Phố Hòe Nhai xưa thuộc Tổng Yên Thành huyện Vĩnh Thuận. Vào đời Lý (khoảng từ 1010-1025) nhà vua ra chỉ dụ mỗi quan trong triều phải trồng một cây hòe trên con đường từ thành ra bến Đông Bộ Đầu. Đây là bến tập trung nhiều thuyền buôn bán lớn nhất Thăng Long và không chỉ là nơi buôn bán mà Đông Bộ Đầu có một khu vực để binh sỹ của triều đình luyện tập thủy chiến. Vì đường này có nhiều hoa hòe nên mới có tên Hòe Nhai. Đời vua Lê Trung Hưng, tiến sỹ Ninh Tốn có bài thơ Hòe Nhai, dù nội dung chính là ca ngợi chốn hát ca trù nổi tiếng của đất Thăng Long nhưng những câu thơ lộ ám ảnh của tác giả về đường hoa một thời:
Bờ liễu đường hoa ai cũng đẹp
Phong lưu bậc nhất phố Hòe Nhai
Yêu kiều trăm vẻ khoe xuân sắc
Uyển chuyển thanh âm não dạ người.
Tương truyền từ đời vua Lý Thái Tông (1227-1238), Thăng Long hình thành Tam thập trại (Liễu Giai, Ngọc Hà, Đại Yên, Giảng Võ, Hữu Tiệp...) ở phía tây kinh thành. Trong đợt khai quật Hoàng thành, các nhà khảo cổ đã tìm thấy dấu tích một con sông cổ chảy ngang qua kinh thành theo hướng Đông-Tây, về phía làng Ngọc Hà xưa, và họ cho rằng đây là con sông mang tên sông Ngọc làm nên tên làng Ngọc Hà.
Ngoài trồng lúa, các trại còn trồng rau, quả và hoa để cung cấp cho kinh thành. Hoa trồng ở Tam thập trại chủ yếu là sói, nhài, huệ, ngâu... Vì các vua triều Lý rất mộ đạo Phật nên trước ngày rằm hay mồng một âm lịch, các ngày lễ trọng trong năm, Tết Nguyên đán, dân Tam thập trại phải dâng hoa. Sử sách cũng chép Mai Động, Hoàng Mai, Bạch Mai xưa kia là vùng đất phía nam kinh thành từng trồng giống mai vàng, mai trắng (vì thế mới có tên là Hoàng Mai và Bạch Mai). Vùng này có giống mai đặc biệt là song mai, hoa màu trắng nở một chùm hai bông. Thập niên 80 thế kỷ XX, cụ Mài ở xã Đông Mỹ (huyện Thanh Trì) còn giữ được giống này nhưng nay thì song mai không còn. Nói đến hoa không thể không nói đến một hồ sen mênh mông ở vùng Hồ Tây, vào đầu hạ, ngát thơm cả một vùng Hà Nội. Hoa sen là thú chơi tao nhã của các bậc sỹ phu thức giả đất Thăng Long. Nhụy sen dùng ướp chè và nấu rượu thì là đỉnh của sự sang trọng mà thanh cao. Ca dao và tục ngữ Hà Nội có câu:
Giếng Ngọc Hà vừa trong vừa mát
Vườn Ngọc Hà thơm ngát gần xa
Hỏi người xách nước tưới hoa
Có cho ai được vào ra chốn này?
