Năm 1882, thực dân Pháp tấn công thành Hà Nội và chiếm Hà Nội thì xã hội phong kiến Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng dần có những thay đổi. Nho giáo bị văn minh và văn hóa phương Tây thách thức. Nhưng quan trọng nhất là sự thay đổi nhãn quan chính trị của tầng lớp trí thức Hà Nội, mà trước đó đã bất bình với triều đình Huế. Qua "tân thư" những tư tưởng dân chủ tư sản của các triết gia Pháp như: Rousseau, Voltaire, Montesquieu, hay Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi (Trung Quốc) đã dấy lên phong trào Duy Tân nhằm "khai dân trí, chấn dân trí". Tháng 3-1907,Trường Đông Kinh nghĩa thục ra đời ở phố Hàng Đào với mục tiêu là xóa bỏ tư tưởng Khổng giáo, Tống nho, Hán nho, tiếp nhận tư tưởng mới, khuyến khích học chữ quốc ngữ, chấn hưng thực nghiệp, mở tiệm buôn, phát triển kinh tế. Trường nhận cả học sinh nữ. Hưởng ứng mục tiêu của Đông Kinh nghĩa thục, nhiều đàn ông Hà Nội đã cắt bỏ búi tóc, đàn bà thì cạo răng đen thành răng trắng. Và người phụ nữ Hà Nội đầu tiên cạo răng đen là Lương Thị Bẩy, con gái của một trong những nhà sáng lập ra Đông Kinh nghĩa thục là cụ cử Lương Văn Can. Nhưng không phải ai cũng như Lương Thị Bẩy, nhiều cô gái Hà Nội giấu cha mẹ cạo răng đen và luôn tìm cách lẫn tránh cha mẹ vì lớp người này vẫn cho rằng, răng trắng là không đứng đắn. Lại cũng có chị em muốn cạo răng nhưng lại sợ ra đường bị coi là hạng me Tây (các cô gái lấy Tây đều cạo răng đen) nên cạo răng thực sự là một cuộc cách mạng chống lại truyền thống.
Như nhiều tục lệ khác, tục nhuộm răng đen bắt nguồn từ huyền thoại về ông vua, chồng của một nữ thần biển. Vị nữ thần biển này đẻ được 100 trứng nở ra 100 người con trai. Chẳng bao lâu, hai người chia tay nhau vì xích mích. Nữ thần biển muốn mang 100 người con trai theo mình về biển. Ông vua tìm cách giấu được 50 người con và, để đánh lạc hướng người mẹ nhất định tìm con, ông vua đã xăm da và nhuộm đen răng của lũ trẻ để không thể nhận ra. Tuy nhiên, thật khó xác định tục này bắt đầu từ khi nào. Trong cuốn Lịch sử Việt Nam (Tập I, NXB Khoa học xã hội, 1971) viết rằng: "Sứ thần của Văn Lang (Giao Chỉ) trả lời vua Chu (Trung Quốc) về tục ăn trầu: Chúng tôi có tục ăn trầu để khử mùi ô uế và nhuộm răng đen." Sách viết tiếp: "Thời Hùng Vương ai cũng xăm mình, ai cũng búi tó hoặc cắt tóc ngắn. Ai cũng thích đeo hoa tai và nhiều vòng tay. Người ta nhuộm răng, ăn trầu." Các nhà khảo cổ Việt Nam từng tìm thấy răng người Việt cổ có vết nhuộm đen tại di chỉ văn hóa Đông Sơn – Thanh Hóa (khoảng thiên niên kỷ thứ nhất TCN).
Các cuốn sách như Lịch sử tự nhiên, dân sự và chính trị xứ Đàng Ngoài (Histoire naturelle, civile et politique du Tonkin – Paris, 1778) của thầy dòng Richard, rồi Một chiến dịch ở Bắc Kỳ (Une campagne au Tonkin – Paris, 1892) của bác sĩ Hocquard, người theo binh sỹ Pháp xâm chiếm Đông Dương cũng nhắc đến bộ răng đen của người An Nam. Còn cuốn Ghi chép và kỷ niệm ở Bắc Kỳ (Au Tonkin-notes et souvenirs – Paris, 1925) của Bonnal, viên công sứ Pháp đầu tiên ở Hà Nội (1883-1885) viết: "Những đứa trẻ, cả con trai, con gái trắng nhưng khi lớn lên chúng nhuộm đen vì nếu không nhuộm đen thật đáng xấu hổ khi có một hàm răng trắng nhởn như răng chó."
