Xe điện xuất hiện ở Hà Nội từ cuối thế kỷ XIX, từ khi chưa có điện lưới và phải dùng máy phát, tuy nhiên thì nó cũng chỉ đáp ứng một phần nhu cầu đi lại trong nội đô ra ngoại thành và ngược lại.
Sau đại chiến thế giới lần thứ I, vào khoảng năm 1919,1920, 4 chiếc xe buýt hiệu GM (của Mỹ) lần đầu tiên xuất hiện tại Hà Nội. Xe có hai hàng ghế băng sát vào thành chở được khoảng 20 khách. Nơi đón trả khách chính là bến Cột đồng hồ ngay gần cầu Long Biên, gọi là bến nhưng sơ sài, có gian nhà nhỏ làm nơi điều hành, sân bến rải đá răm. Tuy nhiên cũng không biết ai là chủ những chiếc xe này chỉ biết lái xe là người Việt Nam đi lính thợ cho quân đội Pháp trong thế chiến thế giới thứ I có bằng do chính phủ Pháp cấp .
Do cầu Long Biên khi đó còn hẹp chưa mở rộng thêm hai bên nên 4 chiếc xe này chở khách đi Hưng Yên không thể qua được cầu phải đi phà Đen sang bên kia sông. Năm 1923, việc mở rộng đường hai bên cầu hoàn thành nên xe không phải qua phà nữa. Rồi số đầu xe tăng nhanh, bến Cột đồng hồ trở nên chật chội nên chính quyền thành phố quyết định chuyển bến ra chỗ chuyên bán Nứa (cách bến cũ không xa về phía bắc) vì thế mới có tên bến Nứa. Ba hãng xăng là Shell,Socony và Texaco (của Mỹ) mở điểm bán xăng tại bến này và Texaco đã dành được quyền tài trợ xây nhà bán vé khang trang, trên nóc có cột hình vuông bốn mặt có tên Texaco. Theo tạp chí "Tự nhiên" xuất bản bằng tiếng Pháp năm 1926, thì năm 1925, trung bình một ngày có 4 xe tải, 166 xe ô tô con và 79 lượt xe buýt qua lại cầu Long Biên.
Từ bến Nứa cũng có xe đi Hưng Yên, Sơn Tây, tuyến ngắn chạy đến Chèm, khách chủ yếu là người buôn bán và các chức dịch nông thôn đi Hà Nội mua sắm hàng hóa. Đi Sơn Tây có 4 hãng lớn gồm: Tư Đường, Chí Thành, Mỹ Lâm và Larriveé (chủ Pháp). Thống soái tuyến đi Hưng Yên là hãng Con Thỏ, chủ là Lê Hữu Luân, ông này xuất thân là thợ mộc rong, nhà xe Bảo Ký thấy Luân nhanh nhẹn cho làm nhân viên đứng đón khách ở bến rồi Luân tố cáo ngầm một phụ xe không chăm khách nên được cất nhắc lên phụ xe và sau đó đi học lái. Nhờ tiêu pha tằn tiện, Luân mua được chiếc xe cũ tự chạy và dần dần bứt lên làm chủ hãng với 29 chiếc.
Những năm đầu 1920, ở gần Cửa Nam cũng có một bến nhưng khu vực này phát triển nhanh chóng với nhiều nhà xây mọc lên, dân cư ngày càng đông đúc đã cản trở giao thông nội đô nên hội đồng thành phố quyết định chuyển xuống Kim Liên, dẹp bỏ chợ của làng này làm bến. Bến này có xe tuyến dài đi Nam Định, Thái Bình, tuyến ngắn đi Phủ Lý, Thường Tín, Văn Điển và Ngọc Hồi. Phía tây có bến Kim Mã hình thành cũng vào cuối những năm 1920 chuyên chở khách đi Sơn Tây, Hòa Bình, tuyến ngắn đi Hà Đông và Ba La.
