Trong dân gian Việt Nam lưu truyền tích truyện, dưới gốc cây đào già ở núi Độ Sóc có hai vị thần Trà và thần Uất Lũy cư ngụ, họ giữ trọng trách cai quản một đàn quỷ nghịch ngợm và hay phá phách dân làng, con quỷ nào hại dân sẽ bị hai vị thần này trừng phạt. Nhưng mỗi khi Tết đến, lũ quỷ lợi dụng hai thần phải lên chầu trời để trình tâu mọi việc dưới trần gian thì bọn quỷ liền ra tay. Vì thế, vào dịp mừng Tết đón xuân, người ta thường trưng một cành đào trong nhà, để lũ quỷ tưởng thần Trà và Uất Lũy ở đó sẽ không dám bén mảng tới. Cũng từ tích này đã dẫn đến phong tục người dân Bách Việt treo bùa "Đào phù" (hay bùa đào) để dọa ma quỷ. "Đào phù" vẽ thần Đồ và Uất Lũy trên giấy hồng điều, nên có thể lừa được ma quỷ. Dần dần người ta thay "Đào phù" bằng câu đối viết trên giấy hồng điều, vừa xua được ma quỷ lại bày tỏ được mong muốn của chủ nhà. Hoàng Sĩ Khải đỗ tiến sỹ năm 1554 làm quan lên đến chức Thượng thư kiêm Tế tửu Quốc tử giám triều Mạc đã làm bài thơ bằng chữ Nôm dài 336 chữ Tứ thời khúc vịnh trong có câu:
Chung Quỳ (tranh) khéo vẽ nên hình
Bùa đào cấm quỷ, phòng linh ngăn tà.
Hoa đào ở Việt Nam đi vào thi ca từ thời phong kiến. Trong Cung oán ngâm khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều có câu:
Áng đào kiểm đâm bông não chúng
Khóe thu ba dợn sóng khuynh thành.
Bóng gương lấp ló trong mành
Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa.
Hay:
Má đào không thuốc mà say,
Nước kia muốn đổ, thành này muốn long.
Không chỉ trong thi ca mà hoa đào (cùng hoa mai) xuất hiện trong tranh tứ bình của các nghệ nhân dân gian.
Vào mùa xuân, trên khắp vùng miền ở Việt Nam có rất nhiều loại hoa đua nhau khoe sắc nhưng tại sao người dân đặc biệt là ở phía bắc, trong đó có Hà Nội, thường chọn hoa đào để làm hoa ngày Tết? Điều này cũng dễ giải thích, vì theo tích xưa, màu đỏ của hoa đào có thể đuổi được ma quỷ. Thứ hai, màu đỏ của đào được gọi là "hỷ tín" là màu của may mắn, ngày Tết hoa đào đỏ thắm làm hồng căn nhà và màu hồng khiến không gian nhỏ bé trở nên ấm cúng hơn. Thứ ba, hàng nghìn hàng vạn cây đào, cành đào, và ngay cả đào thế do bàn tay những người trồng tạo ra thì không cành nào, cây nào lại giống nhau đã tạo ra sự khác biệt. Điều này khác hẳn với các loài hoa khác. Còn gì thú vị hơn khi được thả mình trong không gian chỉ có hoa và đất trời trong khí xuân lành lạnh để chọn một cành đào ưng ý rồi hớn hở mang về nhà. Không chỉ trong ba ngày Tết, nhiều người Hà Nội còn chơi đào trước Tết cả nửa tháng để tận hưởng trước thiên hạ và ra Giêng họ lại chơi đào cuối vụ, những nhánh khẳng khiu điểm vài nụ mà để trên bàn khách thì thật thanh và nhã.
