Mạc Đĩnh Chi (1280-1346) làm quan triều vua Trần Anh Tông nhưng vì ông trong sạch nên nhà vẫn nghèo, tương truyền có kẻ cầu cạnh cho ném tiền vào nhà nhưng ông đem nộp vào công khố. Nguyễn Tri Phươg làm Tổng đốc Hà Nội thời vua Tự Đức nhưng vẫn chỉ có ba gian nhà tranh của người cha để lại. Đó là một vài ví dụ về các quan thanh liêm trong các triều đại phong kiến. Từ xưa đến nay, hễ vua sáng tôi hiền thì quốc gia thái bình thịnh trị, dân chúng ấm no hạnh phúc. Bằng ngược lại, thượng bất chính thì hạ tắc loạn.
Vua không minh, quan không liêm
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, vua Lý Cao Tông chơi bời vô độ, chính sự hình pháp không rõ ràng, giặc cướp nổi như ong, đói kém liền nhiều năm nên cơ nghiệp nhà Lý từ đấy mà suy. Năm 1179, Cao Tông xuống chiếu cấm không được đem mắm muối và đồ sắt lên đổi bán ở đầu nguồn, điều này chẳng khác gì bế quan tỏa cảng làm cho kinh tế không phát triển. Mùa thu, tháng 7-1199, nước sông Cái (sông Hồng) dâng to gây lũ lụt, lúa ngoài đồng ngập hết dẫn đến dân đói khắp vùng nhưng vua không đưa ra phương sách nào để cứu giúp dân chúng mà còn chu du khắp nơi. Xe vua đến đâu thấy nơi nào có thần linh đều cho phong hiệu và lập miếu để thờ, đến phủ Thanh Hoa còn bắt voi, chế nhạc Chiêm Thành để nghe và năm 1203 lại cho xây dựng rất nhiều cung điện làm hao tốn của cải.
Năm 1209, Cao Tông nghe theo lời gian thần Phạm Du giết oan tướng Phạm Bình Di. Bộ tướng của Bình Di là Quách Bốc đang trấn thủ Hoan Châu mang quân ra Thăng Long báo thù cho chủ khiến Cao Tông và thái tử Sảm phải bỏ chạy mỗi người một nơi. Quách Bốc lập con nhỏ của vua là Thậm lên ngôi. Thái tử Sảm chạy đến nương nhờ gia tộc họ Trần ở miền duyên hải và nhờ sức họ Trần mang quân về dẹp Quách Bốc. Dù loạn được dẹp nhưng từ đó quyền lực của họ Trần dần hình thành, bắt đầu từ Trần Tự Khánh và sau đó là vai trò của Trần Thủ Độ. Năm 1210, Cao Tông chết, thái tử Sảm lên thay (tức Lý Huệ Tông) nhưng triều chính hoàn toàn nằm trong tay họ Trần. Cuối năm 1225, con gái thượng hoàng Huệ Tông (bị ép truyền ngôi đầu năm) là Lý Chiêu Hoàng đã bị ép nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, thượng hoàng Lý Huệ Tông sau đó còn bị Trần Thủ Độ ép tự tử vào năm 1226 đã chấm dứt hơn hai thế kỷ trị vì Đại Việt của nhà Lý và nhà Trần thay thế từ năm đó.
Nhà Trần cai trị đất nước vào lúc các dân tộc Châu Á đứng trước mối đe dọa cực kỳ nguy hiểm là đế chế Đại Nguyên. Nhưng nhờ đoàn kết và biết dùng tôi hiền nên triều Trần đã ghi công lao vào sử sách dân tộc với 3 lần đánh tan quân Nguyên Mông. Triều Trần cũng có nhiều công lao trong xây dựng Đại Việt, song sau một thời gian hưng thịnh đã đi vào con đường suy thoái và sụp đổ mà người làm cho chế độ này sụp đổ nhanh hơn là Trần Dụ Tông. Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Vua rất thông tuệ, học vấn cao minh, chăm lo việc võ, sửa sang việc văn, các di thần đều phục. Đời Thiệu Phong, chính sự tốt đẹp nhưng từ năm Đại Trị về sau, chơi bời quá độ, cơ nghiệp nhà Trần suy yếu từ đó". Đại Việt sử ký toàn thư chép tiếp: "Trần Dụ Tông còn họp các nhà giàu như làng Đình Bảng ở Bắc Giang, làng Nga Đình ở Quốc Oai vào cung đình đánh bạc làm vui, một tiếng bạc đặt gần 300 quan tiền, ba tiếng thì đã đặt gần 1000 quan…". Về chuyện vua đánh bạc, sách Việt sử tiêu án đã phê phán: "Làm vua một nước mà mở sòng đánh bạc để lấy hồ… thật đáng bỉ." Còn nhà sử học Phan Phu Tiên nhận xét: "Dụ Tông công nhiên làm bậy, gọi những nhà giàu vào cung đánh bạc rồi sau người trong nước bắt chước cái dở ấy, không thể ngăn cấm được nữa. Cuối cùng vì tệ đánh bạc mà mất nước." Để có thêm tiền chi phí cho các sở thích của mình, tháng Giêng năm 1362 (Nhâm Dần), Trần Dụ Tông sai tư nô cầy một miếng đất bên bờ bắc sông Tô Lịch để trồng hành, tỏi, rau, dưa đem bán, gọi tên phường ấy là Vườn Tỏi, còn cho làm cả quạt đem bán. Đây có lẽ là kiểu vua kiếm tiền có một không hai trong lịch sử quân vương trên thế giới. Trần Dụ Tông là người ham mê rượu chè, một lần nghe nói có viên quan đang giữ chức Chánh chưởng phụng ngự cung Vĩnh An tên là Bùi Khoan uống rượu rất giỏi, thế là vua cho gọi vào cùng thi uống rượu. Khoan lập mẹo uống dối hết 100 thăng rượu, được thưởng tước Hai tư. Cũng về chuyện rượu Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Tháng 4-1364 (năm Giáp Thìn), vua đi hóng gió chơi trăng. Vì uống rượu say quá nên lội xuống sông tắm, thế nên bị ốm. Sai quan thầy thuốc là bọn Trâu Canh thay nhau hầu thuốc thang đến tận tháng 7 năm đó mới khỏi bệnh". Chưa hết vào một đêm mùa hạ, tháng 6-1366 (năm Bính Ngọ), vua đi chơi ở hương Mễ Sở (nay thuộc Hưng Yên) đến canh 3 mới trở về kinh, khi đến sông Chử Gia thì bị kẻ cướp chặn đường lấy mất cả gươm báu lẫn ấn. Cho rằng đó là điềm chẳng lành nên Trần Dụ Tông lại càng thả sức chơi bời.
Vào cuối triều Lê, Đông Kinh là nơi diễn ra những cuộc ăn chơi trác táng của vua "quỷ" Lê Uy Mục ( trị vì từ 1505-1509), vua "lợn" Lê Tương Dực (trị vì từ 1509-1516). Lê Tương Dực chỉ lo ăn chơi và thích mở mang thổ mộc, đắp thành dài mấy ngàn trượng. Vua còn sai chế thuyền chiến để đi chơi Hồ Tây, bắt phụ nữ cởi trần bơi chèo, lấy đó làm sự thỏa thích. Lê Tương Dực nghe lời tâu xằng bậy của quan Hiệu úy là Hữu Vĩnh đã giết chết 15 người trong tôn thất, toàn tước vương và tước công. Trăm họ lấy việc hoang chơi của nhà vua làm mối lo hàng đầu. Năm 1516, Trịnh Duy Sản đã giết chết vua Lê Tương Dực.