Dù là ca dao về tình yêu nhưng qua đó lại cho thấy Ngọc Hà là vùng trồng hoa của kinh thành Thăng Long. Nhiều quan lại trong triều Nguyễn khi về hưu không muốn ở lại đất Huế đã trở ra Bắc đến mua đất ở Ngọc Hà, Hữu Tiệp để trồng cây và hoa vui thú điền viên. Họ thuê dân hai làng này vốn có kinh nghiệm chăm sóc. Dù đi trên đường trục hoặc các nhánh đường xương cá của làng, đâu đâu cũng thấy toàn hoa là hoa. Hoa Ngọc Hà phục vụ cho cuộc sống của người dân đất kinh kỳ từ lễ hội, ma chay, cưới hỏi, cúng lễ và cả ngày bình thường. Buổi sáng, khi sương đêm còn ướt đẫm trên những nhành hoa, thành phố còn đang chìm sâu trong giấc ngủ thì đường làng Ngọc Hà đã í ới tiếng gọi nhau của các cô hàng hoa đi chợ sớm. Trên những cánh đồng hoa ven Hồ Tây, tiếng trò chuyện của những người nông dân đang xới đất, tưới hoa, vun gốc, nhặt cỏ... ấm một vùng. Chủ đề trong các câu chuyện của họ bao giờ cũng là hoa: nào là những giống hoa mới nhập, là giá hoa hôm nay, là kỹ thuật chăm sóc cây giống, kinh nghiệm hãm hoa, ghép cành... Trước năm 1954, có lẽ là thời kỳ hưng thịnh nhất của làng hoa Ngọc Hà.
Thói quen tiểu tư sản thành thị ngấm vào Hà Nội, nên dù thiếu ăn thì giáp Tết vẫn rủ nhau lên Ngọc Hà ngắm hoa, mua hoa. Thập niên 70 của thế kỷ trước, làng này còn là địa điểm được trai thanh gái lịch đất Hà Thành chọn lựa để hò hẹn, thề nguyền và bao mối tình đẹp đã đơm hoa kết trái từ nơi đây. Và đám cưới không thể thiếu được hoa Ngọc Hà. Mảnh đất bao đời là chốn hương sắc bậc nhất của đất kinh kỳ đã sản sinh ra những người con gái nổi tiếng xinh đẹp, nết na, chăm chỉ. Hoa Ngọc Hà đẹp, các cô gái Ngọc Hà đi bán hoa cũng thật tao nhã, duyên dáng với áo tứ thân, tóc vấn đuôi gà, má đỏ hây hây, răng đen hạt huyền uyển chuyển gánh hoa len lỏi khắp phố phường. Gánh hàng hoa của các cô đi đến đâu thơm lừng đến đó, đem lại cho vùng đất Thăng Long biết bao hương sắc và gợi thi hứng. Hình ảnh thiếu nữ Ngọc Hà e ấp bên những bông hoa đã khiến bao chàng trai Hà Thành bỗng chốc hóa thi nhân:
Hỡi cô đội nón ba tầm
Cô về Yên Phụ, ngày rằm lại sang
Ngày rằm phiên chợ Yên Quang
Yêu hoa anh đợi hoa nàng mới mua
Hay:
Ngày rằm đi chợ mua hoa
Phải chờ thấy gánh Ngọc Hà mới mua.
Chỉ từng ấy thôi cũng đủ thấy Ngọc Hà có vị trí thế nào trong đời sống tinh thần của người dân Thăng Long – Kẻ Chợ. Hình ảnh cô gái Ngọc Hà mặc áo tứ thân, thắt lưng điều gánh hoa đã trở thành biểu tượng văn hóa một thời của Hà Nội.
Đất kinh kỳ không chỉ trồng hoa mà còn biết chơi hoa từ lâu. Trong Vũ trung tùy bút, Phạm Đình Hồ viết: "Chơi hoa với người Thăng Long không chỉ là chuyện bình thường mà mượn hoa, cây cảnh để nói lên đạo làm người, nói cách khác chỉ cần nhìn người chơi hoa cũng có thể biết đạo lý của người chơi hoa. Trong cách chơi vẫn ngụ cái ý về thế giáo thiên luân. Vậy nên mượn khóm hoa, tảng đá để ký thác hoài bão cao cả." Mỗi loài hoa có ngôn ngữ riêng, vì thế tùy theo sở thích, nếp nhà và điều kiện kinh tế mà người Thăng Long – Kẻ Chợ tìm một loài hoa phù hợp. Cúc tượng trưng cho tính khiêm tốn, điềm đạm vì thế những người có tâm hồn, những gia đình có truyền thống Nho giáo thích cắm cúc trong ngày xuân. Mẫu đơn là "thiên hương quốc sắc" và theo tích của Trung Hoa, mẫu đơn không chỉ là loài hoa đẹp mà còn là loài hoa thà chịu cảnh phong trần lưu lạc, nhất quyết không chịu tù hãm trong vườn của đám vương quyền để đem sắc đẹp, hương thơm ban rải cho mọi người. Vì thế mẫu đơn được nhiều nhà Nho khẳng khái ưa trưng trong ngày