Sau khi lật đổ nhà Tây Sơn năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi, lấy niên hiệu là Gia Long và chuyển kinh đô vào Huế. Năm 1805, lấy cớ chữ Long (rồng) chỉ tượng trưng cho Kinh sư nên Gia Long cho đổi chữ Long trong Thăng Long (rồng bay) sang chữ Long trong Thịnh Long (hưng thịnh). Thế là sau hơn tám trăm năm là kinh đô, Thăng Long trở thành trấn thành. Năm 1815, Gia Long công bố Hoàng Việt luật lệ (hay còn gọi là luật Gia Long), đây là bộ luật thứ hai của triều đại phong kiến Việt Nam sau luật Hồng Đức đời hậu Lê. Luật có hai mươi hai quyển với ba trăm chín mươi tám điều bao quát các mặt của đời sống chính trị, xã hội trong đó có nhiều điều khoản hạn chế về xây nhà ở Hà Nội.
Năm 1820, thái tử Đảm lên ngôi lấy niên hiệu là Minh Mạng đã cho sửa Hoàng Việt luật lệ để phù hợp với cách cai quản của mình. Về xây dựng nhà cửa ở Hà Nội, Hoàng Việt luật lệ sửa đổi quy định: "Nhà trong từng trường hợp nào cũng không được xây trên nền hai cấp hay chồng hai mái. Cấm làm nhà có gác cao bằng vai kiệu trương quan đi tuần" và "Cấm không được trổ cửa sổ ra bên đường." Cùng với những cấm đoán trong xây dựng, chính sách thuế của nhà Nguyễn từ Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị đến Tự Đức cũng tác động tiêu cực đến bộ mặt đô thị Hà Nội. Nhà nước phong kiến này không căn cứ vào buôn to hay bán lớn để định ra mức thuế mà thu theo mặt tiền của cửa hàng. Mặt tiền càng rộng thuế càng nhiều, bất kể chiều sâu của ngôi nhà và hàng hóa chất bên trong nhiều hay ít. Kiểu thu thuế này khiến những gia đình có mặt tiền rộng phải è lưng đóng thuế nên họ xẻ nhỏ chia cho con cái, có nhà thì bán hay cho thuê và kiến trúc nhà ống ra đời.
Thực dân Pháp chiếm hoàn toàn Hà Nội vào năm 1883, sang năm 1884, dân lánh nạn mới lục tục kéo về, và dù luật lệ của nhà Nguyễn vẫn còn nhưng thực tế nó không có giá trị vì Pháp được quyền bảo hộ An Nam. Do kinh tế còn rất khó khăn nên hầu hết nhà trong khu vực "36 phố phường" là nhà lá. Theo thống kê của Toàn quyền Paul Doumer thì đến năm 1897, hơn hai phần ba số nhà trong thành phố vẫn là nhà tranh vách đất. Nhận chức Công sứ đầu tiên của Hà Nội năm 1883, Bonnal bắt đầu lên một kế hoạch xây dựng bằng việc cho xây tòa đốc lý, bưu điện, Bắc Bộ phủ... ở phía đông Hồ Gươm theo phong cách kiến trúc cổ điển Pháp. Bonnal cũng đã ra quyết định làm con đường quanh Hồ Gươm, mở rộng phố Hàng Khảm (bao gồm phố Tràng Tiền và Hàng Khay ngày nay), con đường huyết mạch từ khu nhượng địa đến thành Hà Nội. Năm 1885, việc mở rộng phố Hàng Khảm hoàn thành, người ta cho lát vỉa hè, trồng phượng hai bên, nhà xây gạch thay cho nhà lá xuất hiện ngày càng nhiều hơn. Hiện tại tầng ba nhà số 3 phố Hàng Khay vẫn còn hàng số 1886, tức là năm xây dựng ngôi nhà. Và cũng tại nhà này vẫn còn một ban công trên tầng hai, có lẽ đây là một trong những ban công của nhà dân đầu tiên ở Hà Nội? Chỉ dụ của vua Đồng Khánh ngày 1-10-1888 bị Pháp ép ký giao Hà Nội cho Pháp là cơ sở để người Pháp mở rộng thành phố. Từ năm 1888 đến 1895, chính quyền bảo hộ quyết định xây một thành phố thuộc địa lớn trên nền kinh thành trước đây mà không xây bên cạnh như người Anh làm ở New Delhi. Sở dĩ người Pháp tiến hành một chính sách xây dựng các công trình lớn và tốn kém vì Hà Nội đóng ba vai trò: là nơi đặt trụ sở của chính quyền bảo hộ (từ 1885), chính quyền thành phố thuộc Pháp (từ năm 1888) và từ năm 1902 Hà Nội là thủ đô của toàn Đông Dương (Việt Nam, Lào và Campuchia).