Đời vua Trần Duệ Tông (1372 - 1377), quan Hành khiển Đỗ Tử Bình được lệnh trấn giữ ở Hóa Châu (nay là vùng Bình-Trị-Thiên). Vua Chiêm khi đó là Chế Bồng Nga sai người đem 10 mâm vàng nhờ Đỗ Tử Bình dâng vua Duệ Tông với mục đích tạo mối hòa hiếu nhất thời để yên bề củng cố lực lượng, hòng đối phó lâu dài với Đại Việt. Nhận vàng xong, Đỗ Tử Bình đã giấu vua lấy làm của riêng, lại còn tâu những lời bịa đặt rằng: Chế Bồng Nga vô lễ, cần phải đem quân đi hỏi tội. Duệ Tông tưởng thật, vô cùng tức giận liền cất quân đi đánh Chiêm Thành. Ngày 23-1-1377 (năm Đinh Tỵ), Duệ Tông cùng quân tướng đến cửa Thị Nại (nay là khu vực Quy Nhơn, Bình Định) thì bị Chế Bồng Nga dùng mưu đẩy vào vùng đất hiểm rồi vây đánh bốn bề khiến Trần Duệ Tông cùng một loạt tướng lĩnh trong triều như: Đại tướng Đỗ Lễ, Nguyễn Nạp Hòa, Hành khiển Phạm Huyền Linh chết trận còn Ngự Câu Vương Húc bị bắt sống. Trận này, Đỗ Tử Bình dù được giao chỉ huy hậu quân nhưng đã không đến cứu nên thoát nạn. Hồ Quý Ly lo việc quân lương ở phía sau, nghe tin vua chết cũng lập tức chạy về. Quân Đại Việt thua trận, triều đình sai bắt Đỗ Tử Bình rồi đóng cũi đưa về Thăng Long để trị tội, cũi nhốt Đỗ Tử Bình đi đến đâu đều bị dân dọc hai bên đường chửi rủa và ném đá.
Con gái của vua Lê Thái Tông (chị của vua Lê Nhân Tông) là Vệ Quốc trưởng công chúa, sinh năm 1439 nhưng từ bé đã không nói được, thuốc thang mãi nhưng đến năm 1448 vẫn không có tiến triển. Tuy tuổi còn nhỏ, lại bị câm, song đến tháng 11-1448, Vệ Quốc trưởng công chúa vẫn bị bắt gả cho Lê Quát là con trai của Thái úy Lê Thụ. Hôn lễ của Vệ Quốc trưởng công chúa đã được sách Đại Việt sử ký toàn thư chép lại như sau: "Tháng 11, đem chị cả của vua là Vệ Quốc trưởng công chúa gả xuống cho Lê Quát là con trai của quan Thái úy Lê Thụ. Bấy giờ, công chúa mới lên mười, mắc chứng câm không nói được. Vua xuống chiếu giao cho quan Tư khấu là Trịnh Khắc Phục làm chủ hôn. Khi ấy, Lê Thụ lo sắm lễ cưới, những kẻ ưa cầu cạnh hay tin liền tranh nhau đem nạp của cải để mong được hưởng phú quý. Gấm thêu, lĩnh, là, vóc, lụa... đang bày bán ngoài phố đều bị chúng tranh mua hết cả. Lê Thụ còn bắt quan lại ở khắp các trấn, lộ, phải sắm đủ trâu, bò và các thứ lễ vật khác. Các quan địa phương cũng muốn lấy lòng Lê Thụ nên bắt quân lính và nhân dân đóng góp rất nhiều. Đài quan lúc ấy là Đồng Hanh Phát đã dâng sớ tâu hặc. Lê Thụ cởi mũ để tạ tội, nhưng lệnh của Lê Thụ đã trót gửi giấy đi khắp nơi nên các quan địa phương vẫn đưa lễ vật tới nhà Lê Thụ. Lê Thụ không từ chối mà Đồng Hanh Phát cũng không nói đến nữa. Sau đó, Hanh Phát cũng mang lễ vật đến nhà Lê Thụ lạy tạ. Kẻ thức giả đều lấy đó mà chê bai".
Ở triều vua Lê Thần Tông, Lại bộ Hữu thị lang Nguyễn Lại ăn hối lộ nên trong dân có câu hát:
Các chức bị viên
Lưỡng Bột tận điền
Nghĩa là: Nếu các chức mà tuyển bổ được đầy đủ thì hai làng Bột Thượng và Bột Hạ (Lưỡng Bột) sẽ hết sạch cả ruộng (Nguyễn Lại quê ở làng Bột Thượng). Hai câu có ý chỉ việc Nguyễn Lại ăn hối lộ nhiều sẽ thừa tiền để mua hết đất của hai làng Bột). Thời chúa Trịnh Tạc có ba viên quan bẻ cong phép nước, ăn của đút lót đã bị xử là Thiêm đô Ngự sử Phùng Viết Tu, Thừa chính sứ xứ Sơn Tây Quách Đồng Đức và Tri phủ Quốc Oai Trương Văn Lĩnh. Ở Đàng Trong, thời Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát, quyền thần Trương Phúc Loan tham lam vơ vét của công, của dân đến nỗi vàng trong nhà ông ta nhiều gấp mấy lần quốc khố của chúa Nguyễn. Băng đảng Trương Phúc Loan hoành hành, lũng đoạn khiến thế lực chúa Nguyễn Đàng Trong suy yếu, dẫn đến họa Phú Xuân, bị quân Trịnh do Hoàng Ngũ Phúc chỉ huy chiếm đóng trước khi quân Tây Sơn khởi nghĩa chấm dứt cơ đồ ngót hai trăm năm của chín đời chúa Nguyễn.
Vào thời Lê, dù tháp Báo Thiên cao 12 tầng đã bị Vương Thông phá đổ lấy đồng đúc vũ khí nhưng chùa thì vẫn còn. Truyền thuyết kể rằng khi vua Lê muốn sửa chùa đã cho mời thợ giỏi là Cao Sư Thang, Thang nói với mọi người "Vua thì thất đức, quan thì ăn của đút thế mà lại đi nịnh Phật", thế nhưng không ai dám xử tội Thang vì triều chính đúng như thế vả lại nếu xử Thang thìphải nhắc lại lời ông nói khiến thiên hạ thù oán thêm nên đành thôi.
Tham nhũng khi cả dân tộc đang chống Pháp
Thực dân Pháp xé bỏ hiệp định sơ bộ 6-3-1946 và tạm ước 14-9-1946 lập chính phủ Nam Kỳ tự trị. Ngày 20-11-1946, quân Pháp chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn mở đầu kế hoạch lấn chiếm miền Bắc. Từ tháng 12-1946 tình hình ngày càng nghiêm trọng, quân Pháp chiếm Hải Dương, khiêu khích Hà Nội và nhiều nơi khác. Trước sự lấn lướt của thực dân, ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Sau 60 ngày chiến đấu dũng cảm của Trung đoàn Thủ đô nhưng để bảo toàn lực lượng và thực hiện kháng chiến lâu dài, Chính phủ Hồ Chí Minh đã rút khỏi Hà Nội lên Việt Bắc.
Cuộc sống ở Việt Bắc và các mặt trận vô cùng khó khăn, tài chính cho kháng chiến thời kỳ đầu trông chờ vào sự đóng góp tự nguyện của người dân ở Hà Nội và các thành phố khác cùng với lương thực của bà con nông dân ở các vùng tự do. Sinh hoạt của bộ đội thiếu thốn, do không có kinh nghiệm bảo quản nên gạo để trong bồ bị mục nát. Bộ đội lĩnh về không dám vo mạnh, chỉ rửa qua nước suối là nấu luôn vì vo kỹ, gạo sẽ mủn hết. Để chống đói, bộ đội phải lấy măng rừng làm thức ăn, còn quân chủ lực phải ăn cháo để truy kích địch. Về cái mặc, mỗi người một áo trấn thủ và tấm "chăn kháng chiến" với một lượt bông rất mỏng. Có chiến sĩ không có chăn, không có áo, đứng gác trên đèo phong phanh vải mỏng. Thuốc men thì khan hiếm, không có kháng sinh đã làm cho thương binh chết ngay trước mắt quân y. Với bộ đội bị sốt rét, quân y phải pha thuốc vào nước để nhiều người cùng được uống nên tác dụng rất hạn chế. Thế nhưng trong sự gian nan và khốn khó ấy thì Giám đốc Nha quân nhu - Đại tá Trần Dụ Châu sống như một ông hoàng bằng tiền của do dân đóng góp cho Chính phủ kháng chiến.