Tết. Trà mi, hải đường cánh to và dày có mùi hương thì thầm, kín đáo biểu tượng của phúc hậu, ăn ở như bát nước đầy nên các gia đình nền nếp thích mua. Cành hải đường cắm vào bình sứ Bát Tràng men xanh, loại men không khoe khoang, có chiều sâu sẽ càng làm tăng vẻ chín chắn, mặn mà. Hoa hồng thanh cao được chọn làm hoa để cúng ở chùa chiền, đền miếu và trên bàn thờ tổ tiên. Hoa thủy tiên trắng ngần tượng trung sự tinh khiết, cao sang. Sự tích hoa thủy tiên cho thấy loài hoa này mộc mạc và chân tình. Song chơi thủy tiên rất cầu kỳ và mất thời gian nên phần lớn là người có tuổi, kỹ tính mới chơi loài hoa. Trước Tết, người ta ra chợ Đồng Xuân mua củ hoa sau đó cắt tỉa rồi cho vào bát men trắng. Sau này thì cho vào cốc thủy tinh, nhà giàu sang thì cho vào lọ pha lê. Và chỉ có người nhiều kinh nghiệm mới biết cách làm cho hoa thủy tiên nở hàm tiếu đúng vào sáng mồng một Tết. Ban đầu chỉ là thú chơi riêng lẻ, những người chơi thủy tiên hợp nhau và tiến tới ngày hội của loài hoa này. Hội hoa thủy tiên được tổ chức vào dịp Tết tại đình làng Yên Phụ, Ngũ Xã, đền Bạch Mã (phố Hàng Buồm) và Văn Miếu. Sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi viết về thú chơi hoa đất Thăng Long: "Không nhất thiết phải là loài hoa độc đáo, đắt tiền mà phú quý lòng hơn phú quý danh." Thăng Long cũng nổi tiếng về chợ hoa Tết, cũng trong Dư địa chí, Nguyễn Trãi viết: "Vào dịp gần Tết, triều đình cho mở chợ hoa ở chợ Cầu Đông." Do biến cố lịch sử, bến Đông Bộ Đầu bị lấp và một phần chợ Cầu Đông xưa nay là chợ Đồng Xuân. Và thế là chợ hoa Tết cũng phải theo về đó và họp ở cái cầu chợ cuối cùng sát lề đường phố Hàng Khoai. Song đến thập niên đầu tiên của thế kỷ XX, cầu chợ không đủ diện tích vì số người bán hoa tăng lên cũng như người đi ngắm hoa cũng nhiều hơn nên chợ hoa di sang phố Hàng Lược. Phố Hàng Lược ngày nay thuộc phường Hàng Mã, quận Hoàn Kiếm. Phố dài 264m, nối từ phố Hàng Cót đến phố Chả Cá. Nơi đây, nguyên là đất thôn Phủ Từ và thôn Vĩnh Trù, tổng Hậu Túc (sau đổi là tổng Đồng Xuân) huyện Thọ Xương. Ngày nay, ở phố Hàng Lược vẫn còn hai ngôi đình cũ: đình Phủ Từ ở số nhà 19 và đình Vĩnh Trù ở số nhà 59. Vào thời Lê và đầu thời Nguyễn, đây là nơi tập trung các nhà sản xuất và buôn bán lược chải đầu. Sang thế kỷ XX nghề này rơi rụng. Trước kia, ở khoảng giữa phố có một cái cống bắc chéo qua sông Tô. Từ đó, người ta quen gọi phố này bằng một cái tên là Cống Chéo – Hàng Lược. Chợ hoa Thăng Long có lịch sử lâu đời, ngoài bán hoa, người ta còn bán chậu, đôn, lọ làm ở làng gốm Bát Tràng bên kia sông Hồng. Chợ bán nhiều loại hoa nhưng nhiều nhất vẫn là hoa đào. Sau ngày ông Công, ông Táo về trời, chợ bắt đầu nhóm họp, nhưng nhộn nhịp nhất từ ngày 27 đến 30 Tết. Cúng tất niên vào trưa ngày 30 xong, nhiều gia đình ăn mặc đẹp dẫn nhau đi chợ hoa. Vì thế chợ hoa chiều và đêm 30 bao giờ cũng là đông vui nhất. Những người cao tuổi ở vùng Nhật Tân bây giờ vẫn lưu truyền câu chuyện đi bán đào Tết. Ngày xưa, từ Nhật Tân đến chợ hoa Hàng Lược không xa nhưng đường vắng lặng và heo hút, chỉ nhà nào có vườn lớn mới dám thuê xe tay còn lại vác vài cảnh chạy bộ. Vì phải cố bán cho hết nên người bán đào thường về nhà muộn. Phòng bị cướp, người bán đào kẹp tiền vào bắp chân rồi quấn vải xung quanh, lại có người còn quấn vải trắng lên đầu như nhà có tang. Chỉ có dân trồng hoa Tây ở Ngọc Hà và Hữu Tiệp là không lo lắng vì làng gần chợ và con đường từ làng ra chợ có nhiều lính của triều đình canh gác thành.