Nhuộm răng được coi là tục đẹp của người Đàng Ngoài, và răng trắng bị coi như là răng chó hay "răng trắng như răng người Ngô"( ám chỉ người Trung Quốc). Trong cuốn Du ký mới và kỳ thú về vương quốc Đàng Ngoài (Relation nouvelle et siugulière du Royaume de Tonkin – Paris, 1681) tác giả Jean Baptiste Tavernier viết: "Người Đàng Ngoài không tin rằng con người ta có hàm răng đẹp cho đến khi được nhuộm đen." Trong văn chương, ca dao thì tục nhuộm răng và răng đen của phụ nữ được ca ngợi và tôn vinh như một nét đẹp không thể thiếu. Răng đen là nét đáng yêu được xếp vào hàng thứ tư trong cái duyên của người con gái:
Một thương tóc bỏ đuôi gà,
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên,
Ba thương má lúm đồng tiền,
Bốn thương răng láng hạt huyền kém thua.
Và để hấp dẫn cánh đàn ông, người con gái rất chú trọng đến hàm răng đen gợi cảm của mình:
Lấy chồng cho đáng tấm chồng,
Bỏ công trang điểm má hồng răng đen.
Trong bài hịch kêu gọi quân sỹ tại lễ thệ sư ở Thọ Hạc (Thanh Hóa), vua Quang Trung đã cổ vũ tướng lĩnh đánh quân quân xâm lược nhà Thanh:
Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó chích luân bất phản
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn.
Tục nhuộm răng đen phân bố và trải dài từ Nhật Bản xuống Malaysia, Indonesia; từ nam Trung Quốc đến nam Ấn Độ. Ở Việt Nam thì chỉ thấy có ở miền Trung, tập trung chủ yếu vào dân tộc Kinh và một số dân tộc thiểu số sống ở miền núi phía Bắc như: Thái, Mường, Si La... Nhuộm răng đen không chỉ có dân thường mà cả vua quan. Nhưng làm cách nào để có hàm răng đen nhánh? Mỗi địa phương có những cách nhuộm khác nhau, chị em ở các vùng quê Bắc Bộ thường đi chợ phiên mua thuốc của bà con dân tộc thiểu số. Ở Huế có thợ nhuộm. Còn Hà Nội vào cuối thế kỷ XIX có các cửa hàng chuyên nhuộm răng. Thành phần căn bản để nhuộm răng gồm: bột cánh kiến, nước cốt chanh, phèn đen và nhựa gáo dừa. Đầu tiên người ta vắt nước chanh vào cánh kiến đã tán nhỏ, ngâm kín trong vòng một tuần. Khi cánh kiến đã tan thì lấy chất sền sệt ấy bôi lên lá dừa hay lá cau sau đó áp vào răng sau bữa ăn chiều. Tất nhiên trước đó phải làm vệ sinh răng sạch sẽ. Trong hai đến ba hôm, tránh nhai để màu khỏi phai. Khi răng có màu đỏ già thì bôi thuốc đen, thuốc này là hợp chất pha trộn giữa cánh kiến với phèn đen và chỉ cần bôi một hay hai lần là hàm răng sẽ đen. Sau cùng lấy sọ dừa đốt cho cháy ra nhựa rồi phết vào răng và người chuyên nhuộm răng gọi là "giết răng" làm cho màu đen khó phai. Nói chung để có một hàm răng đen nhánh thường phải mất từ sáu đến bảy ngày, người nhuộm thường phải gánh chịu đau đớn và viêm lợi. Tuy nhiên để hàm răng không bị tróc lở và ngả sang màu vàng thì hàng năm phụ nữ vì hay ăn trầu phải nhuộm lại ít nhất là một lần. Thế nên mới có câu:
Năm quan mua lấy miệng cười
Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen.
Theo khảo sát của một viên bác sỹ Pháp đối với những người An Nam bị bắt phải sang Pháp làm lính thợ trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918) thì trong số 1430 lính bản xứ tuyển mộ ở nông thôn có 1037 người răng đen. Vì thế có thể tạm rút ra 80% dân quê ở Bắc Kỳ nhuộm răng đen. Trong số đó, 60% có độ tuổi từ 22 đến 26. Những người Việt làm lính thợ thường bị lính người Maroc, Sénégal cao to hành hung, áp bức. Để để hạn chế tình trạng bắt nạt lính An Nam nhỏ con, một sỹ quan Pháp đã phao tin rằng những người răng đen có khả năng ăn thịt người và chỉ một tiếng, họ có thể xơi gọn hai cái đùi khiến đám lính châu Phi hoảng sợ, từ đấy lính thợ An Nam mới được yên thân.