Trong phóng sự 6 kỳ liền đăng trên báo Cứu Quốc từ ngày 20-9-1950, nhà báo Hồng Hà đã viết "Là người tháo vát, năng động, có đầu óc kinh doanh, Châu được vào làm ở Cục Quân Nhu. Sau một thời gian làm tốt việc cung cấp lương thực, trang bị cho bộ đội, Châu được phong tặng quân hàm đại tá, làm giám đốc Nha Quân nhu. Lúc đó, Cục Quân nhu chỉ phụ trách việc quản lý, quản trị, còn Nha Quân nhu mới có nhiệm vụ trực tiếp sản xuất quân trang, quân dụng. Có địa vị cao, quyền hành rộng, nắm trong tay hàng trăm nghìn đồng, cơ chế kiểm tra, kiểm soát lại lỏng lẻo, không biết tự kiềm chế, Châu đi dần vào con đường sa ngã. Châu lấy cắp của công quỹ một số tiền lớn: 57.959 đồng Việt Nam, 149 đôla Mỹ, các tài sản khác trị giá 143.900 đồng Việt Nam. Giá gạo ở Thái Nguyên – Bắc Cạn năm 1950 là 50 đồng/kg, còn chiến sĩ ta mỗi ngày chỉ được cấp vài lạng gạo và hơn 10 đồng tiền thức ăn. Ngoài ra, Châu còn nhận hối lộ khá nhiều tiền, chuyên quyền, độc đoán, sống sa đọa, đồi trụy. Ủy ban Tiếp liệu Thu - Đông 49, các kho số 1, 4, 10 thường xuyên nộp cho Châu tiền tiêu, rượu, đồ hộp, hải sản khô, thuốc lá, quần áo, chăn len... Tuyển người, thải người theo sở thích cá nhân, vung tiền bao gái; có lần dùng ôtô công đưa gái đi chơi ở Bắc Cạn. Châu dan díu với một nữ nhân viên xinh đẹp, bổ nhiệm làm "bí thư văn phòng" của Nha, làm việc cùng buồng, ăn ở cùng nhà với Châu. Các cán bộ điều tra có trong tay cuốn nhật ký của nữ "bí thư văn phòng" cùng gần 100 kiểu ảnh lãng mạn chụp với Châu. Giữa lúc nữ bí thư đi dự lớp huấn luyện thì Châu đưa từ Phú Thọ về cơ quan một cô gái giới thiệu là em nuôi, suốt ngày ở trong buồng riêng của Châu. Nữ bí thư từ lớp học về bất chợt bắt gặp và đã xảy ra một cuộc đánh ghen ầm ĩ. Tiếng tăm ăn chơi của Châu nổi như cồn ở Hanh Cù, Phú Thọ, một thị trấn sầm uất, tối đến cả đường phố dài rực sáng ánh đèn măng sông, với nhiều hiệu ăn sang trọng và cửa hàng đầy ắp hàng tiêu dùng nước ngoài. Mỗi lần về công tác ở Liên khu 10, gồm các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang..., Châu đều đưa bạn bè đến chè chén ở đây, nhất là ở nhà hàng Ba Đình. Cũng tại thị trấn này, Châu tổ chức đám cưới cho Bùi Minh Trân, Trưởng ban Mậu dịch của Quân giới liên khu Việt Bắc, tiêu tốn hàng vạn đồng."
Tay chân đắc lực nhất của Châu là Lê Sỹ Cửu. Cửu từng tham gia đường dây buôn thuốc phiện lậu tuyến Móng Cái – Hải Phòng. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Cửu trở về miền Trung, vào làm công an, nhưng được ít lâu thì bị đuổi nên y lại quay ra Bắc. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Cửu gặp lại Châu và được Châu giới thiệu vào làm ở Ban Vận tải quân giới. Một thời gian sau, lại bị đuổi việc, Cửu lần mò lên Cao Bằng kiếm ăn, tại đây, tháng 8-1947, gặp lại Châu, Cửu được Châu đưa vào Cục Quân nhu, làm nhân viên tiếp liệu ở Cao Bằng. Ở Cục Quân nhu không lâu nhưng Cửu lộng hành làm bậy, lấy cắp tiền công, ăn tiêu bừa bãi, thường xuyên lui tới các nhà hàng, tiệm hút vùng Cao Bằng. Tiếng dữ đồn xa, tai tiếng của Cửu khiến Châu vội vã rút Cửu về Nha, lập ra một tổ chức mới gọi là "Ban Thế phẩm Đay" giao cho Cửu làm trưởng ban. Châu tuyên truyền ầm ĩ rằng, Ban này lo các đồ mặc mùa đông cho bộ đội, từ nay các chiến sĩ ta không phải lo đến cái rét ở rừng núi nữa. Nhưng đây chỉ là một mánh khóe tham ô của Châu: Lấy ba phần tư số tiền cấp trên phát cho Ban Thế phẩm Đay, Châu giao cho Cửu đi buôn lậu. Trong phóng sự, nhà báo Hồng Hà viết: "Lê Sĩ Cửu khai trước Ban Kiểm tra của Bộ Quốc phòng khi y bị thẩm vấn: Mỗi khi đi mua vải về cho Ban Thế phẩm, Cửu cho tăng giá thêm từ 20 đến 25 đồng mỗi tấm để lấy tiền đút túi. Trong một chuyến mua vải mộc và vải diềm bâu, Cửu lấy được 50 vạn đồng. Khi xuất kho giao vải cho cơ sở nhuộm, Cửu chỉ tính số tấm, không tính số vuông; cho xẻ đôi những tấm vải dài để nhuộm, khi nhận về kho số vải đã nhuộm, dôi ra 1.225 tấm, bỏ túi riêng được 66 vạn đồng. Người bán vải giao hàng tận kho, không tính tiền vận chuyển, song Cửu lại tính với Ban phải trả phí vận chuyển. Khi nhà thầu lĩnh hàng thì phải cung cấp đầy đủ khuy cúc, Cửu lại tính với Ban tiền khuy cúc riêng. Với hai thủ đoạn trên, Cửu cũng lấy được 4 vạn đồng. Cửu cho khắc một con dấu giống dấu của Nha Quân nhu để cấp cho một số người buôn lậu, mỗi lần được 2 vạn đồng. Cửu giàu lên nhanh chóng, ăn chơi sa đọa, sắm được một chiếc thuyền đẹp để gia đình du ngoạn và tổ chức những cuộc dạ hội trên sông. Cửu hối lộ đều đặn theo từng vụ cho Châu, tổng cộng khoảng 40 vạn đồng và nhiều tài sản có giá trị. Trong Nha, cán bộ nhân viên gọi Châu là "Châu Hổ", vì sợ Châu như cọp. Một số cán bộ, đảng viên trong Nha không chịu để Châu lôi kéo, đã mạnh dạn phê bình Châu. Có người do nói thẳng đã bị Châu đẩy khỏi cơ quan."