Các nghệ nhân xưa đã đưa hoa vào tranh dân gian trong đó phải kể đến tranh "tứ quý" gồm bốn bức Xuân-Hạ-Thu Đông. Mỗi mùa trong tranh là một loại hoa đặc trưng, tùy theo vùng miền, nghệ nhân sẽ vẽ các loài hoa khác nhau. Mùa xuân là hoa đào, mai hay lan; mùa hạ là hoa sen, lựu hay hoa hồng; mùa thu là cúc hay hoa phù dung và mùa đông là trúc hay thông.
Xuân thiên mai nhụy phô thanh bạch
Hạ nhật hồng hoa đấu hảo kỳ
Cúc ngạo thu tình hương vạn lộc
Tùng lăng đông tuyết ngọc thiên chi
Nhưng mỗi loài hoa lại phải tương ứng với loài chim, mai phải đi với chim khổng tước, hoa hồng với chim công, hoa cúc đi với gà, thông phải đi với hạc. Cao Bá Quát yêu hoa mai đến mức ông phải thốt lên: "Nhất sinh đê thủ bái mai hoa" (nghĩa là cả đời chỉ cúi đầu trước hoa mai). Cách đây hơn mười năm ở Hà Nội có một người chơi hoa và cho đến nay chưa thấy người thứ hai chơi kiểu như ông. Ông tên là Bính nhà ở tầng một khu B tập thể Kim Liên. Công tác trong ngành nông nghiệp nhưng không liên quan đến cây và hoa nhưng ông Bính mê hoa sen kinh khủng, ông rành rẽ các vùng trồng sen trên đất Việt Nam. Ông từng sang tận Trung Quốc xem hội chợ sen quốc tế . Căn phòng chính chỉ rộng hơn hai mươi mét vuông nhưng ông đào một cái hồ nhỏ, chọn loại bùn thích hợp, vùi củ sen và đổ nước sạch vào. Vì trong nhà không có ánh sáng mặt trời nên ông sử dụng loại đèn có ánh sáng đơn sắc chiếu xuống để sen phát triển bình thường như ngoài tự nhiên. Mùa sen nở, vào nhà ông thơm ngát như đang đứng ở giữa đầm Trị (gần phủ Tây Hồ, chuyên trồng sen từ xưa đến nay). Sen tàn, ông lát ván lên hồ để gia đình sinh hoạt bình thường. Ông chơi sen như vậy cho đến khi mất.