Để có công cụ quản lý, chính quyền bảo hộ đã ra nhiều nghị định trong đó có Quy chế về lục lộ thành phố Hà Nội ban hành vào ngày 12-9-1891 do Đốc lý Beauchamp ký. Quy chế quy định: "Ban công chỉ được làm ở độ cao bốn mét tính từ mặt vỉa hè lên ở những phố có chiều rộng không dưới mười mét với phần nhô ra là 0,80 mét. Với ban công tầng nhỏ cửa sổ trên tầng trệt là 0,22 mét." Quy chế này không chỉ đảm bảo trật tự xây dựng đô thị mà còn tạo ra sự duyên dáng, mềm mại cho không gian thành phố vốn chủ yếu là nhà ống và không có cửa sổ. Mấy tháng sau, ngày 15-3-1892, Toàn quyền Đông Dương Chavassieux ký nghị định thu thuế tất cả những gì từ nhà nhô ra phần đường công cộng, trong đó có ban công, với mức thu một năm là ba mươi xu trên một mét vuông. Thoạt đầu thấy "tệ", nhưng ngẫm kỹ thấy hợp lý, không gian của chung mà chủ nhà muốn dùng riêng thì phải trả tiền là đúng quá rồi. Và hơn cả là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, người dân Hà Nội đã được đứng trên cả "kiệu của vua", điều mà trước đó họ không bao giờ dám nghĩ trong đầu, điều này cũng cho thấy dân bắt đầu được tôn trọng.
Trong quá trình phát triển, xây dựng ở Hà Nội không có bất ngờ. Ban đầu những nhà thiết kế lấy chính những kiểu dáng ở quê hương họ áp lên Hà Nội. Điều đó dễ về nghề nghiệp, dù có phần khoe khoang, nhưng hơn cả là họ cảm thấy như đang sống ở quê hương mình. Các nhà thiết kế đến sau vì không muốn bắt chước kiến trúc đã có trước đó, nên họ buộc phải sáng tạo để tạo ra dấu ấn riêng và thế là bên cạnh những biệt thự nhỏ, kiến trúc giản đơn còn có những biệt thự lớn, sang trọng xây theo thiết kế thịnh hành ở Paris đầu thế kỷ XX với những đường cong của trường phái tân nghệ thuật, kiểu lập thể của trường phái nghệ thuật trang trí hay trường phái thực dụng. Trường phái hiện đại thì có rất nhiều biệt thự xây theo phong cách kiến trúc đặc trưng của một số vùng bên Pháp như nhà lợp ngói đen vùng Anger, lợp ngói kiểu thành phố Bordeaux, mái bằng kiểu Địa Trung Hải... Năm 1923, một loạt công trình lớn được xây dựng tại Hà Nội với kiến trúc theo phong cách Pháp kết hợp với kiến trúc dân gian Việt Nam. Người tiên phong là kiến trúc sư Ernest Hébrard, khi ông thiết kế tòa nhà chính của Đại học Y (phố Lê Thánh Tôn hiện nay), kiến trúc này mở đầu cho phong cách kiến trúc Đông Dương. Không chỉ ở các công trình lớn, kiến trúc Đông Dương còn thấy ở nhiều biệt thự xây dựng trong những năm 1930 ở khu phố Pháp (phía nam hồ Gươm, phố Điện Biên Phủ, Lê Hồng Phong, Phan Đình Phùng... ngày nay). Và dù phong cách kiến trúc ở Hà Nội có khác nhau nhưng điểm chung là đều có ban công Juliet xinh xắn, điểm chung này kéo dài cho đến năm 1954, năm mà người Pháp buộc phải rút ra khỏi Việt Nam.
