Sách Lĩnh Nam chích quái chép: "Hồi quốc sơn, dân ta lấy vỏ cây làm áo... dùng gạo Tri làn rượu", còn sách An Nam chí lược, phần chép về Triệu Đà có đoạn: "Thừa tướng Lữ Gia chẳng chịu ra mắt sứ giả nhà Hán, Cù Thái Hậu mưu giết bèn mở hội trong cung, lúc uống rượu Thái hậu bảo Gia rằng..." Chuyện này xảy ra vào năm Nguyên đinh thứ tư, như vậy có thể nói, người nước Nam biết uống rượu từ trước công nguyên?
Người Thăng Long xưa không chỉ biết uống, mà còn biết nấu rượu. Nấu rượu theo cách truyền thống không quá khó. Cơm rải ra nong, rắc đều men sau đó bốc vào trong chum sành rồi bịt kín miệng. Tùy theo thời tiết nhưng quá trình cơm ngấu men chỉ mất bốn ngày. Tiếp đó đổ nước lã vào chum và khi cơm ngấu men nổi hết lên là phải chưng cất ngay vì để lâu rượu sẽ chua. Gạo cũ được nhiều rượu hơn gạo mới, nếu mười cân gạo mới chỉ lấy được khoảng năm lít nhưng gạo cũ (gạo mậu dịch thời bao cấp) thì có thể lấy được bảy lít. Nấu bằng sắn hay ngô cũng cách tương tự như nấu gạo. Quy trình là vậy nhưng để có rượu ngon lại không dễ dàng,đòi hỏi phải có kinh nghiệm. Cơm khô quá hay nát quá cũng ảnh hưởng tới chất lượng rượu. Cho men nhiều thì rượu gắt và đắng, ít men lại không đủ ngấu cơm vì thế khi nấu cơm rượu không nổi lềnh bềnh mà chìm đáy nồi nên hay bị khê. Rồi men cũng quyết định rượu ngon hay không. Vì thế các làng chuyên nấu rượu bao giờ cũng chỉ lấy men của người lạ. Trong Dư địa chí, Nguyễn Trãi ghi nhận, phường Thụy Chương nấu rượu ngon có tiếng. Thụy Chương là một trong sáu phường của Tổng Trung thuộc huyện Vĩnh Thuận, sang đời Nguyễn phải đổi thành Thụy Khuê, vì kiêng húy của Nguyễn Hiến Tổ (Chương hoàng đế là miếu hiệu của Thiệu Trị). Có lẽ vì thế mà trong ca dao tục ngữ Hà Nội có câu:
Làng Võng (Võng Thị ngày nay) bán lợn bán gà,
Thụy Chương (nay là Thụy Khuê) nấu rượu la đà cả đêm.
Nằm cạnh Hồ Tây với hoa sen bát ngát, tháng Năm sen nở tỏa hương khắp vùng phía tây kinh thành nên Thụy Chương cũng nổi tiếng khắp kinh thành về rượu nhụy sen. Tương truyền rượu Thụy Chương ngon đến mức Đức Phật cũng không cưỡng lại được, dù giáo lý "ngũ giới" của nhà Phật có "giới tửu" (cấm rượu). Đó là câu chuyện kể rằng, Phật đã đến đây và nhiều lần uống say, nên dân trong vùng đã cho dựng tượng Phật say ở chùa Đõ (chùa này nay không còn). Một vùng đất khác ở Thăng Long nấu rượu cũng rất nổi tiếng, đó là Kẻ Mơ:
Em là con gái kẻ Mơ.
Em đi bán rượu tình cờ gặp anh.
Rượu ngon chẳng quản be sành...
Áo rách khéo vá hơn lành vụng may.
Hay:
Làng Mơ thì bán rượu tăm,
Sở lờ cua ốc quanh năm đủ đời.