Năm năm sau khi chiếm Hà Nội, năm 1888, một số nhà thực vật người Pháp đã lập ra Bách Thảo để trồng thí nghiệm các loài cây (người dân quen gọi là Trại Hàng hoa) trên đất của làng Ngọc Hà và Hữu Tiệp. Ngoài việc trồng các giống cây bản địa, viên giám đốc còn mạnh dạn cho nhập các giống cây nhiệt đới từ châu Phi, các loại hoa, rau, củ, quả từ các nước ôn đới ở châu Âu phù hợp với khí hậu miền Bắc. Hoa nhập từ châu Âu gồm: Qillet (cẩm chướng), panse’e (hoa bướm), marquerite’ (cúc vàng), violette (hoa tím)... Khu vực trồng hoa Tây được lợp kính và chia thành luống đã tạo ra kỳ hoa dị thảo suốt bốn mùa. Giám đốc vườn thuê mướn dân Ngọc Hà và Hữu Tiệp vào làm vườn. Ban đầu hoa trồng ở đây chỉ phục vụ những gia đình người Pháp trong các dịp sinh nhật, Tết Chính trung (quốc khánh Pháp 14-7) hay tiệc tùng. Nhờ có vườn Bách Thảo mà dân Ngọc Hà và Hữu Tiệp biết gây giống các loài hoa mới, vì trước kia họ chỉ trồng hoa mẫu đơn, huệ, hồng, sói, cúc vạn thọ, ngâu, thiên lý... Người đầu tiên trồng những giống hoa mới ở Ngọc Hà là ông Phạm Hữu Tỉnh và Trịnh Văn Quang. Thấy hoa Tây bán được giá và kỹ thuật không quá khó nên cả làng bắt chước hai ông, các giống hoa bản địa ít dần, thay vào đó là các giống hoa Tây. Đầu thế kỷ 20, chị em ở Ngọc Hà, Hữu Tiệp mang hoa vào phố rao nửa Tây, nửa ta "La flơ bà đầm" (mời bà đầm mua hoa). Cũng nhờ có Bách Thảo, hoa ở Hà Nội phong phú hơn, thú chơi hoa cũng đa dạng hơn. Tiếp nhận văn hóa chơi hoa từ người Pháp đầu tiên là những người làm ở sở Tây, thanh niên du học từ Pháp về, trí thức có tư tưởng tiến bộ và các gia đình giàu có. Không chỉ bày lọ hoa ở bàn tiếp khách ngày Tết, ngày thường họ cũng trưng hoa, cùng với hoa là salon Tây. Cũng như hoa ta, mỗi giống hoa Tây đều có những đặc trưng, người có đức tỉnh thủy chung thích chơi hoa violette, ai ưa vui vẻ hớn hở thì chơi hoa bướm...Trước năm 1954, phố Lê Thái Tổ có một tiệm hoa nổi tiếng là Marguerite, bên ngoài cửa kính có hình cô gái duyên dáng như đang nói "Hãy nói lên điều đó bằng hoa" (Dites le avec les fleurs), đám cưới gọi là sang không thể không đặt hoa ở tiệm này. Sở dĩ tiệm này nổi tiếng vì một thời kỳ người đẹp vũ nữ Lý Lệ Hà sáng nào cũng nhận được một bó hoa từ tiệm này chuyển đến, chủ tiệm thì giấu kín tên người gửi, Lý Lệ Hà úp mở còn dân Hà Nội lờ mờ người tặng là Bảo Đại.