Về đám cưới của Bùi Minh Trân, dân trong vùng và nhiều khách vốn xuất thân ở thôn quê thì không tưởng tượng nổi vì họ chưa từng chứng kiến, còn với khách từng sống ở Hà Nội, Hải Phòng thì ngỡ ngàng, bởi chỉ nhà rất giầu mới làm cỗ cưới như vậy. Bát đĩa sứ, cốc pha lê mới khuân từ Hà Nội lên. Châu sai thắp gần trăm cây nến to để quan khách ăn tiệc. Tiếng bốp bốp của rượu sâm banh khiến cho nhiều quan khách giật mình bởi nhiều người chưa từng biết có loại rượu mở ra lại nổ. Ngoài sâm banh còn có rượu vang. Vì cỗ cưới với các món: chim, gà, vây bóng, tôm, cua bể... nên Châu cho mời đầu bếp từ Hà Nội lên nấu. Tiệc từ chiều kéo dài đến nửa đêm. Xong tiệc mặn, khách được ăn tráng miệng lê, táo và bánh ngọt, những thứ chỉ có ở đám cưới nhà giầu ở Hà Nội. Chưa hết, khách còn được hút thuốc lá thơm, nghe nhạc sống và thưởng thức cà phê Nestle. Tệ hơn, Châu còn bố trí một lán bên cạnh dành cho khách biết hút thuốc phiện. Chuyện tham nhũng và sống xa hoa của Châu và Cửu đã gây bất bình trong bộ đội và cuối cùng thì 2 tên bị bắt. Ngày 5-9-1950, tại Thị xã Thái Nguyên, Tòa án binh tối cao mở phiên tòa đặc biệt xử vụ Trần Dụ Châu. Cửa vào phòng xử án có một bảng khẩu hiệu: "Nêu cao ánh sáng công lý trong quân đội". Trong phòng xử, trên tường có hai khẩu hiệu: "Quân pháp vô thân" và "Trừng trị để giáo huấn". Dân đến dự đông nghịt.
Trách nhiệm của sỹ phu thức giả
Thời nào cũng vậy, sĩ phu thức giả là thành phần trí thức, đại diện cho trí tuệ dân tộc. Trong triều Lý, lúc đề bia Văn Miếu Quốc Tử Giám, tiến sĩ Thân Nhân Trung đã viết mấy dòng lưu thiên cổ: "Hiền tài là nguyên khí Quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn…". Từ nhà Lý đến nhà Nguyễn sau này, thời nào cũng có bậc sỹ phu thức giả đóng góp ý kiến khi đất nước trước nguy cơ bị xâm lược hay tỏ rõ thái độ trước các tệ nạn trong giới quan trường.
Chu Văn An (1292–1370) quê ở làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay thuộc xóm Văn, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội) là bậc hiền Nho, một tấm gương tiết tháo, suốt đời không màng danh lợi. Nhận thấy tài năng và đức độ của Chu Văn An, vua Trần Minh Tông (1314-1329) đã mời ông ra làm Tư nghiệp trường Quốc Tử Giám dạy học cho thái tử. Đến đời Trần Dụ Tông, thế sự thay đổi, vua quan ăn chơi sa đọa, gian thần thì tham nhũng, đục khoét dân nghèo ngày càng nhiều. Cảm xót trước vận mệnh nước nhà, Chu Văn An đã nhiều lần can ngăn nhưng vua không nghe và ông đã dâng sớ xin chém 7 nịnh thần nhưng bất thành nên cáo quan về dạy học, viết sách cho đến lúc mất. Đây là tờ sớ mang dấu ấn lịch sử rất quan trọng, tiến sỹ Lê Tung dưới triều vua Lê Thánh Tông và Lê Tương Dực, tác giả của Đại Việt thông giám tổng luận viết: "Thất trảm chi sớ nghĩa động quỷ thần". Danh sỹ Nguyễn Văn Lý ( thế kỷ XX) có thơ:
Thất trảm vô vi tồn quốc luận
Cô vân tuy viễn tự thân tâm
(Nghĩa là: Sớ thất trảm không được thi hành, cả nước bàn luận. Đám mây tuy xa vẫn tự có tinh thần trong lòng)
Xuất thân dòng dõi khoa bảng, Lê Quý Đôn có kiến thức uyên bác trong nhiều lĩnh vực như: Lịch sử, địa lý, thiên văn, lý số, khoa học, kinh sách và thơ văn… trong đó sách Vân đài loại ngữ của ông được coi là bộ bách khoa toàn thư hoàn hảo nhất thời Lê Trung hưng. Trong bối cảnh vua Lê- chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, chúa Nguyễn ở Đàng Trong khiến Lê Quý Đôn ý thức được hiểm họa thường lập lại của lịch sử là mỗi lần nước Nam rối ren suy yếu thì kẻ thù lại dòm ngó xâm lăng. Vì thế ông đã khuyến cáo triều đình 5 nguy cơ mất nước gồm: Một là sĩ phu thức giả ngoảnh mặt đi trước thời cuộc; Hai là xã tắc tham nhũng tràn lan; Ba là binh kiêu ngạo, tướng thoái hóa; Bốn là học trò không kính trọng thầy giáo và 5 là trẻ con khinh thường người già. Lê Quý Đôn vốn tinh thông về lý học, biết trời đất hết vơi rồi lại đầy, hết đầy rồi lại vơi, nhưng theo ông thì phải "tận nhân lực mới tri thiên mạng."
Đặng Huy Trứ (1825-1874) nổi tiếng thông minh, dĩnh ngộ từ nhỏ. Khoa thi Hội năm 184, ông lọt qua các vòng thi Kỳ coi như đã chắc chắn đỗ tiến sĩ, nhưng khi vào thi Đình lần cuối chẳng may bài thi phạm húy thế là bị cách tuột và cấm thi suốt đời. Biết tài học của ông, một vị quan lớn đương triều đã mời ông về dạy học cho con em trong nhà và 8 năm sau, nhờ vị quan nọ tâu xin với vua nên ông được thi lại và lại đỗ tiến sĩ. Ra làm quan, Đặng Huy Trứ lần lượt trải các chức: Thông phán Ty Bố chính Thanh Hóa, Tri huyện Quảng Xương, Tri phủ Thiên Trường (Nam Định). Một thời gian sau, ông được triệu về kinh làm Hàn lâm viện trước tác rồi Ngự sử.