• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Đi dọc Hà Nội
  3. Trang 6

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 5
  • 6
  • 7
  • More pages
  • 42
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 5
  • 6
  • 7
  • More pages
  • 42
  • Sau

3BỐN CON YÊU LONG THÀNH VÀ MA HÀNG TRỐNG

Cuối thế kỷ XIX, khu vực bờ sông còn hoang vắng và nhà cửa còn thưa thớt nhưng bến tầu sông thì lúc nào cũng nhộn nhịp khách lên xuống vì lúc này chưa có xe lửa. Có ba hãng tầu thủy cạnh tranh nhau khốc liệt gồm có Sauvage của chủ Pháp vì ông này bị điếc nên dân gọi là hãng tầu Tây điếc, hãng Bạch Thái Bưởi và một hãng Tầu Hiệu của tư sản người Hoa. Đường Bờ Sông có tên Pháp là Quai Guillemoto (nay là Trần Quang Khải). Hãng Sauvage xây trụ sở ở đây (nay là Trường Phổ Thông Nguyễn Huệ). Ở góc nhà Sauvage có một cây si già um tùm lá và rễ. Đây là đất của thôn Trừng Thanh Thượng (từ Cột đồng hồ đến phố Hàng Muối), sau đó tách làm hai thôn Thanh Yên và Thanh Lân. Buổi tối dân không dám đi qua vì gốc cây si có ma, chuyện là có cô gái trong thôn ra sông gặt giũ lúc xâm xẩm, khi lên thì bị ma ra trêu trọc, sợ quá cô bỏ chạy, quần áo rơi xuống đất không dám quay lại nhặt. Sáng hôm sau quay lại tìm thì thấy quần áo được treo lên cây si đàng hoàng và không lấm tí đất nào. Thấy vậy một người trong thôn mới lấy một chiếc bình vôi cũ mang ra treo lên gốc cây và từ đó cứ ngày rằm, mồng một ra thắp hương. Thấy vậy nên một người đàn ông làm loong toong cho nhà Sauvage tên là Sáu đã bỏ tiền xây một cái miếu con để chỗ thờ đàng hoàng. Từ đó dân Trừng Thanh Thượng không ai bị ma ghẹo nữa nhưng vợ của chủ hãng Sauvage là một cô đầm lai, cô này chẳng tin vào chuyện ma quỷ nên không không bao giờ ra miếu thắp hương, thế nên cô ốm. Cứ đêm xuống cô đầm lai thấy lởn vởn bóng người, dậy châm đèn thì cái bóng biến mất. Đi khám các bác sỹ không biết bệnh gì. Một hôm cô kể lại chuyện đó cho ông Sáu nghe thì ông khuyên cô nên thắp hương cầu xin ma đừng hành nữa. Cô này làm theo và bỗng nhiên khỏi bệnh, thế là cô ta bỏ tiền ra xây thành miếu to hơn và dân làng gọi là miếu Hiển ứng. Dân chúng quanh vùng và nhiều nơi đến thắp hương cúng bái nên từ đó ma không ghẹo ai nữa.

Đó là chuyện từ thời Pháp thuộc nhưng từ cuối đời Lê, tục ngữ Thăng Long có câu:

Long thành có bốn yêu tinh

Yêu trước hồ Giám yêu đình Đồng Xuân

Yêu cây bàng giữa Hàng Cân

Yêu gốc cây Liễu bên sân chùa Tầu

Bốn con yêu ấy thống quản phần âm u, phần tín ngưỡng lòng dục vọng của người thành Thăng Long suốt đời Cảnh Hưng, Chiêu Thống, Quang Trung, Cảnh Thịnh, Gia Long. 80 năm làm ma làm yêu ở thành Thăng Long, bốn con yêu ấy kể ra cũng khỏe cũng dai lắm. Sau khi nó đã tàn thời hết thiêng mà thiên hạ vẫn còn e ấp sợ hãi mãi. Trong một cuốn sách, nhà văn Nguyễn Triệu Luật kể về bốn con yêu này:

"Trước cửa Giám bây giờ người ta vẫn thấy một cái hồ con. Giữa hồ có một bãi cỏ xanh, giữa bãi cỏ xanh có một cái miếu nhỏ. Hồi ấy cuối đời Lê còn rộng sau này mở mang thành phố nên người ta mới lấp bớt đi. Con yêu trước hồ thường ẩn hiện ở những nơi hoang vu quanh Giám mà ít khi dám vào trong đền. Con yêu ấy của đáng tội cũng không yêu ác gì cho lắm vì suốt đời 80 năm của nó, nó không từng làm hại một người nào. Nó chỉ đón bọn học trò rồi trêu ghẹo chơi nếu người ấy không đứng đắn. Nếu người đó đứng đắn thì nó cũng chẳng trêu ghẹo nhưng có điều ai cũng nhận thấy là: Ai gặp nó ôn tồn chào hỏi thì người ấy tất về sau khá, ai thấy nó cung kính thì người ấy tất về sau nổi tiếng và được người ta kính trọng vô cùng dù sự nghiệp lận đận dù đời nhiều đoạn bi thương. Ai thấy nó mà hát hỏng bông đùa thì người ấy tất là người quỷ quyệt và hay chết một cách bất thường. Ai thấy nó quay mặt đi, người ấy tất là tiểu nhân nham hiểm. Năm ông Lê Quí Đôn đi thi gặp con yêu đó ở cổng Văn Miếu, nó chắp tay vái dài một cái rồi nói: Ông thông minh hơn người nhưng đừng kiêu hãnh quá mà chết có ngày.

Năm Cảnh Hưng 27 khoa thi Bính Tuất, Ngô Thì Sỹ và Lý Trần Quán cùng đi qua trước hồ Giám, con yêu chắp tay cung kính khi hai ông đi qua. Lý Trần Quán đi trước, Ngô Thì Sỹ đi sau mấy bước. Lý đi khỏi, con yêu vẫn chắp tay cung kính như cũ và cất tiếng hát nho nhỏ:

Hơn nhau hơn một chữ thì

Cuối thu ngựa lại chết vì chuột con

Sau ông Lý Trần Quán đỗ tiến sỹ làm quan tới chức Thiêm Tri Lại Phiên rồi năm nhà Trịnh mất, chúa Trịnh bị bắt, ông tự chôn sống để theo chúa. Ngô Thì Sỹ cũng đỗ tiến sỹ nhưng đến năm Canh Tý ông chết vì công việc của ông đang làm. Tên chữ ông là Ngọ Phong, Ngọ là năm ngựa. Con yêu ấy báo tin cho ai đỗ ai hỏng rất đúng. Vì vậy ai gặp nó có thể dựa vào những câu chuyện đã xảy ra trước mà đoán biết qua loa vận mình. Nó ít khi hiện ra cho lái buôn cùng người cầy ruộng xem mà chỉ hiện ra cho học trò xem thôi. Có người nói phỏng rằng kiếp xưa nó là một người đàn bà có học hoặc vợ một người học trò bất đắc chí nên khi làm yêu ma, nó cũng thiện chí với học trò."

Bây giờ không còn ai có thể nhận ra đình Đồng Xuân vì nó bị che lấp bởi các cửa hàng nhưng cạnh phương đình giữa sân thời trước có một cây đề thật to, thân hai người ôm không xuể, tán cây vùng ra che khắp cái sân rộng ngót mẫu đất. Phương đình nấp dưới tán cây nên luôn được mát. Nhưng khổ nỗi là dưới gốc cây có ma nên ít người dám lui tới. Nguyễn Triệu Luật Viết: "Đó là chỗ con ma đình Đồng Xuân ở có lúc nó hiện ra ngồi trong phương đình, có lúc nó hiện ra đứng dưới gốc đề. Những đêm khuya thanh vắng dưới ánh trăng mờ dưới tán lá đề ngâm phong điệp thì ông thủ từ vẫn thấy nó đứng dưới gốc cây ngâm thơ đọc sách. Con yêu này cũng hơi giống con yêu hồ Giám cũng chỉ hay nói chuyện với học trò hay trêu người cũng không làm hại một ai. Nhưng nó khác là ở chỗ nó không cung kính một ai và hễ nói là nói câu sâu sắc chua chát. Gặp ai mà nó im quay mặt đi thì người đó khá giả đến nơi. Gặp ai nó nói mát cùng một câu là người ấy y như có việc bực mình xảy đến nay mai. Gặp ai nó vui cười chào hỏi là người ấy sau đây năm chìm bẩy nổi chẳng ra sao cả. Dường như nó khinh người sắp giầu sang chẳng thèm hỏi tới mà nó coi người phong trần lạc phá là bạn cùng thuyền." Bởi thế mới có câu ngạn ngữ:

Yêu Đồng Xuân cứ khinh

Tớ nhẹ đường công danh

Yêu Đồng Xuân mà trọng

Trăm việc làm trăm hỏng

Chỗ vườn hoa giáp hồ Hoàn Kiếm và đường Đinh Tiên Hoàng xưa là xóm An Trường phường Hàng Kiếm. Vào chỗ trước cửa nhà máy điện trông sang có cái ngõ đi thẳng vào ngõ An Trường. Đường đầu cái ngõ ấy trông xế là Tòa Đốc Lý (nay là UBND Thành phố Hà Nội) thấy cái tam quan chùa Tầu. Chùa ấy do người Tầu làm ra để ghi công ông Thiêm Đô Ngự Sử họ Phan đời Lê. Cũng theo Nguyễn Triệu Luật thì: "Ở giữa sân chùa có gốc liễu già, vào mùa xuân, tơ buông thõng dài từ ngọn đến sát đất trông như đàn bà rũ tóc hóng gió. Gốc liễu ấy lâu ngày thành tinh. Lâu ngày sợ tinh sợ yêu chùa cũng bỏ hoang luôn không ai nhìn nhận tới. Con yêu gốc liễu ấy ác hơn hai con yêu trên. Ai vô phúc trông thấy con yêu này thì ốm hàng tháng. Ai trao đổi lời nói với nó thì ít ra công việc cũng trắc trở hàng năm. Ai vô phúc tưởng nó là con gái mà trêu ghẹo bông đùa thì thế nào cũng mắc một tật nặng. Có người đi chơi chiều về qua xóm An Trường gặp nó đi trên bờ ruộng, tưởng là con gái nhà nào nên xuống bờ ruộng đón rồi nắm lấy tay. Về nhà bàn tay sưng húp mất sáu, bảy tháng. Lại có người vô phúc hơn ôm nó vào lòng, về nhà phát bệnh suốt, thân thể lúc nào sờ cũng lạnh ngắt như đồng. Như thế được mươi hôm rồi một hôm hét vang nhà "Nó lại ôm lấy tôi. Nó muốn ôm thì tôi cho xuống âm phủ mà ôm". Nói xong vật ra mồm mũi phun máu tươi ra được một lúc thì chết.

Có hôm trở trời, người dân xóm An Trường trông thấy nó ngồi đánh đu trên cành liễu. Có người đồn rằng kiếp trước nó là một trinh nữ đi qua bãi cỏ trước chùa bị một người hãm hiếp, ức quá cắn lưỡi chết. Vì chết một cách uất ức chua xót thế nên thành yêu nó vẫn mang một mỗi căm thù với hết thảy đàn ông. Vì thế nó chỉ trêu đàn ông và không trêu đàn bà."

Những cây bàng có yêu trú ngụ trên phố Hàng Cân nay không còn nhưng dai dẳng về con yêu ở đây vẫn còn trong dân gian, qua ghi chép "Con yêu cây bàng giữa phố Hàng Cân là yêu lành nhất. Nó làm ơn nhiều hơn gây vạ, ai mất mát vật gì đến khấn thì hôm sau đồ vật treo ở gốc cây bàng. Người có của cứ việc đến lấy mang về. Có khi đồ vật treo lủng lẳng ở thân cây đợi chủ nhân mất của đến lấy. Kẻ nào đem lòng tham lấy về thì hoặc ốm nhẹ hoặc ốm nặng, có khi chết. Sự trừng phạt sẽ đo theo giá vật ăn cắp và công con yêu đã khuân nó về. Thế rồi vào giữa đời Gia Long thì nó mất thiêng dần dần cho đến khi mất hẳn."