Xe buýt thời Pháp chỉ có một cửa lên xuống ở phía sau. Ban đầu có hai hàng ghế gỗ sát thành xe như ghế tầu điện và tầu hỏa ở giữa là dành chỗ đi lại. Nhưng sau đó nhận thấy để ghế dọc chở ít khách nên các hãng cải tiến thành ghế ngang để chở được nhiều, trung bình mỗi xe trở khoảng 30 khách. Năm 1930 cả Bắc Kỳ có gần 5000 xe các loại trong đó có 405 xe buýt nhưng tập trung chủ yếu ở Hà Nội với khoảng 240 đầu xe, số xe ở Hải Phòng khoảng 120 xe. Xe buýt cạnh tranh quyết liệt với tầu hỏa nên có câu vè:
Ve vẻ vè ve
Cái vè xe buýt
Đút khách đằng đít
Lái xe ngồi đầu
Đi qua ổ trâu.
Bươu đầu bẹt đít
Đường bằng chạy tít
Một loáng về nhà
Còn hơn ra ga
Chờ anh tầu lửa
...
Năm 1941, một tờ báo xuất bản ở Hà Nội bằng tiếng Pháp đã vẽ tranh châm biếm, phần giữa xe ép sát đất khách còn hàng hóa trên nóc cao lên tới mặt trời. Sở dĩ có chuyện này vì chiến tranh thế giới thứ II xảy ra xăng dầu nhập vào Việt Nam khó khăn, thiếu xăng dầu, thiếu phụ tùng nên nhiều xe phải đắp chiếu, có chủ xe cải tiến để chạy than. Trong bộ sách 3 tập Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX tác giả Nguyễn Văn Uẩn kể về thân phận của một chủ xe buýt, đó là ông Lê Văn Kim. Xuất thân trong một gia đình nghèo,mẹ bán quà vặt ở bến Nứa từ khi còn nhỏ, Kim đã phải bán nước chè tươi thuốc lào quanh bến. Lớn lên có chủ xe cho làm chân đón khách rồi phụ xe và đi học lái. Cũng nhờ tiết kiệm nên Kim đã mua được xe riêng và năm 1940, Lê Văn Kim đã có 5 chiếc. Không chỉ mua được xe mà Lê Văn Kim còn mua được nhà mặt phố Trần Nhật Duật. Năm 1946, nghe theo lời kêu gọi của chính phủ kháng chiến, Lê Văn Kim đã dùng cả 5 xe chở tài liệu ra khỏi thành phố để chuyển lên chiến khu. Năm 1947, Thực dân Pháp tái chiếm Hà Nội, xe của ông vẫn chạy tuyến Sơn Tây, Hưng Yên, Hòa Bình cho đến năm 1959 khi nhà nước cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh 5 chiếc xe được công tư hợp doanh vào một xí nghiệp xe khách nhà nước, còn ông bị qui là tư sản. Gia cảnh sa sút cuối cùng phải bán nhà và năm 1982, người ta thấy một ông già bán nước chè nhặt từng hào ngay trước ngôi nhà mà xưa kia là nhà của ông ...
