Những năm 60, 70 thế kỷ trước, mỗi khi hai đám con trẻ xảy ra mâu thuẫn đến mức cần phải đánh nhau thì hỏi nhau "táp lô hay quân tử" (táp lô là hai bên cùng xông vào đánh, quân tử là một chọi một), thống nhất được mới bắt đầu đánh nhau và bên nào bỏ chạy nghĩa là bên đó thua. Trong giới trẻ còn có câu nữa: "Một chọi một lên cột đồng hồ" . "Một chọi một" nghĩa là để giải quyết va chạm hoặc mâu thuẫn, cánh thanh niên xử sự rất quân tử là đánh nhau tay đôi, còn "cột đồng hồ" là địa danh ở đầu phố Hàng Đậu, nơi có chiếc đồng hồ công cộng. Nhưng tại sao lại rủ nhau lên cột đồng hồ để tỷ thí? Và có phải cột đồng hồ Hàng Đậu hay cột đồng hồ khác vì Hà Nội có khá nhiều cột đồng hồ công cộng?
Chiếc đồng hồ ở tháp giữa, ngay dưới thánh giá của Nhà Thờ lớn trên phố Nhà Chung khánh thành vào Noel năm 1886. Đúng 12 giờ đêm hôm đó, nó gióng rả 12 tiếng chuông làm các tín đồ công giáo và cư dân quanh khu vực ngạc nhiên. Dù đồng hồ của nhà thờ công giáo để con chiên biết giờ hành lễ, song nó cũng là đồng hồ công cộng theo kiểu phương Tây đầu tiên ở Hà Nội. Mặt đồng hồ quay ra ngoài đường, ai cũng nhìn thấy, hơn nữa, đồng hồ này không tính theo giờ âm lịch của Trung Hoa mà tính theo múi giờ Việt Nam (GMT+7). Không rõ chiếc đồng hồ sản xuất ở Pháp hay Thụy Sỹ, mặt đồng hồ có đường kính là bao nhiêu, nhưng đó là đồng hồ dây cót, bộ phận lên dây giống như vô lăng ô tô. Cứ cách một tiếng, có bõ từ nhà thờ ra kéo chuông. Nhà văn Nguyễn Việt Hà, dân phố Nhà Chung và mẹ ông là dân công giáo kể rằng thời bao cấp có một người chuyên kéo chuông đồng hồ tên là Đạt, mọi người thường gọi là bõ Đạt.
Đồng hồ và truyền giáo chẳng có gì liên quan với nhau, thế nhưng ở đất Thăng Long, đồng hồ giúp các nhà truyền giáo thực hiện được sứ mệnh của họ. Chuyện đó diễn ra vào đầu thế kỷ XVII. Sau mấy năm dọc ngang ở Đàng Trong, giáo sỹ Alexandre de Rhodes (1591-1660), một trong những người ngoại quốc góp phần sáng tạo ra chữ Việt hôm nay, quyết định ra Đàng Ngoài truyền giáo. Tháng 3-1627, ông được chúa Trịnh Tráng, con trai cả của Trịnh Tùng, khi đó đang mang quân đi đánh Đàng Trong, gọi đến gặp ở Ninh Bình. Đánh nhau trở về, ngày 2-6-1627, Trịnh Tráng cho gọi Alexandre de Rhodes vào thành Thăng Long, cho phép ông được giảng đạo. Chỉ một khoảng thời gian ngắn, từ Giáng sinh năm 1927 đến lễ Phục sinh (tháng Tư) năm 1628 đã có 500 người dân được rửa tội và hai mươi nhà thờ được xây dựng. Lo ngại trước thành công đó, triều đình quyết định trục xuất Alexandre de Rhodes và đoàn truyền giáo. Tuy nhiên, họ tìm cách lần lữa, chỉ ra khỏi Thăng Long mà không trở vào Đàng Trong. Họ sống quanh quẩn ở Phố Hiến và các tỉnh lân cận. Lúc này dân ở Đàng Ngoài không có tục xem đồng hồ, với họ là "cơm vua, ngày trời", thời gian đâu có ý nghĩa gì. Thế nên người dân chia ngày ra làm ba phần: buổi sáng, buổi trưa, buổi tối và ấn định thêm một chút là gần nửa buổi sáng, gần nửa buổi chiều. Ban đêm được chia làm năm canh. Chỉ có nhà quan mới dùng đồng hồ, vì họ phải biết giờ để vào chầu vua chúa, biết giờ để xuất hành... Nhưng đồng hồ các quan dùng chủ yếu theo kiểu Hồi giáo, là những gáo đồng được thả vào trong một bồn nước. Các gáo đồng được đục một lỗ nhỏ, khi gáo đầy nước sẽ rơi xuống đáy. Người trông đồng hồ lúc đó sẽ đánh vào chiếc cồng và tùy theo là canh mấy mà đánh bao nhiêu tiếng. Nhưng cũng có quan lại dùng đồng hồ cát, và khi đồng hồ cát có vấn đề thì họ đành phải chờ thợ của triều đình đến sửa. Nhưng thợ thì ít trong khi có quá nhiều đồng hồ hỏng. Biết được điều này, các nhà truyền giáo đã học cách làm và sửa đồng hồ cát, việc không quá khó đối với họ. Và thế là khi cần làm đồng hồ, các quan cho gọi nhà truyền giáo. Mỗi lần vào thành làm đồng hồ chỉ mất từ năm đến sáu tiếng nhưng họ kéo dài công việc đến mười có khi là mười hai ngày, trong thời gian đó, họ kiếm cớ đi gặp con chiên và giảng đạo.