Và những câu khác như Rượu làng Mơ, thơ làng Lũ (Kim Lũ thuộc quận Hoàng Mai nổi tiếng có nhiều người làm thơ hay, trong đó phải kể đến Nguyễn Siêu). Thêm một câu khác: Rượu làng Mơ, cờ Mộ Trạch (làng có nhiều người chơi cờ tướng giỏi ở huyện Bình Giang, Hải Dương). Điều đó cho thấy rượu Mơ không chỉ nổi tiếng ở Thăng Long mà còn lừng danh thiên hạ. Phía Tây Nam thành Thăng Long có làng Vọng (nay là phường Phương Liệt, thuộc quận Thanh Xuân) nấu rượu rất ngon, ngoài ra còn có rượu Ngâu (nay là Yên Ngưu, Hoàng Liệt, huyện Thanh Trì), làng Thổ Khối (Gia Lâm). Hoàng Mai xưa có thôn Đoài nấu rượu có tiếng. Dư địa chí của Nguyễn Trãi cũng đã nhắc đến rượu sen, rượu cúc như đặc sản lâu đời của Thăng Long.
Theo sự tích Chúa Chổm thì tương truyền, một ông hoàng nhà Hậu Lê lúc còn trẻ sa cơ lỡ bước, say sưa tối ngày nên mắc nợ khắp các quán rượu. Khi ông lên làm vua, nhiều chủ nợ chạy theo kiệu để đòi tiền. Tới đoạn Cửa Nam bây giờ, ông cho quân lính ngồi trên lưng voi (ngựa) rải tiền xuống đất, ai nhặt được thì coi như đã thanh toán nợ, và "cấm chỉ" không được đi theo để đòi nữa. Từ đó, nơi ông rải tiền trả nợ có tên là "cấm chỉ", ngày nay là phố Cấm Chỉ (thuộc quận Hoàn Kiếm). Ông vua nói trên có tên là Chúa Chổm, và dân gian đã truyền miệng mấy câu lục bát:
Vua Ngô ba sáu tấn vàng,
Thác xuống âm phủ chẳng mang được gì,
Chúa chổm đánh chén tì tì,
Thác xuống âm phủ kém gì vua Ngô.
Không rõ vì lý do gì, nhưng dưới triều vua Lê Thánh Tông (1442-1497) khi ban hành Luật Hồng Đức đã có quy định, dân chúng phải duy trì thuần phong mỹ tục của Đại Việt, đàn ông không được uống rượu say. Uống rượu say bị coi là phàm tục và tùy theo mức độ có thể bị phạt tới cả trăm roi, nên các đệ tử của Lưu Linh chỉ uống đủ là dừng. Sau này trong Hoàng Việt luật lệ (còn gọi là luật Gia Long) cũng có điều khoản cấm đàn ông không được uống say trong hội hè, lễ tết. Cả hai bộ luật thời phong kiến đều đề cập đến chuyện cấm uống rượu say, có nghĩa là trong đời sống có chuyện quan, dân uống rượu say và để lại hậu quả nguy hại là có thật. S.Baron sống mấy chục năm ở Thăng Long làm cho Công ty Đông Ấn Anh và là con lai giữa một nhà buôn Hà Lan và một phụ nữ Thăng Long, tác giả cuốn Mô tả vương quốc Đàng Ngoài (Description of the Kingdom of Tonkin – xuất bản ở Paris, năm 1683), trong sách có đoạn: "Tùy theo đời vua mà uống rượu bị coi là tục hay bình thường... Dân chúng hiếm khi thấy họ uống say còn quan lại và binh sỹ coi uống rượu khỏe được cho là dũng cảm nhưng không uống đến mức không biết gì." Rượu không chỉ để cúng lễ hay uống vào ngày lễ tết mà được sử dụng cả ngày thường. Dân gian thường truyền tụng câu Nam vô tửu như kỳ vô phong, tức là đàn ông mà không rượu chả khác nào cờ không có gió, cờ không có gió chỉ là lá cờ rủ. Ngày Tết, dù mâm cao cỗ đầy nhưng thiếu rượu thì không ra cỗ. Trên bàn thờ cúng tổ tiên