Ông là người đầu tiên mang nghề nhiếp ảnh vào Việt Nam khi mở hiệu ảnh ở phố Thanh Hà (Hà Nội) vào năm 1868. Là mệnh quan của triều đình nhưng ông cũng là nhà thơ và đặc biệt bộ sách Từ thụ yếu quy gần 2000 trang có nội dung chuyên về chống hối lộ, tham nhũng. Từ thụ yếu quy nghĩa là nguyên tắc chủ yếu của việc từ chối và có thể nhận những thứ biếu xén mà người có chức quyền cần luôn luôn tỉnh táo phân biệt để giữ mình. Mở đầu cuốn sách, ông viết: "Trong ba chữ răn mình của nhà quan thì chữ thứ nhất là Thanh. Thanh là liêm khiết giữ mình, không lấy của ai mảy may". Tuy nhiên, từng lăn lộn trong chốn quan trường gần hai chục năm, nên khi viết Từ thụ yếu quy, Đặng Huy Trứ có cái nhìn thật sự thông cảm trước những sự thể khó xử của người làm quan: "Trước chưa làm quan nay ra làm quan, trước địa vị thấp nay địa vị cao, khi giỗ chạp, vai lợn không kín mâm cỗ đâu có thể được? Khi đã có nhân dân, có xã tắc, muốn đi xe nát, cỡi ngựa còm đâu có thể được?...". Và ông khẳng định không thể lấy của nước, càng không thể dùng bạo lực và mánh khóe để lấy của cấp dưới và của dân. Ông cho rằng với của mang đến thì thư tâm mà ứng xử. Có thể nhận thì nhận không thể nhận thì dứt khoát từ chối. Nhận hay không nhận thì trong bụng đã có nguyên tắc định trước rồi. Nhận theo điều nghĩa, lấy điều tiết kiệm mà giữ mình, giữ mình ở khoáng không đục không trong, tiêu dùng thì không hoang cũng không bủn xỉn, như vậy là được. Nếu bảo phải thanh liêm hoàn toàn thì cái khí tiết gian khổ ấy khó lâu bền được... Ông rút ra 104 kiểu hối lộ quan chức mà từ Hán gọi là "tang". Tuy là mệnh quan triều đình, nhưng từ việc làm đến lời nói đều nhất quán với cái tâm, cái đức của bậc thức giả. Ông quan niệm, bổn phận của người làm quan trước hết lạ phải vì dân "Dân không chăm sóc chớ làm quan" và "Vì dân, bệ ngọc giải oan khiên…". Không những thế, ông còn cho rằng:
Mình thiệt, dân lợi, dân gắn bó
Đẽo dân, mình béo, dân căm hờn
Hờn căm, gắn bó tùy ta cả…
Mùa đông năm 1949, nhà thơ Đoàn Phú Tứ ở chiến khu Việt Bắc. Là nhà thơ, ông còn là đại biểu Quốc hội khóa I. Tháng 4-1950, cùng với một đoàn nhà văn đi thăm và động viên các đơn vị bộ đội vừa đánh Pháp trở về hậu cứ, và dù đã cuối mùa đông nhưng tiết trời chiến khu rất lạnh, ông đã khóc khi thấy các chiến sĩ bị thương thiếu thuốc men, bông băng, và hầu hết đều rách rưới, "võ vàng đói khát", "chỉ còn mắt với răng". Trở về cơ quan ông nhận được thiệp mời của Trần Dụ Châu, đến dự lễ cưới mà hắn đứng ra tổ chức cho cán bộ cấp dưới đặc biệt thân cận. Về chuyện này, cuốn Ba phút sự thật (Nhà xuất bản Văn Nghệ TP. Hồ Chí Minh 2006) của Nhà văn Phùng Quán viết theo lời kể của Đoàn Phú Tứ:" Ông bước vào phòng cưới mà cứ ngỡ mình nằm mê. Cái hội trường dựng bằng tre nứa, lợp lá gồi, sáng trưng những dãy bạch lạp to bằng cổ tay. Trên những dãy bàn dài tít tắp, xếp kín chim quay, gà tần, vây bóng, nấm hương, giò chả, thịt bê thui, rượu tây, cốc thủy tinh sáng choang, thuốc lá thơm hảo hạng. Ban nhạc sống của nhạc sĩ Canh Thân được mời từ khu 3 lên tấu nhạc réo rắt…Trần Dụ Châu mặc quân phục đại tá choáng lộn, cưỡi ngựa đến dự cưới, theo sau hắn là một vệ sĩ cao lớn, súng "côn bạt" đeo xệ bên hông. Tân khách ngồi chật kín hội trường, mắt hau háu nhìn bàn tiệc. Rượu vang đỏ rót đầy các cốc. Vị chủ hôn Trần Dụ Châu oai phong, đỏ đắn, đầy quyền uy bước ra tuyên bố làm lễ thành hôn cho đôi vợ chồng mà hắn đỡ đầu, và trịnh trọng mời tân khách nâng cốc… trong tiếng nhạc vang lừng. Nhìn thấy nhà thơ ngồi ở bàn đầu, hắn liền tươi cười giới thiệu: Đám cưới hôm nay có một vị khách đặc biệt là ông Đoàn Phú Tứ, nhà thơ cự phách của nhóm Xuân Thu Nhã Tập. Xin mời nhà thơ nổi tiếng lên đọc một bài mừng cô dâu chú rể và quý vị tân khách. Đoàn Phú Tứ đứng lên, mắt đăm đăm nhìn cốc rượu vang đỏ như máu đầy tràn trước mắt… Ông bỗng thấy giận run lên với ý nghĩ: Bọn võ biền đốn mạt đầy quyền uy này, đã quen coi thi sĩ là kẻ nô bộc, và thơ là món đồ trang sức, một thứ gia vị cho bữa ăn tội lỗi của chúng thêm ngon miệng… Chúng sẽ được thơ dạy cho một bài học đích đáng!… Ông ngẩng lên, nhìn thẳng vào mặt Trần Dụ Châu, nói lớn, nhấn mạnh từng từ một cho tất cả những người dự tiệc cưới đều nghe thấy: Tôi xin đọc tặng vị chủ hôn, cô dâu chú rể và tất cả các vị có mặt hôm nay, một câu thơ hay nhất mà tôi vừa chợt nghĩ ra… Khắp các bàn tiệc dậy lên tiếng xì xào tán thưởng: Hoan hô Xuân Thu Nhã Tập! Hoan hô thi sĩ Đoàn Phú Tứ!...Chờ cho tiếng xì xào im hẳn, nhà thơ nói tiếp: Câu thơ đó như sau: Bữa tiệc cưới chúng ta sắp chén đẫy hôm nay, được dọn bằng xương máu của chiến sĩ! – Láo, Trần Dụ Châu mặt vụt tái nhợt quát to. Tiếp liền theo đó là tên vệ sĩ của hắn xông tới tát bốp vào mặt nhà thơ. Nhà thơ lặng lẽ rút khăn tay lau mặt, ném khăn xuống đất, rồi nhổ vào cốc rượu đỏ như máu đầy tràn trước mặt, và đĩnh đạc bước ra khỏi phòng cưới. Ngay đêm hôm đó, nhà thơ viết một bức thư dài gửi lên Hồ Chủ Tịch, trình bày toàn bộ sự việc."
Trong biên bản cuộc họp Hội đồng Chính phủ các ngày 15, 16 và 17-11-1950, mục thứ 35 kiểm điểm vụ án này có đoạn "Chúng ta sinh ra trong một xã hội phong kiến và thực dân. Xã hội ham danh, ham lợi. Danh lợi dễ làm hư người. Danh lợi là tập quán. Bây giờ chúng ta dùng cán bộ để cải tạo xã hội mà không có chính sách cải tạo cán bộ, đấy là khuyết điểm. Điều nữa là chúng ta không có sự phê bình và tự phê bình. Chúng ta hay nể nả nhau nên chỉ biết mình thanh liêm là đủ. Quan niệm thanh cao tự thủ thế là không đủ...". Đó là bài học rút ra từ vụ án.
Trước làm gương, sau là luật
Tham nhũng, ngoài lòng tham của con người còn có nguyên nhân khác là cơ chế có nhiều kẽ hở nên quan có tính tham có cơ hội để đục khoét. Để hạn chế tệ nạn này, nhiều triều vua đã có quy định cụ thể nhưng đến đời vua Lê Thánh Tông thì được nâng lên thành luật mà các nhà sử học hay gọi là Luật Hồng Đức. Đến triều Nguyễn cũng ban hành Luật Gia Long (hay còn gọi là Hoàng Việt luật lệ). Luật Hồng Đức không chỉ có các điều xử quan tham mà còn có các điều về tuyển người tài,chế độ lương bổng... Song dù có qui định chặt chẽ thế nào cũng không thể bao quát hết được nên trước hết vua, quan phải là tấm gương.