Xưa, ngoài đào rừng, tại Hà Nội chỉ có Nhật Tân trồng đào, nay đào được trồng ở nhiều nơi, nhưng người chơi sành thì phải chọn đào Nhật Tân. Một thời, dinh đào cổ hướng ra mặt Hồ Tây, quanh năm lồng lộng gió. Đất ở đây là đất cát pha, lẫn sỏi, không ngấm nước và bở, thích hợp nhất đối với cây đào. Nắng, gió và hơi nước đã tạo nên sắc màu hoa đào hồng tươi, dăm đào đỏ tía, nụ đào to, phấn trắng, bông đào nở căng, màu hồng đậm, số lượng cánh nhiều từ gấp rưỡi đến gấp đôi những cây đào trồng ở nơi khác. Đặc biệt, khi hoa nở hết thì sẽ tàn và rụng từng cánh mà không bao giờ quắt lại. Dân Nhật Tân một nắng hai sương, quanh năm luấn quấn với từng gốc đào, từ khi nảy mầm, uốn gốc, cắt tỉa thành tán, rồi đến khi tuốt lá, chỉnh trang dáng thế thật lắm công phu. Đào gốc càng già thì càng đẹp, bởi vì "đào già, hoa kép". Không phải cứ cây đào to, sai hoa, nhiều nụ là đẹp, kén đào phải cần đủ các yếu tố: nhất dáng, nhì hoa, thứ ba mới là nụ, phải điểm thêm chút lộc mới nhú và nếu may mắn sẽ có thêm mấy quả non nữa. Trong tiết xuân se se lạnh, phảng phất mưa bay mà đi ngắm và chọn đào thì chẳng còn có thú nào tao nhã hơn. Bán và mua ở đây là cả nghệ thuật, tuyệt nhiên không có sự xô bồ. Các cụ ông mặc áo choàng, cụ bà quàng khăn len nhỏ, len lỏi trong dinh đào để chọn một cây cho phù hợp với nhà mình. Mà muốn biết cây đào đẹp phải đứng từ xa ngắm lại. Vừa là phương châm kinh doanh nhưng cũng lại là tuyên ngôn ở Nhật Tân: bán đào phải bán cho những người say đào mới thú, khách phải thực sự ưng ý, ngắm say sưa, biết được vẻ đẹp đích thực của đào. Ai đã say rồi thì dùng dằng đi chẳng dứt. Với những khách như vậy, kể cả bán rẻ, kể cả trả thêm giá thì cả người bán lẫn người mua đều hoan hỉ. Cứ khoảng 21, 22 tháng Chạp, những người sành chơi đào đã lên tận dinh để kén. Với họ, nếu đợi đến tận 29, 30 Tết mới ra chợ mua vội vàng sẽ chẳng còn gì là thú nữa... Người Hà Nội sành chơi, một khi đã chọn đào trong dinh họ sẽ chẳng bao giờ muốn chơi đào trồng ở nơi khác. Trước đây, các bô lão trong làng vẫn thường chọn cây đào trồng trong dinh cổ để mang tặng Bác Hồ mỗi khi xuân đến. Tết nào cũng vậy, khi hợp tác xã đi kén đào để dâng vào đình, chùa bao giờ cũng phải kén ở dinh đào cổ này. Sau khi Hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết vào ngày hai bảy tháng Giêng năm 1973, các cán bộ của nước Việt Nam DCCH trong Ủy Ban liên hiệp quân sự bốn bên đã mang cây đào đỏ thắm từ Nhật Tân vào cắm ở trại Davis làm cho những người ở phía bên kia phải ngất ngây.