Trước khi Hà Nội tiến hành cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh vào năm 1959, Hà Nội có gần 800 xe lớn nhỏ gồm xe buýt và xe tải. Năm 1960, 95% số ô tô được công tư hợp doanh và Hà Nội tiến hành nhập hai xí nghiệp công tư hợp doanh thành Xí nghiệp xe khách Hà Nội, chủ yếu chạy đường dài đi các tỉnh, đỗ ở ba bến xe: Bến Nứa, Kim Mã và Kim Liên. Năm 1957, cán bộ miền Nam tập kết ra Hà Nội được Ban Thống nhất Trung ương cấp vốn mua 10 ô tô khách lập Tập đoàn ô tô buýt Thống Nhất phục vụ đi lại của dân. Tháng 2-1958 mở tuyến Kim Liên-Hà Đông, tháng 12-1962, Xí nghiệp xe khách Hà Nội và Tập đoàn xe buýt Thống Nhất hợp nhất thành Xí nghiệp xe khách Thống Nhất phục vụ giao thông công cộng của thành phố với 192 xe. Xe buýt hay ô tô buýt là mượn từ tiếng Pháp autobus chỉ xe chở người, thời Pháp thuộc vẫn gọi cho là xe buýt dù xe tuyến ngắn hay tuyến dài, nhưng đến chế độ mới thì khách đi xe đường dài được mang theo hàng hóa gọi là xe khách còn xe chạy tuyến ngắn gọi là xe buýt
Xe buýt nhanh chóng trở thành phương tiện chủ yếu của cán bộ công nhân viên chức đi làm, học sinh, sinh viên đi học, năm 1964 đã có 903 khách mua vé tháng. Cuối năm 1965 dù Mỹ ném bom miền Bắc và Hà Nội nhưng Hà Nội có tới 300 xe buýt chạy 8 tuyến. Do thành phố bù lỗ nên giá vé đồng hạng ở tất cả các tuyến, vé rẻ nên rất đông vì nhiều người bỏ xe điện đi xe buýt cho nhanh. Kẻ gian lợi dụng chen lấn đã móc túi, khiến người bán vé luôn mồm nhắc khách cảnh giác nhưng mất cắp vẫn xảy ra. Trước năm 1975 xe buýt chủ yếu là nhãn hiệu Hải Âu (sản xuất tại Liên Xô, có hai cửa lên xuống), xe Ba Đình (đóng trong nước sử dụng máy IFA của Cộng hòa dân chủ Đức) và Q50, ngoài ra còn có một ít xe Lavop (của Liên Xô). Rồi xe đạp tăng lên nhanh chóng do những người đi xuất khẩu lao động ở Tiệp Khắc, Cộng hòa dân chủ Đức, Liên Xô... gửi về, số lượng xe máy cũng tăng lên hơn nên xe buýt vắng khách, năm 1985 đi xe buýt phần lớn là sinh viên, hoặc nơi làm quá.
Những ai từng đi chuyến 9 giờ, 9 giờ 30, 10 giờ từ Nhổn ra Lò Đúc khó có thể quên được cảnh cả con chó đã luộc chín bôi hoa hiên vàng nhởn nhe răng nằm trong những chiếc thúng nhờn vì mỡ. Và từ đầu xe đến cuối xe Karosa của Tiệp Khắc dài ngoẵng toàn chó là chó, may mà phụ xe mở cánh cửa nóc, không thì khách chết ngất vì mùi hôi. Người ta mang vào nội thành để bán ở các quán bia hơi và các chợ. Chuyến 10 giờ 30, 11 giờ, 11 giờ 30 và 12 giờ từ Nhổn bắt đầu đông khách nên đến bến Thương Mại (trước cổng Đại học Thương Mại), xe vắng thì tài xế đón còn đông thì họ chạy luôn. Nhưng khách vé tháng ở bến này hầu hết là sinh viên Thương Mại, Sân khấu-Điện ảnh, trường Múa, Xiếc và diễn viên Nhà hát giao hưởng, Ca múa nhạc dân tộc... đâu có vừa, biết cánh tài xế thích khách đi xe mua vé bằng tiền hơn vé tháng và thích các em xinh tươi nên vào giờ cao điểm, mọi người bàn nhau cắt cử một diễn viên nổi tiếng hay một cô sinh viên múa trẻ trung đứng sát đường còn tất cả ép vào bên trong. Khi chiếc Karosa dùng lại lúc ấy tất cả nhanh chóng ùa ra chen chúc lên xe. Biết mưu nhưng cánh lái xe vẫn thích mắc mưu vì có ca sỹ ngồi bên cạnh giao lưu vài câu cũng đỡ căng thẳng.