Vua Lý Nhân Tông sắp băng hà đã để lại di chiếu nhắc nhở việc tang lễ phải tiết kiệm. Vua Lê Thánh Tông thấy con dân của mình khốn khó đã triệt bỏ đồ nhạc, giảm bớt thức ăn. Thời Trần có Trần Thời Kiến nổi tiếng thanh liêm được vua ban cho cái hốt với bài minh ca ngợi, còn Vũ Tụ thời Lê sơ làm quan to nhưng vẫn sống thanh bần được vua ban cho thẻ bài "Liêm tiết". Lê Thánh Tông rất đề cao quan thanh liêm, thấy người tài đức,vua đã ra sắc lệnh: "Từ nay, Cấp sự trung trong Lục khoa và Giám sát ngự sử nếu có khuyết ngạch thì bộ Lại chọn các quan trong kinh sư, ngoài các đạo... là người liêm khiết, cần mẫn, cứng rắn, ngay thẳng, có thành tích về chính trị, thì cất nhắc lựa bổ." Người được đề cử vào chức vụ ấy sẽ thử việc trong một năm nếu xứng thì giữ nguyên không đổi sang chức khác. Với quan miền viễn biên, nếu thanh liêm, "hết lòng vỗ về thương yêu dân, không nhũng nhiễu" và việc thu thuế vẫn đầy đủ khi mãn hạn 6 năm, hoàn thành tốt công việc sẽ cho chuyển về nơi tốt hơn. Và không chỉ vậy, Lê Thánh Tông còn thưởng tiền bạc "Nhà ngươi (quan Nguyễn Thiện) làm bầy tôi, hết lòng thành lo việc nước, thường dâng lời nói phải, có lúc trẫm dùng uy quyền để lấn át cũng chưa thấy nhà ngươi nao núng. Thật là đáng khen. Vậy đặc cách sai viên Ty lễ giám đem sắc dụ đến ban khen thưởng cho bạc lạng". Hay trường hợp của Nguyễn Phục, người luôn ăn nói ngay thẳng do đó được thăng làm Tham chính Thanh Hóa và thưởng nhiều vàng bạc.
Về chuyện dùng hiền tài thời Trần có chuyện như sau: Khi người thân có ý muốn đưa người nhà ra làm quan, Trần Thủ Độ biết rõ người đó tài trí ra sao đã nói rằngphải chặt ngón tay, người thân hỏi sao làm vậy, ông trả lời triều đình đã có qui định về chọn người làm quan, chặt ngón tay để phân biệt quan giỏi và quan kém cỏi. Thế là người thân không dám xin xỏ nữa. Đầu năm 1428, sau khi Đại Việt sạch bóng quân xâm lăng, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế. Trải qua hai mươi năm bị ngoại xâm, chiến tranh tàn phá, đất nước chìm ngập trong những khó khăn lớn lao nên Lê Thái Tổ đã dồn hết tâm lực để giải quyết những công việc quốc gia đại sự. Mặc dù vậy, Lê Thái Tổ vẫn luôn canh cánh nỗi lo giữ nghiêm phép nước. Ngày 26-2-1429, Lê Thái Tổ ra lệnh cho các đại thần và các quan hành khiển xem lại các điều lệnh của ông có gì phương hại đến việc quân, việc nước, hoặc giả là việc sai dịch không. Ngày 18-10-1429, ông lại ra lệnh cho các đại thần, tổng quản và các quan từ hành khiển trở xuống: "Người xưa có câu: Vua không chọn tướng mà dùng thì có khác gì đem dâng nước mình cho giặc. Trẫm không lúc nào không suy nghĩ đến điều đó. Bởi đêm ngày lo nghĩ nên mới đem việc quân, việc nước quan trọng mà trao cho các khanh. Thế mà các khanh cứ điềm nhiên như không, trên thì phụ lòng tin dùng của triều đình, dưới thì chẳng chút đoái thương đến quân dân, sao mà biếng nhác việc quan đến thế? Nay, ta ra chiếu này để răn báo, nếu không biết tự mình sửa lỗi, lại còn tái phạm, thì phép nước còn chờ đó, khi ấy đừng nói là trẫm phụ bề tôi cũ có nhiều công lao". Nói ra điều ấy Lê Lợi muốn bách quan nghiêm giữ phép nước nhưng trước hết quan lại, nhất là các bậc khai quốc công thần, trước phải tự làm gương. Nước thịnh hay loạn cốt ở trăm quan, được người giỏi thì nước trị, dùng người xấu thì nước loạn. Quy chế về bảo cử, tiến cử được tiến hành rất tốt và nghiêm túc dưới thời Lê Thánh Tông. Nhiều trường hợp tiến cử, bảo cử không đúng đã bị bác bỏ như trường hợp Thượng thư bộ Lại Nguyễn Như Đỗ đề cử Nguyễn Thế Mỹ và 8 người để ứng tuyển vào các vị trí nhưng xét thấy những người ấy đều mới ra làm quan, tài cán tầm thường nên Lê Thánh Tông lại hạ lệnh cho cử 10 người hiện làm quan trong kinh từ hàng ngũ phẩm trở xuống. Thậm chí trường hợp của Lê Niệm tiến cử người không xứng chức đã bị bãi miễn.
Không chỉ ra qui định về chọn quan, năm 1471, Lê Thánh Tông đặt Lục khoa (cơ quan thanh tra, giám sát) bên cạnh Lục bộ, Lục tự, có trách nhiệm xem xét hành vi sai trái của quan lại. Ngay cả bộ Lại, bộ có quyền hành cao nhất trong việc tuyển bổ, thăng giáng mà không đúng thì cơ quan thanh tra có quyền tố cáo, giới thiệu người khác để cho "lớn nhỏ cùng ràng buộc nhau, khinh trọng cùng ràng buộc nhau, khinh trọng cùng kiềm chế nhau, uy quyền không giả mà lẽ nước khó lay suy". Sớm có ý thức kiến thiết, xây dựng đội ngũ quan lại nên Lê Thánh Tông đã tỏ rõ quan điểm của mình: "Nhân được thời mà ra trị nước, tất phải đặt quan, phân chức, xây dựng kỷ cương, định rõ chế độ cho một đời, mở nền thái bình cho muôn thuở." Đặt quan để làm việc thì phải có lương bổng đủ cho họ sống và nuôi vợ con thì mới bắt họ thanh liêm được, Lê Thánh Tông cho rằng: "Người làm quan có đầy đủ thì mới bắt đầu làm điều thiện và triều đình có gia ơn cho người làm quan thì người làm quan mới gia ơn cho dân được." Hiểu rõ được điều này nên năm 1473, Lê Thánh Tông định chế độ bổng lộc cho quan lại trong kinh, ngoài trấn. Theo đó,việc phân cấp bổng lộc được thực hiện dựa theo nguyên tắc: "Những nơi ít việc và nơi rất ít việc, những chức thong thả và những chức rất thong thả tiền bổng có khác nhau". Đối với các quan cùng phẩm hàm nhưng giữ các trọng trách ở địa phương số tiền lương cũng không có sự khác biệt so với các quan trong triều nhằm khuyến khích các quan làm việc ở lộ, phủ và để quan lại không vì lương bổng quá thấp so với quan trong kinh mà sinh ra vơ vét của dân, sinh ra nhũng lạm. Ngoài lương, Lê Thánh Tông còn ban cấp cho quan lại nhiều loại lộc như: Lộc điền, huệ lộc, dân lộc... và việc ban cấp này rất hậu. Trong đó chủ yếu là lộc điền và coi đây là nguồn thu nhập chính. So với các triều đại, bổng lộc thời Lê Thánh Tông ít hơn nhưng lại không để cho viên quan nào có việc mà ăn không, quan lại liêm khiết, hết mực vì công việc được biểu dương ban tiền hay thăng chức.