Dân gian có câu "Đào Nhật Tân, phân Cổ Nhuế", vậy đào Nhật Tân có từ bao giờ? Trở lại thế kỷ thứ VII, Tống Bình trở thành thủ phủ của mười hai châu, năm mươi chín huyện thuộc An Nam đô hộ phủ do nhà Đường (Trung Quốc) lập ra vào năm 607. An Nam đô hộ phủ đặt ở vị trí mà nay là đất Phú Thượng, Nhật Tân (thuộc quận Tây Hồ). Quan và quân Trung Hoa ở đây không biết bao giờ được về quê hương và để bớt nỗi nhớ đồng thời tính được thời gian ở Giao Chỉ, viên quan đứng đầu An Nam đô hộ phủ đã sai quân lên rừng Hoàng Liên Sơn đốn đào mang về trồng. Khi hoa nở họ biết Tết sắp đến ở quê nhà và cộng các mùa hoa lại, họ biết đã ở đất Giao Chỉ bao nhiêu năm. Việc trồng hoa đào mà không phải hoa khác của viên quan nọ có lẽ do ảnh hưởng của nhiều truyện xưa, tích cũ về hoa đào trên đất Trung Hoa và nhất là bài thơ quá nổi tiếng Đề tích sở kiến xứ của Thôi Hộ, một nhà thơ lớn cùng thời. Chuyện kể rằng nhân tết Thanh Minh, Thôi Hộ đến Đào Hoa Thôn, thấy khát nên ghé vào trại Đào Hoa Trang xin nước. Khi cổng Đào Hoa Trang mở ra, nhà thơ giật mình vì thiếu nữ mang nước vô cùng xinh đẹp, hai má nàng đỏ hây hây, lại đứng dưới gốc cây đào rực hoa nên má nàng càng tươi thắm. Năm sau đến tết Thanh Minh, Thôi Hộ trở lại trại Đào Hoa Trang, nhưng thấy cửa đóng then cài và chẳng thấy cô gái e lệ năm trước, chỉ thấy hoa đào vẫn rực đỏ như đang mỉm cười trong gió lạnh mùa đông. Cảm xúc dâng trào, Thôi Hộ đã lấy bút đề bài thơ:
Khứ niên, kim nhật, thử môn trung.
Nhân diện, đào hoa tương ánh hồng.
Nhân diện bất tri hà xứ khứ.
Đào hoa y cựu tiếu đông phong.
Tạm dịch:
Ngày này năm ngoái tại cửa này.
Ngọc chuốt hoa đào, má đỏ hây.
Nàng đi biền biệt nào ai biết.
Chỉ thấy hoa đào cười trước gió đông.
Một truyền thuyết khác trong dân gian được sách chép lại là Tết Kỷ Dậu (1789), sau khi tiêu diệt 20 vạn quân xâm lược nhà Thanh ở Thăng Long, Quang Trung đã sai quân phi ngựa thần tốc ngày đêm mang một cành đào Nhật Tân vào Phú Xuân để tặng công chúa Ngọc Hân thay thiệp báo tin mừng chiến thắng và cành hoa đào tươi thắm cũng là lời nhắn gửi tình cảm tới người vợ yêu. Vì là truyền thuyết nên có thể thật và không thật, song truyền thuyết ở Việt Nam ít nhiều đều xuất phát từ hiện thực cuộc sống. Xâu chuỗi với chuyện hoa đào ở An Nam đô hộ phủ thì có thể đưa ra kết luận hoa đào ở Nhật Tân rất có thể có từ thế kỷ thứ VII? Nhật Tân tên cũ là phường Nhật Chiêu, vì kiêng tên húy của vua Nguyễn nên mới đổi tên thành Nhật Tân. Nhật Tân xưa là một xã lớn gồm năm thôn (thôn Đông, Bắc Nội, Bắc ngoại, thôn Tây và thôn Nam) và có tới mười ba xóm. Sau 1954 thì không còn thôn Bắc ngoại. Năm 1928 có 2035 dân, năm 1954 có 4500 dân. Làng to nhưng từ đời Hậu Lê đến Nguyễn không có người đỗ đại khoa. Thời Pháp thuộc cũng không có ai có bằng thành chung.