Vì đường Nguyễn Trãi có ba trường đại học là Tổng hợp, Kiến trúc và Đại học Ngoại ngữ nên tuyến Bờ Hồ-Hà Đông, sinh viên đi vé tháng cũng đông và cánh sinh viên Kiến trúc cũng bầy ra lắm trò. Có một anh chàng học kiến trúc không biết nhà ở đâu nhưng sáng sáng lên xe từ đầu phố Hàng Bột. Anh này bị hôi nách và cứ bắt đầu lên xe là giơ tay lên cao, mặt tỉnh bơ, mà cái mùi của anh ta đậm đặc như nước mắm cốt khiến nhiều người không chịu nổi kín đáo bịt mũi né sang một bên cho anh vào. Vì khách đi xe buýt nói chung là biết nhau nên lần sau cứ thấy anh này lên là mọi người tự động giãn ra. Một sinh viên kiến trúc khác tên Lâm ngày nào lên xe cũng bỏ vào túi sách của nữ sinh Đại học Ngoại ngữ tên Khánh Thương một bức thư tỏ tình. Nếu hôm nào anh nghỉ học thì nhờ bạn cùng trường làm hộ cái việc anh vẫn làm, còn khi Khánh Thương nghỉ học, Lâm gửi lại, đợi cô đi học bỏ luôn thể, có khi mấy lá liền. Suốt năm năm đại học, Khánh Thương không phản ứng gì, cô chỉ cười và buổi học cuối cùng Khánh Thương nhét vào bị cói của Lâm một bức thư dặn về nhà hãy đọc. Tò mò Lâm mở ra đọc ngay, thư chỉ vẻn vẹn có năm chữ "Thằng cùn, em yêu anh". Trên xe buýt đông người nhưng Lâm ôm chặt Khánh Phưong và hôn nồng nàn, mọi người quay mặt đi nhưng ghen tỵ. Năm 1985, cả hai đi làm phiên dịch cho lao động xuất khẩu ở Liên Xô và bây giờ họ định cư ở Nga. Các tuyến khác như Bờ Hồ-Đông Anh, Bờ Hồ-Chèm, Bờ Hồ-Văn Điển cũng vô khối chuyện hài hước, nào chen nhau bẹp cặp lồng cơm phòi cả ra muống ra, nào các cô cứ phải tránh xa những anh chàng mới lớn và cùng tóe lên cười trước câu đùa hóm hỉnh. Năm 1988, có sinh viên khoa văn Đại học Tổng hợp đã tập hợp các chuyện trên xe buýt thành tập chuyện nhưng vì chỉ có khoảng 70 trang nên không nhà xuất bản nào chịu in.
Đầu những năm 1990, là vận bĩ của xe buýt, khối Đông Âu tan rã nên xe hỏng không có phụ tùng thay phải bán phế liệu rồi xe máy quá nhiều nên người ta lờ xe buýt. Khi thành phố chấn hưng phương tiện công cộng này, thay xe Đông Âu bằng xe Hàn Quốc có máy lạnh nhưng ban đầu vắng ngắt, khách chỉ là các cô Osin dỗ trẻ ăn, từ nội đô sang sân bay Nội Bài là hết bát bột. Vào mùa hè, nhà không có điều hòa, bà cho các cháu lên xe buýt ngủ trưa cho mát. Đầu năm 2000, ngành giao thông mở đường riêng cho tuyến xe buýt nhanh Bờ Hồ-Hà Đông nhưng thất bại thảm hại vì đường chật chội và người ta đi như người ta muốn chứ không phải đi theo luật. Rồi lại có quốc gia cấp vốn ODA nhưng bắt phải mua xe buýt cũ hay mua xe buýt hai toa, may mà các chuyên gia lên tiếng nếu không thì bây giờ không biết làm gì với cái xe dài ngoẵng. Ở nông thôn sợ nhất xe công nông còn ở Hà Nội dân gọi xe buýt là hung thần đường phố...