Nói đến hoa thủy tiên không thể không nhắc đến đất Yên Phụ. Yên Phụ xưa có tên là Yên Hoa, đến đầu đời vua Thiệu Trị thì đổi thành Yên Phụ, có người cho rằng làng phải đổi tên vì kiêng tên húy của vua. Tuy nhiên ở làng lại lưu truyền câu chuyện đất Yên Hoa vốn nhiều bùn, lính chăn voi của nhà chúa cho voi qua đây và một con bị sụt bùn không cứu được đã chết, triều đình phạt làng rồi bắt đổi tên thành Yên Phụ. Trước kia Yên Phụ không có nghề trồng hoa. Làng có mấy người làm cai cho vườn Bách Thảo, trong đó cô ông Trưởng Thụ người xóm Giữa đã học được nghề trồng hoa Tây và biết chỗ mua hạt giống nên đã phát triển nghề này. Trưởng Thụ truyền nghề cho em là Hương Hồi rồi từ đó các nhà trong làng bắt chước và trở thành làng trồng hoa vào năm 1924-1925. Yên Phụ còn biết tỉa thủy tiên để bán trong dịp Tết. Nghề buôn hoa thủy tiên cần nhiều vốn vì phải nhập giống từ Hồng Công và Thượng Hải (Trung Quốc), nên trong làng chỉ có ba người có máu mặt là Trưởng Cộng, Trưởng Hán và Trưởng Canh. Nghề tỉa hoa thủy tiên gặp thời tiết thuận lợi và gặp năm khách chơi nhiều thì có nhà kiếm vài trăm đồng trong vụ hoa Tết là bình thường; vì giò đẹp giá từ 10-15 đồng (gần bằng một tháng lương thợ). Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, nguồn cung cấp hạt giống hoa bị cắt nên Yên Phụ chuyển sang ươm hoa giống. Cạnh Yên Phụ là Nghi Tàm, trước khi Nghi Tàm trồng hoa thì làng này chuyên trồng dâu nuôi tằm do công chúa Từ Hoa dạy nghề. Sau đó chuyển sang trồng hoa ta nên xóm Đình từng có tên là Đồng Bông (cánh đồng hoa). Từ năm 1925, dân Nghi Tàm cũng bắt chước Yên Phụ trồng hoa Tây. Hoa Tây không chỉ đi vào văn chương thơ ca mà còn là cảm hứng cho các họa sỹ. Bức tranh Thiếu nữ bên hoa huệ (trước năm 1954, người Hà Nội gọi hoa loa kèn là huệ Tây) của họa sỹ Tô Ngọc Vân vẽ năm 1943 với một thiếu nữ mặc áo dài trắng nghiêng đầu về phía lọ hoa toát lên một nỗi buồn vương vấn, nhẹ nhàng được cho là một trong các bức tranh tiêu biểu của hội họa Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Nhưng thân phận huệ Tây thật trắc trở...
Năm 1999, Việt Nam đã đổi mới được hơn mười năm. Với nhiều người, thì cốt lõi của đổi mới là làm sao kiếm nhiều tiền hơn. Một thanh niên ở xã Tây Tựu (huyện Từ Liêm) đổi mới bằng cách tìm thêm giống hoa mới cho làng hoa quê anh. Nghe nói hoa thuốc phiện đẹp mê hồn nên anh quyết chí lên Tây Bắc tìm. Được một người Mông dẫn vào vạt nương trồng cây thuốc phiện, anh vô cùng ngạc nhiên, trên một diện tích không rộng, những cây thuốc phiện vươn lên trong khe đá để đón ánh nắng và nở hoa đủ các màu sắc. Từ màu trắng, trắng pha đỏ, đến màu hồng, màu tím như bảng màu trong hội họa. Những cánh hoa mỏng manh che nhụy và nhụy hoa lại không giống màu cánh hoa bao lấy quả non nhu nhú. Nếu cánh đỏ thì nhụy màu trắng, nếu cánh hoa trắng thì nhụy đỏ, và hoa vàng thì nhụy tím nên thu hút rất nhiều các loài ong. Khi cánh hoa rụng hết, quả sẽ lớn dần và người ta quanh khía quả cho nhựa chảy ra sau đó vét thứ nhựa đã se và đó chính là thuốc phiện sống. Anh xin hạt, hỏi cách ươm. Khi ruộng nhà anh nở hoa, dân Tây Tựu không biết hoa gì, hỏi thì anh bảo hoa bướm núi. Ban đầu trồng một sào, vụ sau là hai sào. Hoa nở vào trước Tết và có bao nhiêu bán hết bấy nhiêu và rất được giá. Tin giống hoa lạ ở Tây Tựu loang ra, công an theo chân người bán về tận làng thì mới hay đó là hoa thuốc phiện! Không phải hầu tòa nhưng xã buộc gia đình phải nhổ bỏ.