Ban công là phiên âm từ balcon trong tiếng Pháp, nghĩa là phần làm nhô ra của ngôi nhà. Ban công có trong kiến trúc cổ điển châu Âu nhưng trở nên phổ biến hơn sau khi bi kịch Romeo và Juliet của W.Shakespeare viết năm 1597 được công diễn, trong đó có cảnh nàng Juliet trên ban công và Romeo đứng ở dưới tâm tình. Ban công là một không gian kiến trúc tạo những hưởng thụ tinh thần thanh cao cho con người và là khoảng không gian lãng mạn nhất trong một ngôi nhà. Từ đây, chủ nhân thoải mái hòa nhập với thiên nhiên, đón một cơn gió mát mùa hè, cái giá buốt của mùa đông và quan sát tất cả những gì diễn ra ở phía dưới họ. Theo họa sỹ Trần Hậu Yên Thế, ban công có hai dạng, dạng sử dụng con sơn đưa phần không gian của ban công nhô ra ngoài (tiếng Hán gọi là lutai – lộ đài, nghĩa là phần đài bệ nhô hẳn ra ngoài) và thường được gọi là ban công Juliet. Ban công Juliet rất phổ biến ở các phố Tây, như: Bà Triệu, Hàng Bài, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Hai Bà Trưng, Điện Biên Phủ, Lê Hồng Phong, Nguyễn Cảnh Chân, Phan Đình Phùng, Lý Nam Đế... và cả ở khu vực phố cổ. Dạng thứ hai gọi là yangtai (dương đài, không gian của ban công vẫn trong phần mái hiên của tòa nhà). Với dạng ban công này, chủ nhân muốn nhìn sang hai bên thì phải nhô đầu ra bên ngoài,kiểu thức này khá phổ biến ở Trung Hoa nhưng ở Hà Nội lại rất ít.
Tùy theo thời gian xây dựng, chất liệu trang trí ban công có thể là gỗ, vữa, sắt, xi-măng. Cũng theo Trần Hậu Yên Thế thì họa tiết ban công của các ngôi nhà ở Hà Nội rất đa dạng. Những họa tiết này không chỉ nói lên thị hiếu thẩm mỹ mà còn cả thân phận và địa vị xã hội của gia chủ. Lan can ban công tầng hai ngôi nhà số 53 phố Hai Bà Trung có ba chữ N.V.H, có thể là viết tắt họ, tên đệm và tên chủ nhà. Việc viết tắt ở ban công cho thấy sự khẳng định tài sản cá nhân nhưng cũng cho thấy tính cách chủ nhân là người "nửa kín nửa hở". Ban công vân mây ở ngôi biệt thự ở 27 phố Cao Bá Quát cho phép người ta liên tưởng tới những đường nét chạm lộng mềm mại trên các cửa võng, trên các bức ván lá gió. Không chỉ là trang trí, ban công cũng là nơi gia chủ phô bày quan niệm của họ về nhân sinh khi cho uốn sắt hay đắp vữa ba chữ Phúc-Lộc-Thọ. Những chữ này thấy nhiều ở ban công khu phố cổ, ít thấy ở khu phố Pháp. Tuy nhiên cũng có ngoại lệ, ban công ngôi nhà của Victor Tardieu (giám đốc đầu tiên của trường Mỹ thuật Đông Dương) có chữ Thọ bằng chất liệu gỗ. Lại có gia chủ không giấu giếm khát vọng, nói cách khác là bày tỏ sự thực dụng của mình trước thiên hạ khi mô phỏng đồng tiền cổ (hay vì nó dễ thực hiện trên các chất liệu?). Người ta thấy khá nhiều họa tiết này trên ban công ở khu phố Pháp (hiện còn thấy ở nhà số 68 B phố Trần Hưng Đạo) và khu phố cổ.
Còn một kiểu họa tiết gọi là kết thừng, mang tính trang sức nhưng cũng có tính biểu tượng cao. Có người cho rằng đây là họa tiết kết hợp ý tưởng đoàn tụ của người phương Đông với sự khéo léo trong sử dụng vật liệu sắt của người phương Tây, và người thợ sắt Việt Nam đã đáp ứng được như nhà thiết kế mong muốn. Một trong các cửa hàng có thợ giỏi phải kể đến Hãng Cơ khí Phúc Long (ở 173 phố Phan Đình Phùng). Trước khi chế tạo ra những chiếc xích lô gọn nhẹ vào năm 1952, từ những năm 30 của thế kỷ 20, Phúc Long đã nổi tiếng Hà Nội về làm cửa sắt, lan can ban công. Cửa sắt, lan can của Phúc Long không có mối hàn mà ghép với nhau bằng đinh tán, bây giờ vẫn còn thấy chẳng hạn như cánh cổng hội Hợp Thiện (phố Lê Trực, nay là Ủy ban Nhân dân phường Điện Biên). Kiến trúc sư Ngô Đức Diên khi thiết kế ngôi nhà 46 phố Hàng Ngang cho nhà tư sản Trịnh Văn Bô đã chọn Phúc Long làm lan can sắt.