Từ nhà Lý đã có những quy định cụ thể về việc trừng trị những hành vi tham ô, ăn trộm của công. Trong quy định về thể lệ thu thuế đã định rõ: Quan lại thu thuế của dân, ngoài mười phần đóng vào kho nhà nước, được thu riêng một phần gọi là "hoành đầu", kẻ nào thu quá số ấy thì bị khép vào tội ăn trộm. Khố ty thu thuế lụa, nếu ăn lễ của dân để lấy lụa thì cứ mỗi thước lụa phạt 100 trượng, nếu lấy từ một đến trên 10 tấm thì theo số tấm sẽ thêm phối dịch 10 năm. Luật Hồng Đức cũng có những quy định rõ ràng về chế độ thưởng xứng đáng cho người dân tố cáo đúng sự thật các hành vi tham nhũng: "Người thu lúa thuế ruộng mà giấu giếm giảm bớt không đúng sự thực thì người cáo giác được thưởng tùy theo việc nặng nhẹ". Trong Hoàng Việt luật lệ có 17 quyển qui định riêng với tội nhận hối lộ. Đến triều vua Minh Mạng đã cho sửa chữa và bổ sung để hạn chế thấp nhất nạn tham nhũng. Tiêu biểu là luật "Hồi tỵ" (nôm na là không đưa người sinh ra ở đất đó về làm quan ở đó), đây là một nguyên tắc quan trọng trong tổ chức bộ máy chính quyền thời Minh Mạng. Luật ban ra nhằm ngăn chặn những trường hợp vì tình riêng mà đạp lên phép nước, kéo bè, kéo cánh hà hiếp dân lành để tham nhũng. Ngoài các biện pháp nhằm ngăn ngừa tệ tham nhũng trên, Minh Mạng còn cho đặt cơ quan chuyên giám sát các hành vi của quan lại và mở rộng giám sát trong quần chúng nhân dân. Những biện pháp chống tham nhũng Minh Mạng đề ra khá chặt chẽ, toàn diện, công khai nhằm hạn chế có hiệu quả tệ tham nhũng.
Những dẫn chứng trên chỉ là số ít trong rất nhiều các chính sách phòng chống tham nhũng trong các triều đại phong kiến. Chống tham nhũng là việc khó nhưng nói như vua Lê Thánh Tông thì không thể không làm vì điều đó liên quan đến an huy của giang sơn, xã tắc.
Trị quan tham
Trị quan tham theo chỉ dụ, luật lệ mà vua đã ban hành không chỉ giữ nghiêm phép nước, mà còn là lời cảnh báo cho các quan đã trót nhúng chàm nhưng chưa bị phát hiện, đồng thời để các quan có ý định giữ mình. Trị quan tham nhũng là một trong nhiều cách để hạn chế tệ nạn này, tuy nhiên qua lịch sử các triều đại phong kiến đã cho thấy, vua, chúa hay quan phụng mệnh triều đình xử quan tham nhũng theo những cách riêng của mình.
Trịnh Khả (1403 - 1451), người xã Sóc Sơn, huyện Vĩnh Ninh (nay là huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa) vì có công, ông được mang quốc tính nhà Lê, vì thế sử vẫn chép ông là Lê Khả. Tổ tiên của Trịnh Khả từng có người làm quan dưới thời Trần, sang thời Hồ, thân sinh của Trịnh Khả là Trịnh Quyện làm chánh tổng. Sách Đại Việt thông sử chép: "Ông 16 tuổi, đi cày ruộng chăn trâu, ngồi nghỉ ở cổng chùa trên núi. Có viên tướng nhà Minh từ thành Tây Đô đến, thấy vẻ mặt ông thì ưa, bèn dẫn về nuôi làm nô, ít lâu sau, y xem tướng bảo rằng: Đứa bé này hình rồng mắt hổ, khỏe nhất ba quân, ngày sau tất cầm cờ mao tiết. Chợt lại bảo: Ngày sau đuổi chúng ta tất là mày, phải giết ngay đi, nếu không sẽ lo ngại về sau." Trịnh Khả trốn được, sau đó có mặt trong hội thề Lũng Nhai và trở thành một trong những vị tướng của Lam Sơn, lập được nhiều công lao. Năm 1428, ông được Lê Lợi phong hàm Kim tử vinh lộc đại phu, Tả lân hổ vệ tướng quân, tước Liệt hầu, có tên trong bảng khắc ghi danh sách 93 vị công thần khai quốc. Đầu đời Lê Nhân Tông, Trịnh Khả được phong hàm Nhập nội suy trung tán lí dương vũ công thần, kiêm Lỗi Giang trấn phủ quân, Thượng tướng quân, cai quản việc quân các vệ ở Tây Đạo, tước Quận thượng hầu. Lúc này, cùng với Lê Thụ, ông là bậc tể phụ của triều đình, nhưng khác với Lê Thụ, ông là người thẳng thắn, biết tự nhận lỗi của mình. Sinh thời, ông rất ghét bọn tham quan ô lại và bọn xu nịnh, Đại Việt thông sử viết: "Viên Chủ bạ Nam Đạo là Đàm Thảo Lư ẩn lậu 4 quan tiền thuế, theo luật không đến nỗi xử tử, nhưng y đã từng vu hãm Nguyễn Thiên Tích nên ông ghét lắm, bèn quyết định ghép vào tội chết." Viên Chuyển vận phó sứ huyện Văn Bàn là Trương Tông Ký ăn hối lộ, việc phát giác, án làm xong sắp đem chém thì tả hữu xin tha, ông nói: "Ăn trộm của một nhà còn không tha được huống hồ ăn trộm của một huyện sao tha được." Để kẻ bị tội tâm phục khẩu phục, Trịnh Khả lại cho tra xét lại và cuối cùng vẫn xử tội chết, điều đó khiến các quan vừa nể vừa sợ.
Vua Lê Thánh Tông là người kiên quyết chống tham nhũng nhưng tùy theo tội mà xử nặng nhẹ, song có khi tội nặng nhưng ông vẫn tha mạng sống để họ hối lỗi từ đó mà phụng sự triều đình tốt hơn. Thượng thư các bộ nếu có hành vi tham ô, tham nhũng thì cứ chiếu theo luật mà định tội: "Bọn Nguyễn Thư, Phan Trinh đều là thân phận là người gần vua mà ăn của đút, quan giữ việc pháp luật cầm công cán công bằng đáng phải luận bọn này vào tội tử hình". Có kẻ phạm tội bị buộc vào tội hình và có người đứng ra xin cho nộp tiền chuộc nhưng Lê Thánh Tông bảo bầy tôi trong triều rằng, xin cho người mắc tội tham tang được nộp tiền chuộc, như thế thì người giàu có nhiều của đút lót mà khỏi tai vạ, người nghèo vì không có tiền mà phải chịu tội lỗi, thế là làm trái cả phép tắc của tổ tông và hạ lệnh cho pháp ty xét xử trị tội theo luật định. Một lần, con trai của Tây quân Đô đốc Lê Thiệt cưỡi ngựa phi thẳng vào chỗ đông người đã gây ra tai nạn mà còn bỏ mặc họ. Khi biết là con của Lê Thiệt, Thánh Tông đã sai lính nọc ra đánh 50 roi và cách chức ông bố. Lê Thánh Tông cũng đã cấm vợ các quan lớn không được đi lại, chơi bời với nhau vì sợ bọn họ cấu kết rồi đi cửa hậu, con cái của các quan lớn cũng không được lợi dụng chức quyền của bố mình để làm các việc phi pháp.
