Lật đổ nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi và chuyển kinh đô vào Huế năm 1802. Từ đó, Thăng Long không những không còn là kinh đô mà bị giáng xuống trấn thành rồi tỉnh Hà Nội. Là tỉnh nên Hà Nội cũng như các tỉnh khác trong cả nước, không có xây mới hay cải tạo nên phố phường vẫn như thời vua Lê – chúa Trịnh. Dù phố trong phường nghề buôn bán vẫn tấp nập nhưng rất hẹp, cửa hàng với các tấm phên che nắng, che mưa lấn ra cả đường đi. Vào ngày mưa, nước chậm tiêu nên hai bên rành thoát bùn sâu tới mấy chục phân. Mỗi khi có ngựa xe qua, người đi đường chợ phải dạt sang hai bên, đứng dưới bùn nhão nhoét. Chỉ có vài phố Hoa kiều như Phúc Kiến (nay là Lãn Ông), Quân Cờ Đen (nay là Mã Mây), Hàng Ngang thì đường được lát gạch sạch sẽ.
Không có biển tên phố, không có số nhà đã gây khó khăn cho quản lý dân và ngăn cản nạn cướp phá của quân Cờ Đen, viên cảnh sát trưởng Hà Nội bàn bạc với Tổng Đốc Nguyễn Hữu Độ cho lấy gạch ngói vỡ rải ra một số con đường. Cũng trong năm này, công sứ đầu tiên ở Hà Nội là Bonnal đã bắt đầu thực hiện chính sách cải tạo và xây dựng Hà Nội. Việc đầu tiên là cho quy hoạch khu vực hồ Gươm, làm đường quanh hồ, mở rộng đường từ khu nhượng địa Đồn Thủy đến thành. Cuối năm 1885, chính quyền khánh thành đường Hàng Khảm (bao gồm Tràng Tiền, Hàng Khay ngày nay). Mặt đường mở rộng, hai bên vỉa hè cho lát gạch và trồng hai hàng phượng. Và vì thế, vỉa hè Hàng Khảm là vỉa hè đầu tiên của Hà Nội theo kiểu của thành thị phương Tây. Cùng với mở rộng đường ở phố Hàng Khảm, Bonnal cũng cho xây cơ quan hành chính phía đông hồ Gươm như tòa đốc lý, Bưu điện, kho bạc, Bắc Bộ phủ... nên quanh khu vực này có vỉa hè và các công trình thoát nước. Trong cuốn Xứ Đông Pháp và những kỷ niệm (L’Indochine Francaise souvenirs) của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer nhiệm kỳ 1897-1901 viết: "Khi tôi đến Hà Nội vào tháng 3-1897 thì khu phố của người An Nam với những cửa hàng lấn ra đến tận đường, phố xá không có vỉa hè và chen chúc những người và người. Đó chính là những thứ đích thực của Hà Nội." Trong nhiệm kỳ của mình, ông có dự án cải tạo lại các khu phố cổ, bắt buộc các nhà phải làm thẳng hàng có rãnh thoát nước, đánh số nhà. Cùng với việc cải tạo khu phố cổ, chính quyền cũng cho xây dựng khu phố mới ở phía nam hồ Gươm.
Năm 1897 đường giao thông gọi là tốt ở các khu phố cổ có chiều dài là 45.500 mét. Đến năm 1902 tăng thêm 22.121 mét. Trong khi đó tại các khu phố xây dựng theo kiểu Pháp gồm Trần Hưng Đạo, Hàng Bài, Lý Thường Kiệt, Hai Bà Trưng, Bà Triệu,... từ năm 1897 đến năm 1901 người ta tiếp tục lát vỉa hè với loại gạch vuông rạch khía viền bờ bằng đá đẽo và đã lát được khoảng năm cây số. Trong kế hoạch cải tạo, Hội đồng thành phố cũng đã biểu quyết lấy từ ngân sách để tiếp tục lát vỉa hè ở những khu phố lớn trung tâm. Sau khi xây dựng nhà hàng Godard, ba phía của nhà hàng này là Hàng Khảm (Tràng Tiền ngày nay), Đồng Khánh (Hàng Bài ngày nay) và Hai Bà Trưng có vỉa hè rất rộng. Trước ba cổng ra vào trung tâm thương mại này có dòng chữ Khu vực cấm để xe đạp bằng chữ Pháp gắn chìm vào vỉa hè.
