Ngày 15-3-1887, tại Trường Thi (nơi tổ chức kỳ thi Hương ở Bắc Kỳ, nay là Thư viện Quốc gia, phố Tràng Thi) lần đầu tiên diễn ra Triễn lãm Kỹ nghệ Hà Nội do Thống sứ Bắc Kỳ bảo trợ. Nhân sự kiện này, nhà điêu khắc người Pháp là Frédéric Augustin Bartholdi, tác giả của tượng Nữ thần tự do đã gửi phiên bản bằng một phần mười sáu tượng đặt ở New York (cao 2,85m) đến trưng bày. Kết thúc triển lãm, tượng được tặng cho Hà Nội. Và nhân khánh thành Nhà Bắc Kỳ tương tế (Fratermite Tonkinoise) ở phố Mã Mây, người ta đặt tượng tại đây một thời gian, sau đó nó được đặt chính thức ở khu vực quảng trường Bốn tòa (nằm giữa Tòa Đốc lý, Bưu Điện, Bắc Bộ phủ và Trụ sở Ngân hàng Đông Dương, nay là vườn hoa Lý Thái Tổ).
Chủ trương trực trị An Nam để khai thác thuộc địa nhưng lại cho trưng bày Nữ thần tự do, không hiểu Tổng trú sứ Paul Bert muốn gì? Mang lại tự do cho dân bản xứ thì khác nào gậy ông lại đập lưng ông và làm sao khi thác được tài nguyên thuộc địa? Nữ thần tự do là tượng đầu tiên đặt ở nơi công cộng tại Hà Nội và người Hà Nội đã gọi là tượng "Bà đầm xòe" với hàm ý chế giễu chứ không phải vì phần dưới tượng là váy nên gọi như vậy. Dù mang tên Nữ thần tự do, biểu tượng cho quyền tự do của con người, nhưng trớ trêu thay, ngay dưới chân tượng đài, thực dân Pháp đã chém đầu Đội Văn, một người Việt Nam yêu nước tham gia phong trào Cần Vương.
Tháng 11-1886, Tổng trú sứ Paul Bert chết vì kiết lỵ, chính phủ Pháp quyết định cho đúc tượng để ghi công ông ta với dân bản xứ. Bức tượng là hình ảnh Paul Bert to lớn xòe tay che chở cho đứa bé còi cọc, với ý nghĩa An Nam nằm dưới sự bảo hộ của thực dân Pháp. Tiền đúc tượng lấy một phần từ công quỹ, vua Đồng Khánh góp 1000 đồng, ông vua này còn ra sức cho Nha Kinh lược Bắc Kỳ thông tin đến các quan lại hàng tỉnh, hàng phủ xuống tận hàng huyện bắt dân chúng phải đóng góp. Tượng đúc bằng đồng từ Pháp chuyển sang, và trong lúc chờ đợi xây bệ bằng đá (đúng ở vị trí đặt tượng Nữ thần tự do) ở vùng Jura quê hương của Paul chuyển qua thì họ hạ tượng Nữ thần tự do và đặt cạnh tượng viên trú sứ. Dân đã làm vè chế nhạo:
Ông Bôn Be lấy "Bà đầm xòe"
Đầm xòe ngoại tình khi Bôn Be vắng nhà
Tên bồi mách với Bôn Be
Bôn Be sẵn gốc tre
Đánh đầm xòe ra Neyret (nay là vườn hoa Cửa Nam)
Ngày 11-7-1890, Hội đồng thành phố làm lễ khánh thành tượng và đặt tên vườn hoa Bốn tòa là vườn hoa Paul Bert. Trong lúc chính quyền loay hoay tìm một địa điểm mới đặt tượng "Bà đầm xòe" thì có người gợi ý là dựng ở bãi Dừa (nay là đài phun nước ở Quảng trường Đông Kinh nghĩa thục), người khác bàn đặt lên nóc Tháp Rùa mới đẹp. Báo Tương lai Bắc Kỳ đã nhạo báng ý tưởng đặt tượng đầm xòe trên nóc Tháp Rùa: "Tượng Nữ thần tự do ở trên nóc ngôi chùa đó là sự thắng lợi lớn của ánh sáng đối với chính sách ngu dân. Nhưng tại sao người ta không đặt tượng lên chùa Trấn Vũ hay gác chuông nhà thờ." Song, bất chấp những ý kiến can ngăn về sự bất hợp lý cũng như đặt "Bà đầm xòe" lên đỉnh Tháp Rùa là phỉ báng tâm linh của người bản xứ, năm 1891, chính quyền vẫn cho đặt "Bà đầm xòe" ở vị trí này, mặt tượng hướng về vườn hoa Paul Bert. Sự ngang ngược này bị các nhà nghiên cứu ở Viện Bác cổ Viễn đông phản đối nên năm 1896, chính quyền thành phố chuyển tượng "Bà đầm xòe" ra vườn hoa Neyret. Tượng tồn tại ở vị trí này đến tháng 7-1945 thì bị ông Trần Văn Lai, thị trưởng Hà Nội trong chính phủ Trần Trọng Kim, ký lệnh giật đổ trong đó có tượng "Bà đầm xòe" vì coi đó là tàn tích của chế độ thực dân. Ngày 1-8-1945, chung số phận với nhiều tượng đài khác, "Bà đầm xòe" bị quần chúng kéo đổ. Làng đúc đồng Ngũ Xã nổi tiếng có ý định đúc một pho tượng phật Adidà và tòa sen có chín sáu cánh lớn nhất Việt Nam, họ ước tính cần một lượng đồng rất lớn. Và để có đủ số đồng, nhà chùa đã tiến hành quyên góp khắp nơi, vận động chính quyền để xin số đồng trong đó có tượng "Bà đầm xòe" đang nằm trong kho. Tượng Phật Adida khánh thành vào năm 1953, cao 3,95 mét nặng mười sáu tấn.