Đào phai bây giờ vẫn còn ở Nhật Tân nhưng còn đào bích có từ bao giờ? Trong một bài đăng trên báo Hà Nội mới số Tết năm 1981 có đoạn: "Đầu thế kỷ XX, có một khách phương xa đem đến quán Trấn Vũ một cành đào bích, cụ thủ từ là Đồng Khuê thấy hoa đỏ thắm rực cả góc chùa, nhận thấy đây là giống đào quý hiếm bèn ghép vào gốc đào ta để giữ giống rồi sau đó giao cho hai người làng Nhật Tân là Đường Nguyên và Hương Việt. Từ đó bích đào được dân làng Nhật Tân nhân rộng ra." Đến Nhật Tân hỏi tung tích hai cụ Đường Nguyên và Hương Việt, nhưng vì chỉ có tên chữ, không có tên Nôm, nên không ai trong làng biết cụ Đường Nguyên và Hương Việt ở xóm nào. Khách phương xa đến quán Trấn Vũ nếu là người Việt Nam thì chắc hẳn phải có vùng đất nào đó ở miền Bắc có giống đào này. Tuy nhiên đến nay, không thấy sách xưa nói đến chuyện này. Nếu khách phương xa là người Trung Hoa thì có thể tin được vì từ xưa Trung Hoa đã có giống bích đào. Phải chăng bích đào ở Nhật Tân có nguồn gốc từ Trung Hoa? Bích đào hoa to, mỗi cụm chỉ độ dăm bông, mỗi bông có mười hai hay mười bốn cánh nhưng cũng có loại loại bông kép có tới ba hai cánh, loại này ít trồng vì không được người chơi ưa chuộng. Cánh bích đào dày có màu hồng thắm, xếp thành nhiều lớp bao bọc nhị vàng phía trong tỏa ra tua tủa, lá bích đào hình mũi mác mầu xanh biếc, cành thì vươn thẳng đứng.
Trước năm 1954, Nhật Tân có dinh Lẫm chuyên trồng đào nên còn gọi là dinh đào. Dinh rộng chừng năm héc ta trông ra Hồ Tây. Truyền rằng ở đây có cây đào tổ. Ngoài dinh đào thì dân cũng trồng ở những mảnh đất nhỏ và với dân số vài chục vạn người thì hàng vạn cành đào là đủ cung cấp cho thú chơi ngày Tết của Hà Nội. Ngày 10-10-1954, bộ đội về tiếp quản Thủ đô. Đó là một ngày không thể nào quên với người Hà Nội và cả dân tộc khi Pháp buộc phải rút khỏi Việt Nam chấm dứt gần một trăm năm chiếm đóng mảnh đất hình chữ S. Dù Hải Phòng vẫn còn là vùng đệm nhưng Tết Giáp Ngọ 1954 thật là vui với người Hà Nội và dân trồng đào Nhật Tân, hy vọng Hà Nội sẽ ngập hoa đào trong ngày Tết. Ở Nhật Tân, những ngày giáp Tết, mỗi nhà đều muốn có riêng một ông trời. Nhà nào đào còn non chưa nở kịp thì mong trời ấm lên và kéo theo gió nồm, những nhà đào đã hé vừa thì mong thời tiết cứ duy trì 23-24 độ, còn nhà nào đào đã điểm hoa thì mong trời thật rét. Những cái mong ngược nhau tồn tại song song từ khi có đào ở làng này. Cái nghề mà thành bại không phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm và bí quyết, trông cả vào ông trời, nhìn trời mà mừng mà lo cho đến khi cắt đào đi bán vẫn chưa thể thở phào, ấy mà không ai muốn chuyển sang trồng cây khác, dường như trồng đào là số của Nhật Tân.