Đồng hồ nước, đồng hồ cát và đồng hồ mặt trời đã được sử dụng trong hoàng cung các triều Lý và Trần. Trong các bản án chém đầu kẻ tội trọng đều ghi rõ chém vào giờ gì khắc gì và vì thế tại nơi thi hành án, quan hành khiển cho khiêng ra đó chiếc đồng hồ. Đúng giờ mới trảm, sở dĩ phải làm như vậy vì sợ kẻ bị chém chết vào giờ xấu, không thành thần mà thành ma sẽ quấy nhiễu họ và gia đình. Trước cổng nha môn, triều đình cũng cho đặt đồng hồ để dân biết mấy giờ mấy khắc sẽ được vào thưa gửi quan. Trong một cuốn sách, Nguyễn Công Trứ từng nói đến một người Việt chế ra chiếc đồng hồ có dây cót bằng tre, nghĩa là gần như đồng hồ của phương Tây. Chắc là không ổn vì đồng hồ đâu phải đồ chơi. Thời phong kiến, thời gian một ngày dựa theo mặt trời mọc, đứng bóng, mặt trời lặn, đêm và được chia thành 12 canh như Trung Hoa, bắt đầu từ canh Tý (từ 23 giờ đến 1 giờ), 24 giờ gọi là chính Tý, tiếp theo canh Tý là đến canh Sửu (từ 1 giờ đến 3 giờ), canh Dần bắt đầu từ 3 đến 5, canh Mão từ 5 đến 7, canh Thìn từ 7 đến 9, canh Tỵ từ 9 đến 11, canh Ngọ từ 11 đến 1 giờ và 12 giờ trưa gọi là chính Ngọ, cuối cùng là canh Hợi (21 giờ đến 23 giờ). Một canh giờ có 12 khắc (1 khắc tương đương 10 phút). Song khi mặt trời lặn, bóng tối bao trùm không gian thì từ canh Tuất (từ 19 giờ đến 21 giờ) người ta lại gọi là canh một, canh hai (từ 21 giờ đến 23 giờ), canh ba (từ 23 giờ đến 1 giờ), canh tư (từ 1 giờ đến 3 giờ) và canh năm (từ 3 giờ đến 5 giờ sáng).
Sau khi lên ngôi, Nguyễn Ánh đã cho chuyển kinh đô từ Thăng Long vào Huế, hạ cấp Thăng Long xuống Bắc thành rồi cho phá thành cũ xây thành mới nhỏ hơn đã cho làm một chiếc đồng hồ. Chiếc đồng hồ này chế tạo theo kiểu đồng hồ Hồi giáo mà trước đó quan lại thời Hậu Lê đã dùng nhưng to hơn. Vị trí đặt đồng hồ trông ra đường Nguyễn Tri Phương hiện nay. Lối vào gọi là cổng đồng hồ, có lính canh bên ngoài. Khi gáo đồng rơi xuống đáy bể người trực canh báo cho lính đánh trống biết là canh mấy. Nhưng trống ban ngày và đêm khác nhau. Canh một đánh một hồi, canh hai đánh hai hồi, canh năm đánh năm hồi nhưng đến canh Mão lại chỉ đánh một tiếng, canh Thìn đánh hai tiếng và canh Dậu (chuẩn bị chuyển sang canh một) đánh bẩy tiếng. Năm 1933, báo Tiếng dân có bài viết về thân phận lính đánh trống canh xưa: "Người gác đồng hồ đêm trước nhà có giỗ uống quá chén nên đêm sau trực ngủ quên, nửa đêm nghe tiếng trống canh giật mình tỉnh dậy vội chạy đến chỗ anh đánh trống hỏi han thì mới vỡ lẽ do làm nghề này quá lâu nên cứ đúng canh một người anh giật một hồi, canh hai giật hai hồi, canh ba giật ba hồi. Thấy người giật lại không thấy lính báo giờ chạy sang nên đoán ngủ quên thế là cứ đánh." Đêm ngày 24 rạng ngày 25-4-1882, trước lúc quân Pháp bắn đại bác vào thành Hà Nội, dân vẫn còn nghe trống canh. Khi thực dân Pháp chiếm thành, biến thành nơi đóng quân, thì nhiều công trình bị phá bỏ trong đó có chiếc đồng hồ một thời gian dài gắn bó với dân thành Thăng Long.