cũng không thể thiếu rượu, vì người Việt quan niệm "trần sao âm vậy" và "thắp hương ba nén, rót rượu ba đài". Trước rằm tháng Chạp, dân kinh thành đã mua rượu chuẩn bị cho ngày ông Công, ông Táo về trời. Nhà bình thường thì đợi các cô bán rượu làng Mơ gánh be sành đi qua mua đầy chóe dùng đủ cho ngày Tết. Nhà giàu, nhà quan thì mua rượu sen Thụy Chương hay rượu được nấu bằng nếp trồng ở Định Công (nay là phường Định Công thuộc quận Hoàng Mai). Người bán mang đến tận nhà và họ cho vào các nậm sứ, nhà giàu đựng bằng nậm bạc. Khác với nhiều vùng, dân Thăng Long – Kẻ Chợ còn mua rượu nếp để cho đàn bà, cho con trẻ. Ngày Tết, ăn bát rượu nếp xinh xinh cho gương mặt hồng hào có sắc khí. Dù có nhiều phường nấu rượu ngon nhưng người Thăng Long cũng sành uống rượu, biết tửu lượng của mình mà uống đủ nóng mặt để thêm hứng với sắc xuân, không để ma mem làm mất lý trí cho thiên hạ chê cười. Trong cỗ tất niên hay cỗ đầu năm, con cháu chúc ông bà sức khỏe và trường thọ cũng chỉ dùng loại chén nhỏ, uống để tạo sinh khí trong bữa cơm, cho câu chuyện thêm rôm rả. Trong Vũ Trung tùy bút, Phạm Đình Hồ ghi nhận mỹ tục của người Thăng Long: "Khi nào có khách cần thết rượu thì dùng cái chén nhỏ bằng đầu ngón tay cái mà uống, vài chén rồi thôi ngay, nếu mời uống quá thì ai cũng chê là đắm say." Nhà truyền giáo Richard viết trong cuốn Lịch sử tự nhiên, dân sự và chính trị xứ Đàng Ngoài (Histoire naturelle, civile et politique du Tonkin, quyển I – Paris, 1778) như sau: "Người Đàng Ngoài chỉ uống rượu trong những dịp trọng đại hay khoái lạc. Người ta ít thấy nó trong cuộc sống hàng ngày. Người ta tự chưng cất để thỏa mãn nhu cầu trong nước và giá cũng thấp. Người ta cũng nhập rượu ngâm thuốc bổ từ Trung Hoa mang sang." Còn trong cuốn Một chiến dịch ở Bắc Kỳ (Une campagne au Tonkin), bác sỹ Horcquad viết: "Ở phố Hàng Đường, ngoài bán đường phèn, mứt các loại, các cửa hàng còn bán cả chum chum hay rượu gạo đong bằng gáo dừa cán tre. Loại rượu được nấu từ gạo có màu trắng đục có mùi gây buồn nôn, có độ cồn chừng 25-26 độ... Không một người châu Âu nào có thể uống được loại rượu này mà không nhăn mặt. Tuy nhiên đó là thứ đồ uống lên men duy nhất ở xứ An Nam dùng phổ biến." Tác giả chê đứng chê ngồi loại rượu này với từ ngữ khá nặng nề, có lẽ do không hợp và vì nó được nấu bằng phương pháp thủ công. Trong đoạn nói về rượu ở Hà Nội, ông ta cũng kể rằng thi thoảng thấy những người mặt đỏ gay đi trên phố hoặc quá say nằm lăn lóc trên góc phố và nhận định, tình trạng ấy cũng không phổ biến. Xét thời điểm tác giả ở Hà Nội (1882-1886) thì thành phố này bất ổn, quân Pháp, quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc, quân Cờ Vàng rồi luật nhà Nguyễn thì không còn giá trị...Tác giả cũng nhắc đến một loại rượu gạo có mùi nhụy sen với chất lượng tốt hơn và loại rượu này chỉ dùng cho vua và các quan giàu có.