Khi Phan Thiên Tước dâng sớ hạch tội một đại thần của triều đình là Tiền quân tổng quản Lê Thụ, với hai tội danh: Đang có quốc tang mà dám cưới thiếp và làm giàu trái phép bằng cách sai người nhà buôn bán vụng trộm với người nước ngoài, rồi xây dựng nhà cao cửa rộng. Lê Thái Tông ngạc nhiên vì ông nghe nhiều tin đồn là không ít các mệnh quan đều đua nhau sai quân lính dưới quyền mình xây dựng nhà cửa, lâu đài... mà không thấy Thiên Tước đả động đến. Thái Tông bèn hỏi: "Sao khanh chỉ tâu có một mình Thụ? Thế còn các đại thần khác không ai làm như Thụ hay sao?".Thiên Tước biện minh: "Tâu bệ hạ, đô đốc, tư khấu, tư mã, đều là bậc đại thần cố mệnh cả, cho nên cần phải giữ mình ngay thẳng để còn dẫn dắt mấy trăm quan khác. Các vị ấy làm việc gì nhất thiết đều phải theo phép hay tâu cáo trước rồi mới được làm. Thần thấy Thụ đã làm những điều trái phép nên không thể không nói. Vả lại Thụ có mấy việc, nên tâu gồm một thể. Nay bệ hạ chỉ giáo như vậy, thần xin vâng mệnh đi khám xét nhà cửa của tất cả các đại thần khác." Rồi sau một thời gian dò xét, điều tra Thiên Tước dâng sớ cả thảy 20 người đã làm nhà mới. Thái Tông xem xong, không hỏi đến các quan khác và chỉ sai khám xét tài sản của Lê Thụ. Thấy Thụ bị nguy, các đại thần là Đô đốc Lê Vấn, Tư mã Lê Ngân tâu với vua rằng Lê Thụ là bậc thân huân xin vua nhẹ tay. Nể lời các đại thần, Thái Tông tha cho Lê Thụ, chỉ tịch thu 15 lạng vàng và 100 lạng bạc do việc buôn lậu với thương nhân nước ngoài mà thôi. Riêng việc "cưới nàng hầu" Trình Thị là hôn nhân cưỡng ép, bèn sai rút Trình Thị khỏi hộ tịch của Thụ, cho chuộc thân trở lại làm người tự do, được quyền lấy chồng khác. Vào đời vua Lê Nhân Tông, Lê Nhân Lập là con của Thiếu úy Lê Lan cùng với bọn người xấu trong kinh thành là Nguyễn Thọ Vực họp nhau đánh bạc, trộm cướp. Tệ hại hơn, Lập lợi dụng quyền lực của cha để nhũng nhiễu nhận hối lộ của kẻ cần cầu cạnh cha mình. Trước những việc làm bậy, triều đình đã sai quân đến tận nhà Vực dụ Lập và đồng bọn ra ngoài rồi thẳng tay chém đầu.
Minh Mạng (1820-184) là vua thứ hai của nhà Nguyễn, không chỉ ban chiếu dụ nhằm đưa ra các chủ trương hạn chế, ngăn ngừa nạn tham nhũng mà còn xử lý rất nghiêm khắc, đặc biệt là hàng quan theo Hoàng Việt luật lệ. Tham nhũng trên mọi lĩnh vực đều căn cứ vào mức độ phạm tội mà xét xử, tội nặng thì cho chém đầu rồi bêu ở chợ hay chặt tay. Minh Mạng cho rằng xử tội chết có thể khắt khe nhưng là rất cần thiết để ngăn chặn tệ tham nhũng và làm gương cho kẻ khác. Vụ của Nguyễn Đức Tuyên ăn cắp nhựa thơm bị phát hiện, vua dụ rằng: "Tội của Tuyên đáng lẽ cho trói mang giong ra chợ Cửa Đông chém đầu nhưng lần này tạm chặt một bàn tay thủ phạm treo lên, xóa tên của nó ra khỏi sổ quan, để lại cho nó cái đầu khiến cho nó suốt đời phải hối hận và nhờ đó mọi người biết mà tỉnh ngộ". Vụ Đinh Văn Tăng tham nhũng trong cân đong thóc gạo bằng việc đổi cách làm phương hộc (một dụng cụ đo lường) nên bị chém đầu và chặt một bàn tay ướp muối phơi khô rồi treo lên để mọi người thấy mà ghê. Đối với người thân, Minh Mạng cũng xử lý nghiêm khi họ phạm tội, không phân biệt người thân hay sơ, tất cả đều bình đẳng trước pháp luật.
Tự Đức (trị vì từ 1847-1883) là vị vua thứ tư của triều Nguyễn và là vị vua nổi tiếng chống tham nhũng, hối lộ và xử nghiêm bằng luật. Vũ Dinh là vị quan thanh liêm, chính trực có lần cho lính theo dõi và bắt quả tang người coi kho lấy trộm tiền, giấu vào túi áo rồi tìm cách trốn ra quán uống rượu. Bản án được lập:
Nhất nhật nhất tiền
Thiên nhật thiên tiền
Thằng cứ mộc đoạn
Thủy trích thạch xuyên
(nghĩa là: Một ngày một đồng/Ngàn ngày ngàn đồng/Dây cưa gỗ đứt/Nước chảy đá mòn). Tội biển thủ nếu không trị nặng ban đầu thì một ngày kia, kho tàng của nhà nước sẽ trở nên trống rỗng, cho nên tội này phải tội chém. Nhà vua xem xong liền phê chuẩn y án. Tháng 12-1854 (năm Giáp Dần), sau khi một thương nhân Trung Quốc là Chu Trung Lập gửi đơn lên triều đình tố giác quan lại nhiều địa phương ăn của đút lót thương thuyền ngoại quốc. Tự Đức liền phái quan Quản viện đô sát cầm đầu đoàn thanh tra triều đình đến Quảng Nam điều tra làm rõ vụ việc và đã phát hiện những tố giác trên là có thật. Chiếu theo Hoàng Việt luật lệ, 17 người bị xử tội giảo giam hậu (bắt thắt cổ chết nhưng còn tạm giam đợi lệnh), 25 người bị tội lưu đày, 12 người bị tội làm lao dịch, 8 người bị phạt đánh gậy và cách chức. Nhiều quan lớn cũng bị dính vào vụ này như Tham tri bộ Hộ Phan Tĩnh, nguyên Bố chánh Đào Trí Phú, nguyên đốc học Phan Bật chia nhau 60 lạng bạc bị tội lưu đày, Tri phủ Điện Bàn Nguyễn Bá Đôn ăn hối lộ 12 lạng bạc, án sát Đặng Kham nhận đút lót 82 lạng bạc, Kham sợ quá nên lâm bệnh chết trong tù. Đây là vụ án xử hối lộ lớn nhất ở nước ta thời kỳ phong kiến.
Với vụ án Trần Dụ Châu, trước những chứng cứ không thể cãi, tòa đã tuyên tử hình Trần Dụ Châu và Lê Sỹ Cửu. Nhân vụ án Trần Dụ Châu, xã luận báo Cứu Quốc số ra ngày 27-9-1950 có đoạn: "Có người e ngại: Chúng ta mở toang vụ án này, công khai vạch rõ nhưng tội lỗi nhơ bẩn của Trần Dụ Châu và bè lũ có thể làm một số dân chúng chê trách, hay kẻ địch bám vào đấy để nói xấu chính quyền, đoàn thể ta. Không! Chúng ta không sợ phê bình và tự phê bình những khuyết điểm của ta. Chúng ta khác bọn phản động và hơn hẳn chúng ở chỗ đó. Đấy là một sự khuyến khích nhân dân thẳng thắn, phê bình những sai lầm của cán bộ, của Chính quyền, đoàn thể vì họ đã hiểu chính quyền, đoàn thể ta là chính quyền, đoàn thể của họ và họ nhất định không tha thứ những kẻ nào đi ngược quyền lợi của họ...Chúng ta phải thẳng tay vạch mặt và trừng trị những bọn ấy, những kẻ tham ô, hoang phí, những kẻ mưu sống phè phỡn trên mồ hôi nước mắt người khác, để tiến tới xây dựng một nền tảng chính quyền nhân dân thật vững vàng..." Sau vụ án Trần Dụ Châu, tinh thần của bộ đội lên cao, làm tăng khí thế giết thù.
Đó chỉ là vài trong số rất nhiều vụ việc tham nhũng bị vua chúa các triều đại phong kiến trừng trị nghiêm khắc. Song cũng không ít quan tham tội rành rành khiến dân chúng oán thán nhưng cũng không bị hặc tội mà Thất trảm sớ của Chu Văn An bị vua Trần Dụ Tông từ chối là một ví dụ.