Trong các cuốn sách viết về Hà Nội và xứ Đàng Ngoài thế kỷ XVII của các nhà truyền giáo phương Tây thì những nhà buôn người Hà Lan, người Anh đã sử dụng đồng hồ quả quít nhưng chỉnh theo canh giờ Đại Việt. Đồng hồ quả quít do người Việt sở hữu chắc chắn xuất hiện trước tiên ở Sài Gòn. Còn ở Hà Nội, theo gia phả dòng họ Nguyễn Đình (quê gốc ở làng Hạ Thái, huyện Thường Tín) sống nhiều đời ở phường Diên Hưng (nay là khu vực phố Hàng Ngang) có nói đến chiếc đồng hồ quả quít do phương Tây chế tạo nhưng không có chữ số La Mã mà ghi giờ Tý đến giờ Ngọ bằng chữ Hán. Chiếc đồng hồ nhà buôn họ Nguyễn Đình sở hữu do một người buôn Trung Quốc tặng năm 1874. Trong Một chiến dịch ở Bắc Kỳ, Hocquard viết: "Năm 1883, tôi đã thấy ở Hà Nội có mấy tiệm sửa đồng hồ quả lắc và đồng hồ quả quýt."
Sau chiếc đồng hồ Nhà thờ lớn, chiếc đồng hồ công cộng thứ hai là ở Bưu điện Hà Nội. Năm 1886, thực dân Pháp cho phá chùa Báo Ân để xây Bưu điện, trên tầng hai tòa nhà chính hướng ra hồ, họ cho lắp một đồng hồ. Không rõ do hãng nào sản xuất nhưng đó là chiếc đồng hồ hai kim, chữ số La Mã. Tuy nhiên họ không lấy theo múi giờ Việt Nam mà lấy theo múi giờ Paris nên sau này khi có thêm đồng hồ trên nóc nhà Godard, đồng hồ này lấy theo múi giờ Việt Nam nên nhiều người không biết tin vào đồng hồ nào. Năm 1902, ga Hàng Cỏ khánh thành, tại tầng hai tòa nhà chính, người ta cũng cho lắp chiếc đồng hồ hình tròn, mặt bằng đá có đường kính 1,8 mét. Căn phòng để máy móc của chiếc đồng hồ này rộng hai mươi mét vuông và cứ hai ngày lên dây cót một lần. Khi lên dây cót, công nhân quay cánh tay đòn giống như maniven ô tô. Cũng năm đó, cầu Long Biên đã hoàn thành và ở đầu phố Hàng Đậu, chính quyền cho dựng cột đồng hồ công cộng, hai mặt hình tròn, một mặt quay về hướng Bắc và mặt kia quay về hướng Nam. Như vậy người qua cầu sang bên Gia Lâm và khách lên ga Long Biên đều có thể biết giờ. Có một điều cho đến bây giờ cũng không ai hiểu được là đầu thế kỷ XX, ngày nắng cũng như ngày mưa, sáng nào lính Pháp đóng ở Đồn Thủy cũng kéo khẩu pháo hạng nhẹ ra ngoài bãi cát sông Hồng (nay là Hàm Tử Quan), đúng 10 giờ là bắn một phát rồi lại kéo pháo về. Người Hà Nội gọi là pháo báo giờ nhưng sao lại bắn lúc 10 giờ, để làm gì? Pháo báo giờ kéo dài đến năm 1925 thì chấm dứt. Ngày 17-2-1947, Trung đoàn Thủ đô rút khỏi Hà Nội và trong bài thơ Sông Hồng, lời từ biệt của Trung đoàn Thủ đô, Lưu Quang Vũ đã bùi ngùi nhớ đến địa danh cột đồng hồ:
Ngoảnh nhìn Hà Nội rưng rưng
Liên khu Một bập bùng lửa cháy
Phất Lộc, Nguyễn Siêu, Hàng Chiếu
Ô Quan Chưởng, Cột Đồng Hồ...