Năm 1895, Pháp xây nhà máy rượu trên đất của hai thôn Cảm Ứng và Hòa Mã (nay nằm trên ba mặt phố Nguyễn Công Trứ, Lò Đúc và Hòa Mã). Chủ hãng rượu tên là Fontaine , biệt thự mà ông này ở nay là Đại sứ quán Pháp ở phố bà Triệu. Nhà máy sản xuất ra các loại rượu trắng 35 độ, rượu Cúc, Ngũ gia bì... Cũng từ năm 1890 đến 1900, Hà Nội lại có thêm hai nhà máy rượu nữa ở phố Hàng Than, một là của Wurhlin chuyên sản xuất rượu nếp đóng chai với công suất 500 lít/ngày, và nhà máy kia là của Denoc chuyên sản suất rượu Rhum bằng mật mía. Trước đó, rượu ta không bán theo lít mà bán theo cân ta. Còn rượu của Tây lại đóng vào hai loại chai là nửa lít và một phần tư lít (còn gọi là cút). Rượu do Tây sản xuất ban đầu không bán được, đã thế họ còn phải đóng thuế, nên đám chủ nhà máy kêu lên chính quyền yêu cầu rượu An Nam cũng phải đóng thuế. Chính quyền nghe lọt tai yêu cầu ai nấu rượu phải báo lên quan địa phương và phải nộp thuế mỗi chai một xu. Nhưng người An Nam lại lý sự: "Chúng tôi nấu để uống có bán cho ai đâu mà bắt đóng thuế", thế là không ai đóng. Các chủ nhà máy thúc mạnh, nên lấy lý do vì rượu nấu thủ công không đảm bảo chất lượng và trốn thuế, nên chính quyền ra lệnh cấm, ai vi phạm bắt được sẽ bỏ tù. Nghiêm như vậy nhưng dân vẫn nấu, vì thế Tây đoan gọi là "rượu lậu", còn cánh nhà Nho ở Hà Nội thì chua chát gọi là "quốc lủi". Lệnh cấm rượu khiến các làng nấu rượu có tiếng đất Thăng Long – Kẻ Chợ mất dần. Các tiệm rượu quan quản R.A (Régie Alcool) xuất hiện trên rất nhiều phố, cùng với thuốc phiện hộp R.O. Một mặt của tấm biển quảng cáo có chữ R.A và mặt kia là R.O cạnh đó là ba sắc (cờ Pháp). Trong bài Thơ mừng ông ký rượu, Nguyễn Khuyến giễu:
Rày xem bác đã thỏa lòng chưa
Phút chốc làm nên biển với cờ.
Từ lệnh cấm đã sinh ra mưu trả thù nhau bằng cách chôn "rượu lậu" sau vườn nhà, ngoài ruộng của đối thủ rồi đi báo quan. Có điều khá lạ là người Pháp ở Hà Nội nghiện rượu không bao giờ uống Fontaine, Rhum, nếp đóng chai mà họ chỉ uống Absinthe đưa từ chính quốc sang. Đây là loại rượu có độ cồn rất nặng, tới 75%, được làm từ lá ngải đắng (nên còn gọi là rượu ngải), lá ngải chứa chất kích thích rất mạnh. Nhưng vì chỉ bán theo giờ nên họ thường tụ tập ở quán cà phê Hòa Bình và Thương mại chờ đến giờ bán là lao vào mua. Trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), rượu này bị cấm ở Pháp và nhiều nước ở châu Âu. Mãi đến năm 2005, Thụy Sỹ cho phép làm loại rượu này với lượng hạn chế để đáp ứng cho dân nghiện nặng. Nếu rượu vang xuất hiện ở Hà Nội từ thế kỷ XVII thì whisky, cognac có bán ở Hà Nội năm cuối của thế kỷ XIX, năm 1883 ở phố Tràng Tiền có ba quán bán hai loại rượu này trong đó một quán chủ là người Việt Nam, ông này người Sài Gòn.
Nghiện rượu thường là đàn ông, thế nhưng đầu thập niên thứ hai thế kỷ XX có một người đàn bà nghiện rượu ai ai cũng biết là mụ Đội Chớp ở phố Hàng Hài (nay thuộc phố Hàng Gai), một me Tây làm nghề nặc nô (nghề chuyên gây sự và đòi nợ thuê) và khóc mướn. Không ngày nào không say và khi say mụ biểu diễn cho trẻ con hàng phố các kiểu khóc mướn, các kiểu chửi nhau với con nợ, khi tỉnh thì mụ hiền đến nỗi trẻ con trêu chọc. mụ cũng chỉ cười.