Năm 1959, bà Hai ở Ngọc Hà đi bán hoa loa kèn, bà kể, vừa mới hạ gánh xuống vỉa hè Hàng Đường thì một người phụ nữ mặc quần lụa áo trắng đi qua lẩm nhẩm: "Bà này bán hoa tư sản." Bà không hiểu sao lại gọi là hoa tư sản, hoa trồng ra ai mua thì bán. Nghĩ vậy nhưng thấy có gì không ổn, bà định gánh đi thì một người đàn ông ngoài năm mươi nhìn gánh hoa rồi bảo: "Bà không biết bọn tư sản đang bị hạ bệ mà lại còn đi bán loại hoa cho bọn chúng à?" Nói xong ông ta lấy mũi bàn chân lập úp cả sàng hoa. Ngọc Hà chăm hoa từ khi cắm cái cây xuống đất, người chơi hoa xong dù bỏ đi mà khi cầm lên vẫn còn nhẹ tay, nỡ nào kẻ đi đường lại đang tay "dập liễu vùi hoa". Ức quá, bà rút đòn gánh định phang kẻ chơi hoa lại tệ bạc với hoa thì ông này lớn tiếng: "Bây giờ mà còn bán hoa của bọn thực dân à. Để gọi công an đến xử lý mới được." Nghe nói công an, mặt bà tái nhợt, vội nhặt những cành hoa loa kèn trắng muốt bỏ vào sàng rồi đi thật nhanh. Nhưng ông kia vẫn còn chưa tha: "Bà kia dừng lại!" Rẽ sang phố Hàng Cá, bà gánh vội về nhà. Thấy vợ về với gánh hoa còn nguyên, chồng bà đoán có chuyện chẳng lành. Rồi ông ra vườn, băm nát cả mấy sào loa kèn đang nhú hoa, gom lại làm phân. Chuyện loang ra khắp làng và mùa loa kèn năm ấy Hà Nội đã vắng loài hoa trắng trong, tinh khiết. Những người yêu loài hoa này đoán già đoán non chắc năm nay mất mùa. Ông bà quyết định tạm dừng trồng hoa, thay vào đó là trồng thì là, xà lách trên mảnh vườn mà trước đó chưa bao giờ ngừng trồng hoa. Những nhà khác lại thay các loài hoa sang bằng giống hoa bình dân như cúc, đồng tiền, chân chim... Còn lay ơn, hồng, cẩm chướng... thì chỉ có hợp tác xã nông nghiệp được trồng để cung cấp cho các cửa hàng dành cho chuyên gia nước ngoài ở Kim Liên và phục vụ cho đối ngoại của nhà nước. Đầu những năm 1990, đất đai bắt đầu có giá, hoa Ngọc Hà, Hữu Tiệp mất dần làng cũng vỡ ra. Dân có tiền đổ về đây và những ngôi nhà cao tầng mọc lên che lấp ánh sáng cho hoa. Xác máy bay B.52 vẫn cắm dưới hồ Hữu Tiệp nhưng qua đây không còn mùi nồng của phân, mùi hăng của nước tiểu và đi từ đầu làng đến cuối làng không còn ngan ngát mùi hương. Còn loa kèn thì đến thập niên 80 mới thấy lại nhưng không phải ở Ngọc Hà, Hữu Tiệp. Hoa này có nguồn gốc châu Âu. Từ khi có vườn Bách Thảo đến năm 1945, người Pháp đã nhập và trồng thử ở đây 3000 loại từ cây đến rau, hoa... không biết loa kèn vào Hà Nội năm nào.
Để cảm được vẻ đẹp của hoa ta phải ngẫm ngợi, trong khi đó vẻ đẹp hoa Tây toát ra ngay từ những cánh hoa rực màu. Hoa Tây có khả năng làm thay đổi không gian, một lọ hoa hồng nhung làm nồng nàn căn phòng của đôi vợ chồng mới cưới. Nếu ai đó cắm hoa ta lẫn với hoa Tây thì cũng giống như hát aria, romance cùng ca trù, khập khiễng lắm. Hoa bây giờ trồng ở Tây Tựu, Mê Linh, đủ loại hơn trước, rồi từ Đà Lạt chuyển ra, từ nước ngoài về, song hoa Ngọc Hà, Hữu Tiệp, Yên Phụ, Nghi Tàm thì không còn khiến câu hát "Làng em làng hoa, hoa thơm ngát bốn mùa. Hồ Tây đôi bên, trong tình yêu hoa lúa rộn ràng..." vẽ nên bức tranh về một Hà Nội thanh bình, lãng mạn của nhạc sỹ Ngọc Khuê chỉ còn trong ký ức.