Những năm từ 1920 đến 1930, trong khi ở ngoại thành Hà Nội vẫn duy trì tục nhuộm răng đen thì ở nội thành ngày càng giảm, con cái nhà giàu, người làm sở Tây, thanh niên đi du học không còn ai để răng đen. Bà Hoàng Thị Minh Hồ, vợ nhà tư sản dân tộc yêu nước Trịnh Văn Bô và ngôi nhà của ông bà ở 48 phố Hàng Ngang là nơi Hồ Chí Minh đã viết bản Tuyên ngôn Độc lập, kể rằng khi lấy ông Bô (năm 1931) răng bà đen nhánh. Dù đã được chồng khuyến khích: "Nhà buôn bán với khách Tây khách ta, để răng đen xem ra không tiện," nhưng bà vẫn xem ý cha mẹ chồng vì "mình lấy chồng phải theo gia phong nhà chồng" và rồi thấy cha mẹ không phản đối nên năm 1934, bà mới cạo răng đen thành răng trắng. Những ngày đầu bà cũng thấy hơi ngượng, phải mất đến cả tháng mới quen. Báo Phụ nữ thời đàm số ra ngày 29-10-1933 mô tả cô gái tân thời Hà Nội: "Quần trắng áo màu, giày cao gót... để răng trắng, rẽ đường ngôi lệch... nói chuyện với đàn ông bằng tiếng Pháp, thỉnh thoảng viết bài đăng nhật trình, trên danh thiếp có đề chữ nữ sỹ..." Bài báo cũng nhấn mạnh: "Gái tân thời phải có học thức mới, tư tưởng mới giỏi ra phải có cách sinh hoạt mới: như thế mới là tân." Còn báo Phong hóa viết: "Chúng em đuổi cái đuôi gà để rẽ lệch tóc, thay bộ răng trắng ngà trắng muốt vào chỗ bộ răng đen ngòm, mượn cây son môi để làm việc của miếng trầu toe toét kia... chúng em ưa chiếc quần lụa bạch êm ái mát hơn cái quần sồi dày cồm cộp, trên đó người ta không phân biệt được những giống bẩn thỉu gì nhưng các cụ bảo nó sạch vì nó đen." Tại các tiệm cô đầu ở phố Khâm Thiên, các cô gái dù có hát hay, nếu để răng đen lập tức phải đi cạo răng thành trắng, vì "Khi hát mà để hở cái răng đen ra thì ai mà còn muốn nhìn muốn nghe nữa." Trên nhiều tờ báo có các biếm họa của hai phe, một phe cổ súy cho cái cũ vẽ hàm răng cô gái trắng nhởn bên kia là răng chó và bình: "Quý vị xem có giống răng chó không?" Không chịu kém cạnh, các tờ báo cổ súy cho cái mới vẽ một bộ răng đen và miệng cống và chú thích: "Có giống cái miệng cống không?" Trong luận văn bác sỹ của Vũ Ngọc Quỳnh (Le laquage des dents en Indochine, H.1937) thì năm 1936, số phụ nữ răng đen ở Hà Nội ở tuổi từ 18 trở xuống còn rất ít. Và điều đó dẫn đến tiếc nuối:
Răng đen ai nhớ cho mình
Để duyên mình thắm, để tình ra say.
Hay:
Nhớ hàng tre thẳng đọt măng
Nhớ cô con gái hàm răng đen huyền.
Nhuộm đen không khó bằng cạo thành răng trắng. Cách thường làm là xát chanh cho lớp cánh kiến mềm đi sau đó dùng dao cậy từng tí lớp cánh kiến bám trên mặt răng. Sau đó lấy miếng cau khô đánh hàng ngày cho đến khi không còn vết đen nào thì thôi. Thời gian cho cạo răng trắng rất lâu vì mỗi lần chỉ cạo được một ít vì ê chân răng. Sau năm 1954, khu vực nội thành hầu như không còn nghề nhuộm răng vì không còn ai nhuộm răng.
Ngày nay, nếu thấy chị em nào có mấy chiếc răng cửa nhìn như "răng cải mả" thì chắc chắn là họ sinh trong khoảng từ năm 1972 đến 1974. Sở dĩ có thể khẳng định như vậy vì trong những năm này ở Hà Nội xuất hiện nhiều đợt sốt dịch và trong đơn thuốc bao giờ cũng có Tetracycline – một loại thuốc kháng sinh, do Liên Xô sản xuất. Thời ấy một số người coi Tetracycline như một loại thuốc vạn năng, có thể trị được bách bệnh, vì thế không chỉ khi viêm nhiễm, mà cả khi nhức đầu sổ mũi gì đó là lập tức làm mấy viên Tetracycline! Loại kháng sinh này chính là thủ phạm làm bong men răng, dù khi lớn lên thay răng sữa mà răng vẫn vàng khè, loang lổ vết đen. Rất lạ là không biết tại sao Tetracycline chỉ làm bong men răng con gái, răng con trai thì không bị sao. Và cho đến nay, chưa có bất cứ lời giải thích mang tính khoa học nào về chuyện này?