Có một người dám đứng lên tranh đấu với các quan Pháp chống lại sự độc quyền của rượu chai do các chủ Pháp sản xuất ở Việt Nam là ông Phạm Quỳnh. Tại hội nghị tài chính và kinh tế Đông Dương họp ở Sài Gòn từ ngày 25-11 đến 13-12-1931, với tư cách là thành viên hội đồng này Phạm Quỳnh đã có bài diễn văn đề nghị bỏ độc quyền rượu ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, cho phép các làng nấu rượu truyền thống cạnh tranh bình đẳng với rượu chai được đại biểu Tây và ta ủng hộ. Khi đưa ra bỏ phiếu, có ba mốt đại biểu đồng ý với ý kiến của ông, trong khi chỉ có mười tám người chống đối. Sau đó, tháng Bảy năm 1933, Toàn quyền Đông Dương phải ra nghị định cho phép một số làng được nấu rượu. Nhân sự kiện này, nhà thơ Tú Mỡ đã làm bài Tửu đức tụng tặng chung "bà con làng say" và tặng riêng "ông trích tiên, thi sỹ kiếm tửu sỹ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu":
Ai dám bảo rượu là thuốc độc.
Ấy những phường phàm tục ngu đần.
Rượu là cao lương tiên tửu của thánh nhân.
Để di dưỡng tinh thần não trí.
Rượu là ngũ cốc chi tinh túy.
Vị thảo thơm thanh quý vô ngần.
Hỏi ai tài tử văn nhân.
Có phải rượu là thú thứ năm quân tử đó?
Văn như Lý Bạch, Lưu Linh thuở nọ.
Nhờ rượu mà thiên cổ lưu danh.
Võ như Trương Phi đời Tam quốc giao tranh.
Đều là bậc trứ danh chi ẩm giả!
Sách có chữ "Vô tửu bất thành lễ dã".
Không có rượu thời mất cả lễ nghi.
Mất lễ nghi mỹ tục còn gì.
Nước văn hiến chẳng khác chi tuồng mọi rợ.
Tục ngữ nói "Giai không rượu như cờ không gió".
Không rượu thời còn có chi vui!
Làm trai sống ở trên đời.
Ít cũng phải tam bôi mới lịch.
Này những lúc thanh nhàn tịch mịch.
Chén rượu nồng kích thích hồn thơ.
Bốc hơi men chênh choáng tờ mờ.
Tửu có nhập thời văn mới xuất.
Này những lúc anh em họp mặt.
Mâm rượu đầy chén ngất mua vui.
Chén anh, chén chú, chén bác, chén tôi.
Say lúy túy quên trời quên đất!
Anh em hỡi này ta bảo thật.
Rượu cho nhiều sướng nhất trần ai.
Ai ơi! Chẳng uống cũng hoài.
Cổ xúy cho rượu ta chỉ là cái cớ để cụ Tú Mỡ muốn nói không phải người Pháp muốn làm gì ở nước Nam cũng được.
Ở Hà Nội, đầu thế kỷ XX, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu không chỉ nổi tiếng về thơ mà còn nổi tiếng về ham chơi và nhất là rượu. Một lần tri huyện ngoại thành nghe tiếng Tản Đà đã đích thân tìm ông và mời tới nhà uống rượu, vốn từ lâu không ưa đám quan phủ, quan huyện nhưng ông vẫn nhận lời. Bữa rượu còn có bạn bè ông ta và vài chánh lý các xã, sở dĩ tri phủ cho gọi các ông này là để trả tiền cho bữa rượu đồng thời chứng kiến quan huyện nhà giao thiệp rộng rãi thế nào. Uống đến chén thứ năm, viên tri huyện mời ông đọc thơ, bực mình trước sự dốt nát lại hay khoe của, Tản Đà lấy giọng và đọc:
Chỉ vì thần dân ngu như lợn.
Cho nên chúng nó được làm quan.
Nghe xong tri huyện ngậm bồ hồn làm ngọt khi Tản Đà gọi cả y là chúng nó. Uống thêm một chén như lời cám ơn bữa rượu, Tản Đà cáo bận xin về. Từ Ngô Tất Tố, Phan Khôi, Trần Huyền Trân đến lớp ít tuổi hơn như Nguyễn Vỹ, Vũ Bằng khi viết về ông không thể không nói đến chuyện rượu. Còn ông thì tuyên ngôn:
Trời đất sinh ra rượu với thơ.