Ngay từ khi mới chỉ có vỉa hè phố Hàng Khảm và quanh hồ Gươm nhưng ngày 20-12-1889, Đốc lý Landes đã ký một nghị định cho thuê vỉa hè vĩnh viễn để bán hàng và bán cà phê trong giới hạn của thành phố với mức thu một năm bốn mươi xu một mét vuông trong một năm. Thế nên năm 2008, khách sạn Métropole xin phép chính quyền bán cà phê trên vỉa hè phố Ngô Quyền và Lê Phụng Hiểu đã đưa ra lý do: đầu thế kỷ XX, họ thuê vỉa hè ở hai phố này để bán cà phê rồi. Năm 1902, khi Hà Nội trở thành thủ đô của liên bang Đông Dương thì các quy định càng chặt chẽ hơn. Các phố mới mà ngày nay là phố Lê Hồng Phong, Điện Biên Phủ, Khúc Hạo, Phan Đình Phùng, Lý Nam Đế, Chu Văn An,... với hàng loạt biệt thự sang trọng có vỉa hè rất rộng, đặc biệt là phố Phan Đình Phùng có hai hàng cây xanh. Từ đó các phố mới xây, hay các phố khu vực "36 phố phường" khi cải tạo đều phải có vỉa hè đúng như quy hoạch. Từ năm 1954, năm tiếp quản Thủ đô cho đến 1975, hầu như không có sự thay đổi trong vỉa hè, những chỗ bị hư hỏng được lát bằng gạch đỏ mà dân quen gọi là gạch lá dừa. Gạch đỏ này nung ở nhiệt độ cao nên cứng gần như sứ. Vỉa hè không chỉ dành cho người đi bộ mà thời bao cấp còn là nơi đặt bếp nấu bánh chưng tết, các vòi nước công cộng trở thành chỗ rửa rau vo gạo, chỗ tắm khi nước sạch chảy ri ri như bò đái không chảy nổi vào nhà.
Nếu trước 1954, vỉa hè chỉ là nơi kinh doanh khi chính quyền cấp phép thì thời bao cấp và đặc biệt là từ năm 1989 đến 1991,vỉa hè đúng nghĩa là nơi kiếm sống, đông đúc như Kẻ Chợ xưa. Sở dĩ như vậy là khi chuyển đổi cơ chế, nhiều nhà máy, xí nghiệp không bắt kịp đổi mới dẫn đến cán bộ công nhân không có việc nên không có lương, để giải quyết thực trạng đó, nhà nước ra nghị định 176, nôm na là "về hưu non một cục". Số cán bộ công nhân về chế độ 176 đông vô kể và để tiếp tục sống, những người không có cửa hàng, ít tiền chỉ còn cách lao ra vỉa hè.
Đầu đường trung tá bơm xe
Cuối đường thiếu tá bán chè đậu đen
Sáng ra là chỗ các bà, các chị ở Hoàng Mai bán xôi xéo, xôi ngô, chị em Thịnh Liệt bán bánh cuốn Thanh Trì. Vỉa hè thích hợp với hai thứ quà sáng bình dân này. Rồi phở gánh, bún mọc. Hết quà sáng là đến rau, quả và quà vặt. Trưa là chè, rượu nếp và mùa hè bán cháo đậu xanh, cháo hoa, chiều lại đến bán rau, quả, thịt thà, đậu phụ hay bia hơi. Chợ vỉa hè tiện cho mỗi người vì không phải gửi xe chỉ ghé vào là mua và không phải đóng thuế nên cũng rẻ hơn đôi chút so với các chợ có tên tuổi. Thời bao cấp dân gian có thơ:
Tôn Đản chợ của vua quan.
Nhà Thờ chợ của trung gian nịnh thần.
Hàng Bè chợ của thương nhân.
Vỉa hè chợ của nhân dân anh hùng.