Kể từ khi Pháp trở thành quốc gia bảo hộ An Nam năm 1884 thì họ lấy giờ GMT+7 để tất cả phải theo nhưng khuya ngày 31-12-1942, rạng ngày 1-1-1943, lúc này quân Nhật đang ở Việt Nam đã bắt lên thêm một giờ thành GMT + 8. Đến ngày 31-3-1945, họ lại tăng thêm một giờ nữa để lính Nhật sang Việt Nam không phải điều chỉnh giờ, phù hợp với giờ bên nước Nhật, tạo thuận tiện cho kế hoạch tác chiến của họ. Ngay sau khi cướp chính quyền ở Hà Nội, ngày 19-8-1945, chính quyền mới lại lấy giờ Việt Nam theo múi giờ GMT+7 và thống nhất trên toàn lãnh thổ. Đất nước bị chia cắt năm 1954, trong khi múi giờ ở miền Bắc vãn giữ nguyên thì kể từ khuya ngày 31-12-1959, rạ#ng ngày 1-1-1960, giờ của miền Nam bị kéo lên thêm một giờ, tức là GMT+8. Sau ngày thống nhất đất nước, từ ngày 1-5-1975, giờ Việt Nam thống nhất là GMT+7.
Hà Nội bị Mỹ đánh phá, những chiếc đồng hồ ít được chú ý nhiều. Ngày 21-12-1972, bom B52 Mỹ đã ném trúng dãy nhà trung tâm ga Hàng Cỏ, làm chiếc đồng hồ tan nát. Còn chiếc đồng hồ ở bưu điện Bờ Hồ thì dự án xây nhà điều hành mới do Trung Quốc viện trợ cũng đã dỡ bỏ sau hơn 80 năm tồn tại, thay vào đó là chiếc đồng hồ chạy điện do Trung Quốc chế tạo và chỉ có hai chiếc. Sau khi lắp xong, các chuyên gia thấy Lê Thị Yến còn trẻ lại nhanh nhẹn đã đề nghị lãnh đạo để Yến trông coi và Giám đốc bưu điện Hà Nội khi đó là ông Nguyễn Minh Chí chấp thuận. Lễ khánh thành chiếc đồng hồ diễn ra vào đúng 11 giờ trưa ngày 2-9-1978 bằng bản nhạc Ca ngợi Hồ Chủ tịch với nhịp điệu chậm vang xa làm nhiều người trong cả một khu vực rộng lớn xúc động. Bà Yến kể, khi công việc lắp đồng hồ đã xong, chuyên gia Trung Quốc đưa ra khá nhiều bản nhạc Trung Hoa trong đó có cả bài Việt Nam – Trung Hoa, nhưng hội đồng chọn nhạc không đồng ý. Cuối cùng, hội đồng quyết định chọn bản nhạc Ca ngợi Hồ Chủ tịch. Nhạc được thu vào băng từ, cách ba tiếng và bắt đầu từ ba giờ nhạc lại phát một lần. Phó đoàn chuyên gia, ông Vương Ngọc Dung trước khi rút khỏi Việt Nam đưa cho Yến sơ đồ của chiếc đồng hồ rồi bảo vẽ lại. Yến thức trắng một đêm, hôm sau mang đến trước sự ngạc nhiên cùng thán phục của chuyên gia Dung.