Thực dân Pháp thừa hiểu chiếm được An Nam không có nghĩa là đã chinh phục được người An Nam vì trong chiều dài lịch sử, đất nước này không cam chịu làm nô lệ đã từng "phá Tống, bình Nguyên, đuổi Minh, đạp Thanh" lại có một nền văn hóa lâu đời. Để cắt đứt mối liên hệ với quá khứ, họ đã phá chùa Báo Ân để xây nhà bưu điện, phá bỏ một phần đền Bà Kiệu để làm đường nhưng nặng nề nhất là phá thành Hà Nội để xây trại lính. Thành Hà Nội là kinh đô của Đại Việt suốt gần 800 năm, dù bị nhà Nguyễn phá dỡ, lấy cớ Hà Nội chỉ còn là hàng tỉnh xây lại nhỏ hơn nhưng thành vẫn là điểm tựa chính trị, tinh thần cho dân Hà Nội và Bắc Kỳ. Năm 1897, Paul Doumer làm Toàn quyền Đông Dương đã phải nói tiếc nuối: "Nếu tôi đến sớm hơn chắc sẽ không có chuyện đó xảy ra." Nhưng có lẽ đó chỉ là lời an ủi dân chúng thuộc địa, vì trong nhiệm kỳ (1897-1901) của ông ta, Paul Doumer có nhiều quyết định tiếp nối chủ trương trực trị của những người tiền nhiệm muốn xóa dần văn hóa An Nam. Paul Doumer xóa bỏ chức danh quan huyện ở Hà Nội, cho mở rộng phố mới mang kiến trúc châu Âu... Những năm đó rất ít người biết tiếng Pháp nên việc phổ biến văn hóa Pháp ở Hà Nội không có gì hiệu quả hơn bằng công việc dựng tượng, ngoài tính biểu tượng cao, tượng đài đập ngay vào mắt dân chúng. Để chuẩn bị cho triển lãm Thương mại Đông Dương vào năm 1902 với sự tham gia của nhiều nước trên thế giới, các công trình cho triển lãm này được xây dựng. Cả khu đất rộng mười hai héc-ta từ phố Trần Hưng Đạo đến phố Quang Trung cắt Nguyễn Du và kéo ra đường Lê Duẩn hiện nay dành cho triển lãm. Phía trước quảng trường (nay là ngã ba Trần Hưng Đạo – Quán Sứ) Paul Doumer cho dựng cụm điêu khắc gồm tượng chính là một phụ nữ tay cầm lá cờ Pháp, xung quang phía dưới có bốn bức tượng nhỏ. Tác giả của cụm tượng là nhà điêu khắc Theodora Riviere. Cụm tượng bị phá tan tành trong trận bom tháng 12-1944 của quân Đồng minh hòng tiêu diệt quân Nhật.
Năm 1927, Hội đồng Thành phố ra quyết định lấp hồ để xây dựng vườn hoa Robin (ông Trần Văn Lai đổi thành Chi Lăng và nay là vườn hoa Lê Nin) trước Cột cờ và cho dựng tượng đài ở đây. Đó là một phương đình có bia để kỷ niệm binh lính thuộc địa đã tử trận vì nước Pháp trong chiến tranh thế giới thứ nhất. Tượng đài là một lính Pháp cầm súng chĩa về hướng Cột cờ còn người kia tay cầm quả lựu đạn. Xung quanh hai lính Pháp là dân bản xứ tượng trưng cho các giới "sỹ, nông, công, thương" và gọi là tượng "sỹ, nông, công thương", nhưng vì anh nông dân người nhỏ thó còn con trâu thì to lớn với đôi sừng cồng kênh nên người dân gọi luôn là vườn hoa Canh Nông. Chi phí cho việc dựng tượng này rất lớn, theo báo L’Eveil e’conomicque de Indochine, chính quyền đã chi tới 900.000 đồng, số tiền này có thể xây được trường học lớn như trường Bưởi. Tượng mang tính hiếu chiến và bị người dân Hà Nội phá bỏ vào năm 1945.