Có rất nhiều người gắn cả đời với vỉa hè, bám vỉa hè với phở gánh, bún riêu mà nuôi được chồng, được con. Góc ngã tư Hai Bà Trưng – Bà Triệu có một người đàn bà bán phở gánh từ khi mới cưới chồng. Bây giờ, các con đã có gia đình riêng, thành bà nội, bà ngoại rồi mà bà vẫn bán phở. Công an đuổi bà nép vào sát mái hiên, khách ăn tự tản ra mỗi người một chỗ, xe công an đi lại tụ vào. Một vài quán phở hay bún vỉa hè có địa chỉ trong các sách hướng dẫn du lịch xuất bản ở châu Âu. Ghi rõ họ ngồi ở vị trí nào, bao nhiêu một bát. Điều đó tiện cho "Tây ba lô" nhưng lại gây rắc rối cho người bán hàng vì tiền đồng Việt Nam thường mất giá. Năm 2008, bà bán bún ở ngõ Cấm Chỉ ức quá đẩy hai chú Tây ba lô ngã chỏng vó chỉ vì các chú nhất quyết chỉ trả như sách hướng dẫn trong khi lạm phát khiến giá bát bún tăng lên gấp rưỡi. Bên số lẻ cuối phố Hai Bà Trưng là "Khoa bún ngan" cao mấy tầng, trước đó bà Khoa bán bún gánh vỉa hè cũng ở phố này. Nhờ ngon nên đông khách, lại chắt chiu nên mua được nhà mặt phố và từ đó mà đi lên. Vỉa hè là của chung, thế nhưng các nhà mặt phố, nhất quyết coi đó là của họ, ai đỗ ô tô hay xe máy trước cửa hàng lập tức bị đuổi, cự nự có khi còn ăn đòn. Có nhà còn cho thuê. Vào mùa hè những năm Hà Nội thiếu điện và hay bị cúp điện thì vỉa hè trở thành chỗ ngủ đêm của nhiều thanh niên, nhất là vỉa hè quanh hồ Gươm. Kẻ mang gường bạt, không có gường bạt thì rải chiếu ngủ đến khi người ta tập thể dục mới cuốn chiếu vác gường về. Nhà tôi và đạo diễn Lê Quý Dương ở dưới Vọng nhưng cũng đàn đúm với anh bạn tên Thành nhà ở ngõ Báo Khánh vác chiếu ra vạ vật ngay sát cửa hàng Thủy Tạ mấy mùa hè khi đang học đại học. Vỉa hè một thời đầy rẫy các quán nước chè năm xu (năm xu một chén), khách là dân cùng phố, kẻ vãng lai và từ chén nước chè, đủ thứ chuyện trên trời dưới bể, trong nước ngoài nước được đưa ra bàn tán, vì thế mới có câu "thông tấn xã vỉa hè". Những từ ngữ như gọi bố mẹ là ông bô, bà bô, gọi công an là "mú", gọi bộ đội đảo ngũ là "tuột xích"... bị gán cho là ngôn ngữ vỉa hè!
Một số người sinh ra và lớn lên ở Hà Nội mà hay đi chơi lêu têu, không cần nhìn nhà hai bên, chỉ cần nhìn vỉa hè họ cũng biết đó là phố nào, chẳng giải thích được nhưng đúng là như vậy. Ngót chục năm trở lại đây, thì có sinh ra, lớn lên ở Hà Nội cũng không thể nhìn vỉa hè mà biết phố nữa vì lòng đường và vỉa hè luôn bị đào bới và không khác gì cổ tích hầm hố của "than thổ phỉ". Người ta trải nhựa lên mặt đường mà không cào bớt lớp nhựa cũ nên mặt đường cao hơn vỉa hè. Mưa xuống nước tràn vào vỉa hè, thế là cơ quan quản lý lại cho nâng lên. Chuyện cứ diễn ra như thế từ năm này sang năm khác, trong khi luật quy định phải nạo bớt đi khi trải nhựa mới. Chẳng ai kiểm tra vì thế cốt hạ tầng cao hơn quy chuẩn đã gây ra ngập úng cục bộ, sàn nhà từ chỗ cao hơn hè giờ thành thấp hơn. Không nâng nền lên thì khi mưa dầm sẽ biến nhà thành ao, mà nâng nền lên liên tục thì chẳng mấy chốc từ lúc với tay không chạm trần nhà thì nay đầu đã chạm trần. Có ở đâu lại như ở Hà Nội không nhỉ?
Trong phần kết tạp văn Vỉa hè nó cái là gì vậy? của nhạc sỹ Dương Thụ có đoạn: "Từ vỉa hè chúng ta có thể nhận ra hạnh phúc và đau khổ, khát vọng và tuyệt vọng, sự cần mẫn và lười nhác, cái tuyệt vời và cái chẳng ra gì của một đời người. Và nói gọn lại là sự thanh bình và những bất ổn rối loạn." Có lẽ đúng như vậy!