Không thơ, không rượu sống như thừa.
Công danh hai chữ mùi men nhạt.
Sự nghiệp trăm năm nét mực mờ.
Và tự biện:
Đất say đất cũng lăn quay.
Trời say, mặt cũng đỏ gay ai cười?
Nhà văn Nguyễn Tuân là người nổi tiếng sành sỏi trong việc uống rượu và nhiều người mong được uống với ông. Trên báo Văn Nghệ, Kim Lân viết: "Ai cũng muốn uống với Nguyễn Tuân. Ai có rượu ngon cũng muốn mang đến để được xem ông uống." Một nhà văn khác mà nói tới ông sẽ không thể không liên tưởng tới chuyện "cá trộm, rượu chịu, văn chui", đó là nhà văn Phùng Quán. Thời khốn khó, Phùng Quán câu cá trộm ở Hồ Tây làm thực phẩm, để đãi bạn, và bán lấy tiền mua cho con gái chiếc đồng hồ báo thức, giúp ông không phải nhìn vệt nắng trên mặt hồ mà nhắc con đến giờ đi học. Thời buổi khốn khó, tiền chỉ đủ ăn nên đành phải uống chịu. Có lần tôi và nhà thơ Trúc Anh mời ông uống rượu ở quán nước chè bà Mai (vợ giáo sư Hoàng Như Mai) ở góc ngã tư Quang Trung – Nguyễn Du, hôm đấy ông rất vui vì gặp lại bà Mai và lại được nhắm với lạc rang của bà Tô Hoài (bà chuyên đưa lạc rang đóng túi ni lông cho quán bà Mai), hứng lên ông đọc mấy câu nhưng tôi chỉ nhớ:
Trông thì tưởng củi mục,
Đốt lên mới biết trầm.
Còn văn chui thì mọi người biết cả rồi, viết không dám ký tên mình. Mà hình như các nhà văn, nhà thơ bị các ông "quan văn" quy kết là "nhân văn" đều có tửu lượng rất khá, chắc uống để nuốt nỗi buồn vào trong. Thập niên 90 thế kỷ trước, ở phố Trần Hưng Đạo có quán rượu Trúc Viên thu hút rất đông văn nghệ sỹ, đặc biệt là các nhà thơ, và các nhà thơ đến uống rượu ở đây đã ra Trúc Viên thi tập. Khi nhà nước lấy nhà thì Trúc Viên đóng cửa. Rượu có ở khắp nơi đâu chỉ riêng đất Thăng Long, thế một số văn sỹ Bắc Hà ở đây đã nâng lên thành văn hóa. Lúc vui thì bạn bè đàn đúm uống rượu và bình thơ, buồn thì độc ẩm còn bàn về nhân tình thế thái thì đối ẩm. Rượu đi với cờ, hoa và nguyệt thật hợp:
Khi chén rượu, khi cuộc cờ,
Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên.
Thực ra không đợi đến thế kỷ XX, từ nhiều thế kỷ trước, rượu và thơ văn luôn song hành với văn sỹ Bắc Hà. Họ ăn tết "trùng cửu", trước tết lại là mùa thu nên hoa cúc nhiều và Kẻ Mơ đã chế ra thứ rượu cúc thơm nhẹ, uống vào thấy người bay bay, thế nên mới có "Thu ẩm hoàng cúc hoa". Rượu này còn được họ dùng trong dịp tết. Chuyện "bầu rượu, túi thơ" của văn sỹ Bắc Hà xưa và nay kể không hết và chuyện nào cũng thú vị.