Từ đầu thế kỷ XX, đến những năm 1940, hầu như năm nào cũng có người tự vẫn ở hồ Gươm mà phần lớn là con gái tự vẫn vì tình. Nhiều tờ báo nhân cơ hội đã đã mô tả mùi mẫn để bán bào và có nhà văn nhanh nhạy đã viết thành tiểu thuyết tung ra hiệu sách. Năm 1936, nhân cô Phượng tự vẫn, có người đã viết thành kịch "Mồ cô Phượng", bà con hàng phố đi xem ai cũng sụt sùi thương tiếc. Số người chết nhiều đến mức có sinh viên trường thuốc Hà Nội là Vũ Công Hòe đã lấy làm đề tài luận văn tốt nghiệp năm 1938.

Chuyện kể rằng có một anh chàng ở quê ra Hà Nội làm thuê nhưng phải lòng cô gái con chủ thầu xây dựng, đi làm về kiểu gì cũng tìm cách nhìn thấy cô mới yên tâm. Khi cô gái lấy chồng thì anh này nghĩ thế thì sống làm gì nữa nên chờ đêm ra hồ Gươm tự vẫn. Vì chết trẻ nên hồn ma cứ loanh quanh khu vực hồ, tối tối lại hóa thành một cô gái xinh đạp rủ rê các cô gái buồn rầu ra hồ rồi dụ rằng, đến nhà em chơi sau đó dẫn thẳng xuống hồ. Thấy chuyện chẳng lành, các bà ở phố xung quanh hồ kéo nhau lên gặp đốc lý Virgitti xin xây miếu cho ma trú ngụ để nó không hại ai nữa nhưng viên đốc lý từ chối. Biết không thể được nên các bà bàn nhau, bí mật đặt một hòn đá ở gốc cây đa trong đền Ngọc Sơn và ngày rằm mùng một vào thắp hương, từ đó không còn ai tự vẫn ở hồ Gươm nữa.

Cũng đầu thế kỷ XX, khu vực phố Trương Hán Siêu, Ngô Văn Sở ra đến phố Bà Triệu nhà còn lưa thưa, vẫn còn ao rau muống, ao bèo và bãi cỏ. Hàng ngày có một người Ấn Độ mang bò sữa ra đây chăn thả. Ban ngày mọi chuyện yên ả nhưng cứ tối đến không ai dám đi qua vì nhiều lần đi qua bị ma trêu. Một đêm nghe tiếng kêu thất thanh, mấy nhà gần đấy cầm đuốc ra soi thì thấy một người đàn ông cứ đứng dưới ao hét, đưa cây sào cho ông ta nắm để đi vào bờ nhưng tay run run. Một người nhanh trí vào nhà đốt một nén hương mang ra khấn, quả nhiên ông ta trở lại bình thường như không có chuyện gì xảy ra. Để đêm không phải đi cứu người bị ma trêu nên mấy nhà quanh vùng đã góp tiền xây miếu dưới gốc cây thị (nay là Nhà xuất bản Kim Đồng), ngày rằm mồng một ra thắp hương, thế là từ đó không thấy ma trêu ai nữa. Vì cái miếu làm ngay gốc cây thị nên dân gọi là miếu Cây thị.

Cách đây chục năm, ai đi qua phố Hàng Trống đều thấy ngôi nhà hai tầng số 138 rêu phong, cửa đóng then cài. Người ta đồn đại ai mua nhà đó đều thắt cổ tự tử nên nhà phải để hoang. Nhưng chuyện không phải như vậy, căn nhà đó được ông cụ từng là lái xe ở một sứ quán chia cho các con. Vì chật chội nên anh em trong nhà thống nhất bán lấy tiền mua chỗ khác. Mọi người đã bán phần của mình cho người mua giầu có nhưng còn một người dứt khoát không bán nên người mua không thể sửa chữa. Cuối cùng thì anh này cũng bán phần của mình tất nhiên là với cái giá anh đưa ra. Chẳng có ma Hàng Trống nào cả.