Ban công Hà Nội cũng đã đi vào văn chương giai đoạn 1930-1945. Trong truyện ngắn Con người điêu trá, Vũ Trọng Phụng có nhắc tới ngôi nhà "rất xinh và rất đẹp" ở phố Hàng Cỏ (nay là phố Trần Hưng Đạo). Câu chuyện về một kẻ si tình ngây thơ, có chi tiết lãng mạn được nhà văn mô tả có liên quan đến chiếc ban công: "Cứ chiều chiều, chúng tôi cùng nhau sánh vai ra ban công hóng mát, nhìn hai rặng cây lá xanh tươi tốt, con đường vắng vẻ, vỉa hè cỏ mọc um tùm mà tưởng tượng như mình ở cảnh Bồng Lai." Họa sỹ Nguyễn Trung Tín quê gốc Quảng Nam nhưng sinh ra và lớn lên ở phố Lê Thánh Tông. Những hoài niệm về Hà Nội đã làm nên một phần sự nghiệp hội họa của ông với các tác phẩm như Ban công, Ban công và sen.
Ngày 10-10-1954, hàng vạn cán bộ, bộ đội và công nhân từ chiến khu về tiếp quản Thủ đô không có chỗ ở, phải thuê nhà hay ở nhờ. Một vài khu tập thể liền tức tốc được xây dựng cạnh bờ sông Hồng nhưng cũng không đáp ứng được nhu cầu, và Nhà nước đã phải chia nhiều biệt thự, nhà mặt phố mà chủ đã bỏ vào Nam cho cán bộ. Từ một hộ nay có nhiều hộ hơn, nên diện tích chia cho các hộ cũng hẹp và để thêm diện tích sinh hoạt, chỗ thơ mộng nhất của ngôi nhà biến thành chỗ phơi quần áo, có nhà che phía ngoài làm bếp. Việc này làm cho ngôi đẹp đẽ, sang trọng một thời nay trở nên nhếch nhác. Năm 1997, có dự án "cứu các biệt thự, cứu các ban công Juliet" rất cụ thể, chính quyền có kế hoạch đền bù cho các gia đình sống trong đó, rồi phục hồi nguyên trạng như ban đầu để cho thuê. Dự án đạt được hai đích, bảo tồn di sản biệt thự và tăng thu cho ngân sách, nhưng vì thành phố không cấp đất cho hàng nghìn hộ dân tái định cư, nên dự án bị phá sản và tình trạng ban công đẹp đẽ ở nhiều biệt thự vẫn là chỗ đi... toa lét!
Sau năm 1975 và kéo dài đến đầu những năm 1990, một số nhà xây mới vẫn theo phong cách kiến trúc cũ, và thuế ban công bị bãi bỏ từ năm 1954 nên họ làm ban công hết cả chiều rộng mặt tiền. Có nhà dùng làm nơi hóng mát mùa hè nhưng nhiều nhà đặt chậu hoa hay trồng hoa giấy. Mùa hè, hoa nở, trời ơi thật lãng mạn. Song có điều lan can sắt không còn họa tiết đẹp như trước nữa, thợ sắt chỉ nối các đoạn sắt tròn bằng mối hàn xù xì và hình thù rất tùy tiện. Có chủ nhà không có sắt đã thay thế bằng hình con tiện gốm hay các viên gạch trang trí, khiến ban công trở nên nặng nề, thô vụng. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng phải kể đến tình trạng khan hiếm sắt, quản lý xây dựng đô thị lỏng lẻo và thiếu quy định chặt chẽ trong xây dựng nhà ở.
Đầu tháng 3-2012, tại Viện Goethe diễn ra triển lãm Nhà mặt phố của họa sỹ Nguyễn Thế Sơn. Để có được hình ảnh chân thực làm nền cho những bức tranh sử dụng không gian ba chiều, họa sỹ đã phải chụp hàng nghìn ngôi nhà từ cũ đến mới và kết quả từ những bức ảnh cho thấy, ban công Juliet còn rất ít. Với những ngôi nhà mới xây, gia chủ rất thực dụng, bởi đất thành phố quý hơn vàng nên họ không làm ban công. Bắt đầu từ tầng hai trở lên, họ xây tường để tăng diện tích sử dụng cho các căn phòng. Lại có nhà làm khung nhôm bịt kính, rồi quảng cáo kín cả mặt tiền. Cảm giác của người xem triển lãm là sự phát triển dường như ngoài tầm kiểm soát. Ban công Juliet đang ít dần làm mất đi sự lãng mạng trong văn hóa kiến trúc của Hà Nội...