưu trữ của Thư viện Quốc gia, tôi cũng đọc rất nhiều các tác phẩm của các nhà văn viết báo một thời lấy phố cô đầu Khâm Thiên làm "tòa soạn" như: Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Ngô Tất Tố, Phùng Bảo Thạch, Đái Đức Tuấn... nhưng không thấy ai đả động đến câu "Tự nhiên như người Hà Nội" trên báo hay trong văn chương. Có thể thành ngữ đó xuất hiện trước 1954 mà tôi chưa tìm ra hoặc nó chưa hề có. Tôi từng hỏi nhà văn hóa Bùi Hạnh Cẩn, giáo sư Trần Quốc Vượng và nhiều người cao tuổi sống ở Hà Nội về xuất xứ của câu này nhưng tất cả đều khẳng định thời thực dân Pháp cai trị không có câu này và không ít người đã khẳng định nó ra đời trong thời kỳ Mỹ ném bom miền Bắc và người già, trẻ con phải rời Hà Nội sơ tán về các vùng quê miền Bắc.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Nguyễn Bắc hoạt động bí mật ở nội thành chuyên kết nối các trí thức với chính phủ kháng chiến. Hòa bình, ông làm giám đốc Sở Văn hóa Hà Nội từ 1954-1979, ông biết nhiều chuyện nên tôi hỏi ông về xuất xứ câu thành ngữ "Tự nhiên như người Hà Nội" thì Nguyễn Bắc cười và bảo "Chính tớ đã mượn câu đó để làm thơ khi các cô gái đến thăm trận địa pháo cao xạ đóng ở gần bến phà Đen (nay thuộc quận Hai Bà Trưng), sau một trận chiến đấu với máy bay Mỹ.

Em tự nhiên, em dịu dàng Hà Nội

Anh bối rối, anh thô ráp, anh pháo thủ mà em

Câu thơ được Nguyễn Bắc viết năm 1972 thì ít nhất nó xuất hiện vào năm đó hoặc có thể là trước nữa vì từ cuộc sống trở lại với thơ ca cần có một khoảng thời gian. Từ câu thơ của Nguyễn Bắc có thể suy ra nghĩa ban đầu của câu "Tự nhiên như người Hà Nội" là đẹp đẽ và chân thành. Với lối sống và tính cách của người Hà Nội, chắc chắn không phải do người Hà Nội "thổi kèn, khen lấy" mà nó có xuất xứ từ một vùng quê nào đó trong năm tháng Mỹ đánh phá Hà Nội.

Ngược thời gian, ngày 5-8-1964, Mỹ gây ra sự kiện Vịnh Bắc Bộ và lấy cớ ném bom cửa biển Quảng Ninh, mở đầu cho cuộc leo thang quân sự bằng không quân ra miền Bắc nên việc máy bay Mỹ sẽ ném bom Hà Nội chỉ còn là thời gian. Trước âm mưu đó, để hạn chế tổn thất về người và tài sản đồng thời vẫn duy trì sản xuất,sinh hoạt, năm 1965, nhà nước và chính quyền thành phố đã yêu cầu người dân Hà Nội, nhất là người già,trẻ con phải sơ tán. Đi sơ tán khỏi thành phố với người Hà Nội lần này không phải là lần đầu, trước tết Đinh Hợi năm 1947, hơn 10 vạn dân đã phải tản cư về các tỉnh khi Trung đoàn Thủ đô chiến đấu quyết liệt với quân Pháp trên từng con phố