Năm 1954, trời chiều tất cả người trồng đào Nhật Tân, thời tiết thuận vô cùng, đào nhà ai cũng tích nụ. Buổi tối, tại các lán giữa đồng, cánh đàn ông hút thuốc lào uống nước chè bàn tán và đoán định giá đào, có người nhẩm tính vụ này thu về bao nhiêu. Tết ông Công, ông Táo, lác đác đã có nhà cắt đào mang vào phố và hớn hở về nhà. Nhưng những ngày sau thì mang đi lại mang về. Cả làng ngơ ngác. Đến hai bảy Tết thì lo âu hiện ra trên nét mặt những người nông dân. Chợ hoa Hàng Lược đông hơn mọi năm nhưng lại ít người mua đào hơn. Dân làng không biết điều gì xảy ra và sau đó mới vỡ lẽ khi người đi chợ hoa bảo hoa đào là hoa của tư sản nên không ai muốn đón năm mới bằng thứ hoa của giai cấp vừa bị cách mạng lật đổ. Người bán hoa nhớn nhác, người ở nhà thì nóng ruột khi không thấy con cháu về lấy thêm. Đến đêm ba mươi, người mua đào vẫn thưa thớt. Tết năm ấy nỗi buồn trùm lên Nhật Tân. Hoa đào ế chất đầy vườn. Ông Vũ Đích, khi ấy là công an khu Hai Bà Trưng (sau này đổi thành quận), nhà ở phố Thịnh Yên kể, hai chín Tết, đi trực ở khu về thấy trong nhà hồng rực vì cành đào bích. Ông hốt hoảng bảo vợ: "Sao lại mua thứ hoa dành cho bọn tư sản. Năm mới anh em cơ quan đến chúc Tết thấy hoa đào lại bảo tôi không có lập trường giai cấp". Vợ ông tái mặt. Rồi ông không dám lấy dao rựa chặt sợ hàng xóm nghĩ nhà mua nhiều thịt nên dùng tay xé nhỏ từng cành, sau đó gói lại cho lên gác bếp. Vợ ông tiếc mấy đồng bạc mà chỗ cành khô ấy không đủ đun sôi nổi ấm nước. Sang năm 1955, dinh đào bị phá sạch và người ta nuôi vịt nên có tên là trại Vịt. Một ngày, Chủ tịch Ủy ban hành chính Trần Duy Hưng về thăm nhà ở Xuân Đỉnh, đi qua dinh đào quen thuộc với người Hà Nội, không thấy đào mà chỉ thấy vịt, ông ghé vào hỏi thăm mới biết chuyện. Ông khuyên mọi người quay lại trồng đào vì tin hoa đào là hoa của tư sản chỉ là tin đồn không căn cứ. Và cây đào hồi sinh ở Nhật Tân. Trước kia, đào chỉ được trồng ở một số diện tích nhất định trong làng và ở dinh cổ, sau do nhu cầu ngày càng lớn nên làng mới trồng trên đất lúa.
Người xưa hay ví người con gái xinh đẹp nhưng duyên tình chắc trở là "phận má đào". Và đào Nhật Tân cũng có thân phận chẳng khác gì cô gái xinh đẹp kia. Hợp tác xã trồng hoa được thành lập và Tết đến ngoài hoa đào trồng trên đất năm phần trăm còn có hoa đào hợp tác xã. Xã viên thì nâng niu nhưng đến cửa hàng bách hóa bị hắt hủi nên cành đào xơ xác, héo rũ. Thấy hợp tác xã trồng hoa không hiệu quả, thành phố cấp đất cho một số đơn vị làm cơ quan và thế là dinh đào cổ ánh màu hồng lên mặt nước Hồ Tây bị xóa. Ngỡ tưởng phận má hồng chỉ chắc trở thế thôi nhưng năm 2001, dự án xây khu đô thị mới Ciputra liên doanh với nước ngoài triển khai thì cả ruộng đào nằm trong dự án nên bị thu hồi. Người sống chết với đào chết đứng, chạy ngược chạy xuôi gõ các cửa, báo chí lên tiếng nhưng thành phố đã quyết rồi. Và nhiều nhà âm thầm ra bãi sông Hồng gây dựng lại từ đầu. Một cứ xốc nữa với đào là năm 2006, năm đó chứng khoán là kênh thu hút rất đông người đầu tư, bỏ tiền vào mã nào cũng có ăn vì thế người ta kiêng màu đỏ và dân chứng khoán kiên quyết không trưng đào.
Bây giờ đào ngoài bãi rất đẹp, ấy là nhờ những người sống chết với loài hoa này, nhờ công lao và kinh nghiệm bao đời truyền lại. Đúng là những gì là của dân, thuộc về dân thì dân không bỏ dù ai đó muốn bỏ.