Thời bao cấp, rượu cung cấp cho Hà Nội chủ yếu là bốn nơi gồm: Làng Vân (Bắc Ninh), Gốt (huyện Chương Mỹ), Thanh Mai (huyện Thanh Oai) và Văn Xá (Thường Tín). Dân uống rượu chuyên nghiệp không thích rượu làng Vân dù uống êm, nịnh cổ họng nhưng nhẹ, họ thích nhất rượu Văn Xá và Thanh Mai hơn vì đậm. Năm 1976, khi tôi đóng quân ở Xuân Mai, mỗi lần đi "tranh thủ" vẫn chúng kiến cánh tân binh mang rượu thuê cho mấy bà ở Gốt. Cánh thuế thấy bộ đội ngồi trên xe khách kẹp can giữa hai chân biết chắc là rượu nhưng cũng lờ đi. Về đến bến xe Hà Đông an toàn là có mấy đồng tiền công. Trước đó cánh buôn rượu làng Vân thường đóng vào dạ dày trâu, sau đó thì cho vào véc xi quả bóng đá. Đựng rượu bằng hai thứ này khi đi ô tô khách không có mùi, nhân viên thuế kiểm tra khó phát hiện, nhưng mỗi chuyến mang vào nội thành quá ít nên họ chuyển sang săm ô tô và sau này đó là can. Không may bị phát hiện thì chẳng ai dám nhận, nhận là bị bắt vì rượu thuộc hàng quốc cấm. Lại có người chế bong bóng lợn thành cái túi đựng rượu, khi vận chuyển, các chị các cô buộc cái "túi" này trước bụng, nhìn như bụng chửa. Nên mới có chuyện buổi sáng thì các chị các cô có cái bụng to tướng, đến buổi chiều, lấy túi rượu ra rồi thì bụng lép kẹp, người ta gọi đó là "sáng chửa, chiều đẻ"! Thời ấy, nhân viên thuế không nhận hối lộ mà nếu có hối lộ thì tội tăng gấp đôi, vậy là mất thì thôi, gỡ lại bằng chuyến khác. Về đến nội thành lập tức đổ cho các quán nước coi như xong vì không ai bắt rượu ở các quán nước chè. Thời đó người ta bàn tán rượu trong vắt tức là có thuốc sâu vofatok, không biết thực hư ra sao?
Cũng thời bao cấp, Nhà máy rượu Hà Nội (tiếp quản nhà máy Fontaine) chỉ sản xuất rượu mùi như cam, chanh, cà phê... rượu mạnh có Lúa Mới. Công nghệ cũng không khác gì xưa, nấu thành cồn sau đó pha theo công thức để ra loại rượu mà họ muốn. Chuyên gia Liên Xô rất thích loại này vì Lúa Mới là dạng Vodka, thứ yêu thích của người Nga. Vào dịp Tết, trong mỗi túi hàng Tết bán cho dân có tí mì chính, ít miến, hộp mứt, bánh pháo Trúc Bạch và không thể thiếu chai rượu mùi. Tuy nhiên dân ít uống vì nó không hợp khẩu vị, người ta thích uống "quốc lủi" hơn. Bây giờ Hà Nội đủ các loại rượu và hình thành dân uống rượu thế hệ mới, nghĩa là chỉ uống rượu Tây, có chai tới vài chục triệu Lại còn thêm thứ rượu 138, loại rượu ngâm với cây thuốc phiện. Sở dĩ có tên như vậy vì 138 là kế hoạch của tỉnh Yên Bái giao cho ngành công an và nông nghiệp nông thôn cùng với huyện Trạm Tấu, Mù Căng Chải kiểm soát và xử phạt những người trồng cây thuốc phiện. Cùng với đó tràn lan các loại rượu ngâm với thảo mộc, một số loại động vật với mục đích nâng cao "sức chiến đấu" cho cánh đàn ông. Rượu như vậy và cách uống cũng khác, uống nhanh hơn, uống nhiều và hình như cũng tục hơn .
Cách đây chừng ba chục năm, các sư ở chùa Kim Liên (quận Tây Hồ) đã thử phục hồi lại cách rượu nhụy sen. Cứ một lớp cơm trộn men lại rải một lớp nhụy sen sau đó ủ cho đến khi cơm ngấu men thì đổ nước mưa và chờ cho nổi cơm thì nấu như nấu rượu thường. Kết quả được thứ rượu có mùi thơm nhẹ, uống rất dễ chịu. Tuy nhiên để có được mười lít rượu quý này thì phải cần tới cả đầm sen.