Cùng với dân, nhiều cơ quan, xí nghiệp, nhà máy cũng được lệnh chuyển máy móc, thiết bị về các vùng quê để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến toàn dân lâu dài. Nơi sơ tán chủ yếu là các tỉnh quanh Hà Nội như: Hà Tây, Hà Bắc, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam, Hòa Bình... Với các cơ quan, xí nghiệp, việc sơ tán thuận tiện hơn vì các địa phương có trách nhiệm phải tiếp nhận, dành đất cho dựng nhà máy,nhường chỗ ở cho công nhân viên và con cái của họ. Các đơn vị đông người còn lập ra cả nhà trẻ, nhà mẫu giáo có bếp ăn tập thể để cán bộ, nhân viên yên tâm làm việc, sản xuất. Song với các cơ quan, xí nghiệp phải ở lại Hà Nội thì cán bộ, nhân viên phải tự tìm nơi sơ tán cho gia đình, tự lo chuyện học hành của con cái. Gia đình có quê thì thuận tiện hơn vì con cái họ có thể ở nhà ông bà hay họ hàng nhưng gia đình sống nhiều đời ở Hà Nội không có quê và các gia đình gốc miền Trung hay miền Nam tập kết phải tự liên hệ. Và dù không phải họ hàng thân thích nhưng bà con ở các miền quê đã sẵn sàng đón nhận và cùng chia sẻ khó khăn với họ. Năm 1966, hàng vạn thanh thiếu niên đã rời Hà Nội về học tại các trường cấp I, cấp II, cấp III ở các địa phương đó. Để con cái có thể sống, sinh hoạt và đi học bình thường, hàng tuần các bậc phụ huynh đều phải tiếp tế gạo, muối mắm, tiền từ Hà Nội về. Có nhà thì cả cha lẫn mẹ cùng về nhưng có nhà chỉ có mẹ kẽo kẹt đạp xe đạp hàng trăm cây số vì cha chúng đã hy sinh ở chiến trường hay bị bom Mỹ giết hại. Về các vùng quê nghĩa là hoàn cảnh sống thay đổi, không nước máy, không có điện, buổi tối học bài phải thắp đèn dầu, đi học phải đội mũ, đeo nùn rơm sau lưng đề tránh mảnh bom, mảnh đạn. Lại có thời gian phải đi học rất sớm, từ 3 giờ sáng và kết thúc buổi học lúc 6 giờ vì học ban ngày sợ máy bay Mỹ nhưng rồi con trẻ Hà Nội cũng quen. Tuy nhiên lối sống thì không dễ thay đổi và cũng rất khó thay đổi, con gái đi học vẫn mặc quần Tây, áo sơ mi bằng các loại vải hoa may kiểu cách như khi ở Hà Nội. Mùa đông thêm chiếc áo len pha mầu rất khéo lại đội chiếc mũ len điệu đàng. Mùa hè lại còn mặc quần đùi, quần sooc đi lang thang khắp làng. Tóc con gái Hà Nội cũng mốt hơn, để dài tết đuôi sam hay để tóc thề,có khi lại cắt ngắn buộc chun hai bên, có cô sấy xoăn. Những thứ đó khác hẳn với các bạn gái nông thôn cùng lứa chủ yếu mặc quần đen bằng lụa, phíp hay vải thô nhuộm đen, áo sơ mi gụ, áo mầu xanh trứng sáo hay mầu xanh xí lâm. Tóc các bạn gái thôn quê hầu hết để dài và cặp bằng cặp ba lá. Với đám con trai cũng có sự khác biệt, mùa đông đi giầy ba ta, dép nhựa, áo len hay áo bông. Mùa hè thì may ô, quần soóc chạy rông quanh vùng.

Dù học sáng hay học chiều thì khi đến lớp đám học sinh Hà Nội cả trai lẫn gái thường đi cùng nhau, chuyện trò thoải mái trong khi các bạn ở nông thôn thì nam đi với nam, nữ đi với nữ riêng biệt. Nếu sánh vai cùng nhau lập tức bị chế ngay và dù không đến mức "nam nữ thụ thụ bất thân" nhưng cũng gần như thế. Nếu tính từ khi hòa bình lập lại ở miền Bắc đến năm 1965, năm dân Hà Nội sơ tán cũng là hơn 10 năm các vùng quê sống trong chế độ mới, làm ăn tập thể và thanh thiếu niên trong xã tham gia các sinh hoạt Đoàn, Đội nhưng quan niệm và lề lối sinh hoạt vẫn khác biệt với lối sống thành thị. Tan trường, đám học sinh Hà Nội cả trai lẫn gái dắt ríu la cà chỗ này chỗ kia thì các bạn nông thôn lại nhóm nam và nhóm nữ nhanh chóng về vì việc nhà đã ùn lên rồi. Vào ngày nghỉ, anh chị lớn cũng bắt chước người làng ra đồng kéo vó tôm hay tát khúc mương cạn bắt cá và bao giờ cũng có em trai, em gái lốc nhốc theo sau hò hét. Chiều thứ bẩy, từ đứa bé tí đến lớn hơn đang học cấp III ra đầu làng ngóng cha mẹ, anh chị đi xe đạp từ Hà Nội về tiếp tế lương thực, thực phẩm. Trai gái học cấp III, không phải yêu nhau nhưng nếu đi xe đạp còn chở nhau đến lớp, đi quanh làng chơi rất bình thường và thoải mái, thậm chí đám nữ thành thị còn nhờ các bạn nam ở địa phương đèo về mà không hề ngại ngùng nhưng điều đó không bao giờ có với các bạn địa phương. Rồi chiều chiều ăn cơm xong, cánh học sinh Hà Nội đánh quần soóc, quần đùi lòng vòng quanh làng. Lối sống đó hoàn toàn không phải do "đồng cảnh tương lân" mà ở Hà Nội họ vẫn thế, rất bình thường. Ấy thế mà có khi chủ nhà mời ăn khoai hay ngô luộc dù rất thèm nhưng cũng nhẹ nhàng từ chối vì ở nhờ đã làm phiền họ rồi nên không muốn phiền thêm nữa.

Thấy con trẻ Hà Nội tự nhiên trong lối sống nên ai đó đã nói "Tự nhiên như người Hà Nội" và có thể họ đã dựa theo thành ngữ trong dân gian "tự nhiên như ruồi." Chỉ có điều không thể chính xác nó bắt đầu từ miền quê nào.