Rồi đoàn chuyên gia mang theo sơ đồ chính chiếc đồng hồ về nước sau khi bàn giao một ngày. Buổi chia tay không có lời hẹn gặp lại, chỉ có nước mắt, tay trong tay cùng sự im lặng của hai bên. Từ hôm ấy, người phụ nữ rắn rỏi sinh ở ra ở Thái Bình đảm trách đời sống chiếc đồng hồ này. Năm 2006, trước khi nghỉ hưu, Bưu điện cho bà Yến đi du lịch Trung Quốc, đến chỗ nào cũng ngó nghiêng tìm "người anh em" cho chiếc đồng hồ mà bà gắn bó 28 năm nhưng vô vọng. Khi xây dựng Nhà khách Chính phủ phía sau bưu điện thì mặt hướng đông của đồng hồ đã bị công trình này che lấp. Thiệt thòi cho người muốn xem giờ từ phía đông đã đành, song điều đáng nói là đã làm mất giá trị của chiếc đồng hồ. Trong tổ đồng hồ còn có một nhân vật khá quan trọng, đó là ông Đào Văn Dư. Ông Dư theo nghề sữa chữa và lắp ráp đồng hồ từ năm 1960, ông là thợ duy nhất ở Hà Nội có tới bảy bằng do các hãng danh tiếng cấp. Trước năm 1975, ông là giáo viên dạy nghề sửa chữa ở trường kỹ thuật đồng hồ (55 phố Hàng Bông). Khi đồng hồ bưu điện khánh thành, ngành cho người đến mời ông về làm thợ kỹ thuật. Vì cùng hệ thống với chiếc đồng hồ bưu điện, đường dây còn truyền tín hiệu tới bảy chiếc khác được lắp đặt tại bách hóa Tổng hợp, chợ Hàng Da, chợ Mơ,... nên hàng ngày ông Dư phải đạp xe đạp kiểm tra thời gian của chúng thế nào, nhanh hay chậm.
Còn với bà Yến, do chẳng có gì làm chuẩn để biết đồng hồ có chạy đúng theo giờ quốc tế nên thỉnh thoảng bà lại đạp xe ra Nhà Thờ lớn để so. 28 năm trông coi thì 20 năm, bà phải leo lên leo xuống cầu thang cao chót vót vì thang máy không sử dụng được. Rồi lúc nào cũng lo tra dầu mỡ, lo lấy giờ cho chuẩn, chỉnh thanh đồng cho tiếng chuông trong hơn... Bà hiểu chiếc đồng không chỉ để xem giờ mà nó đã trở thành biểu tượng của Hà Nội. Về hưu nhưng hàng ngày bà vẫn giỏng tai nghe tiếng chuông, tuy âm thanh không bao giờ vọng đến phố Khâm Thiên. Đến hôm nay, mỗi khi có việc phải ra đường, bao giờ bà cũng cố phóng xe máy qua Bờ Hồ để xem chiếc đồng hồ mà bà gắn bó. Bà vẫn lưu tâm thông tin có chuyên gia nào quay lại thăm chiếc đồng hồ do chính họ lắp.
Trở lại với câu cửa miệng "Một chọi một lên cột đồng hồ", vậy thanh niên "tỷ thí" ở cột đồng hồ nào vì Hà Nội có rất nhiều cột đồng hồ công cộng. Trước khi khánh thành cầu Long Biên, đốc lý Pretre Charles (giữ chức vụ này từ ngày 1-8-1901 đến 21-11-1901) cho lắp chiếc đồng hồ ngoài trời đầu tiên ở đầu phố Hàng Đậu, tiếp đó ở quảng trường Đông Kinh nghĩa thục hiện nay, rồi Cửa Nam, cổng Bảo tàng Lịch sử, ngã tư Sở... trừ chiếc đồng hồ ở đầu Hàng Đậu là hai mặt tròn còn lại là ba mặt vuông để mở rộng góc xem giờ. Không rõ đồng hồ do hãng nào chế tạo nhưng tất cả đều là hai kim, số La Mã và cứ hai ngày thì nhân viên bưu điện phải lên dây một lần. Họ lắp tay quay vào bánh xe ở dưới chân cột sau đó quay cho đến khi nào thấy căng thì thôi. Từ sau 1954, an ninh trật tự rất nghiêm ngặt, cứ có đánh nhau là dân đi báo công an và công an bắt cả vào đồn. Cột đồng hồ đầu phố Hàng Đậu lúc nào cũng đông đúc người qua lại và cạnh đó có bốt công an gác cầu nên không bao giờ họ đánh nhau ở đây. Địa điểm hẹn đánh nhau là cột đồng hồ trước Bảo tàng lịch sử, khu vực này không có nhà dân lại thưa vắng người qua lại. Do hỏng hóc không có linh kiện thay nên khoảng năm 1977, đồng hồ công cộng này cùng nhiều chiếc khác bị dỡ bỏ. Đầu năm 2000, có thông tin một người tên Thuần giữ hai chiếc còn nguyên cả cột gang. Giới sưu tập đồng hồ truy tìm nhưng không biết ông này ở đâu.