Ở Hà Nội còn có tượng đài Nước Pháp (La France) bằng bê tông với một người đàn bà Pháp tiêu biểu cho nền cộng hòa. Tượng nằm ở vị trí Bộ Kế hoạch đầu tư hiện nay, nhưng bị chính người Pháp phá bỏ do không có giá trị mỹ thuật. Năm 1930, tượng bán thân bác sỹ Yesin do báo Tương lai Bắc Kỳ tặng Hội đồng thành phố được đặt bên hồ Gươm, góc Hàng Khay – Lê Thái Tổ, sau đó được chuyển về Viện Vệ sinh dịch tễ. Năm 1931, trước đề xuất của Hội Tam điểm, một tượng bán thân của nhà văn, nhà tư tưởng người Pháp là Renan (1823-1892) được dựng ở vườn hoa Paul Bert, mặt tượng quay mặt về phía ngân hàng. Renan là người tích cực chống mê tín, ngu dốt, độc đoán, đề cao khoa học và tư duy duy lý. Cũng năm này, vào tháng 5-1931, Pháp cho dựng tại phố Hàng Chiếu tấm phù điêu có hình Jean Dupuis, một tên lái súng và chuyên đổi thuốc phiện cho quân Cờ đen ở Hà Nội để lấy vũ khí. Tấm phù điêu có hình J.Dupuis dẫn đầu đoàn thuyền đổ bộ lên bờ. Đêm hôm khánh thành, đã có người bôi cứt tươi lên phù điêu, chính quyền phải cho công ty vệ sinh phun nước rửa.
Phía sau đình Nam Hương (75 phố Hàng Trống ngày nay) là tượng vua Lê được đúc bằng đồng trong tư thế đứng, tay phải cầm kiếm hơi chúc xuống, tay trái chống vào hông, đầu đội mũ bình thiên, bốn góc có treo kim tòng, mặc áo long bào, đeo đai lưng. Tượng cao khoảng 1,20 mét, đặt trên trụ đá tròn, có ba cấp bệ bằng đá, phía dưới cũng được lượn tròn theo thân trụ với đường kính to nhỏ khác nhau. Trong lịch sử "phá Tống, bình Nguyên, đuổi Minh, đạp Thanh" của người Việt thì vua Lê được biết đến cùng với các hào kiệt như: Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Sát, Lê Văn An... đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm lược trong 10 năm (1418-1427) và đã giành được thắng lợi. Đầu năm 1428, Lê Lợi lên ngôi ở Thăng Long. Lê Lợi còn gắn với truyền thuyết trả gươm báu cho thần Kim Quy ở hồ Lục Thủy, vì thế Lục Thủy sau được đổi thành hồ Hoàn Kiếm (Trả Gươm). Tượng do Kinh lược sứ Hoàng Cao Khải dựng năm 1894. Là quan của triều Nguyễn và theo Pháp, song không hiểu vì lý do gì Hoàng Cao Khải lại cho dựng tượng này. Có người cho rằng, ông ta dựng tượng vua Lê bên này hồ để đối trọng với tượng Paul Bert bên kia hồ. Hà Nội còn có tượng vua Quang Trung, tuy nhiên cho đến nay, chưa có giả thuyết nào đủ sức nặng chứng minh đó là tượng Quang Trung. Tượng này được tạc vào năm 1846, không đặt ở nơi công cộng mà đặt ở chùa Bộc, có thể do Nguyễn Kiên, viên tướng cai quản đội tượng binh của đạo quân Tây Sơn tạc khi ông là sư ở ngôi chùa này?
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ngành văn hóa đã cho dựng tượng thanh niên anh hùng là Lý Tự Trọng (góc đường Thanh Niên – Quán Thánh), Nguyễn Văn Trỗi ở công viên Thống Nhất và một số tượng khác, hầu hết các tượng có kích thước nhỏ và bằng đá hoặc bê tông. Các tượng này ít giá trị thẩm mỹ, không toát lên khí phách của những người anh hùng; sinh thời, nhà phê bình mỹ thuật Thái Bá Vân nói rằng, lẽ ra các bức tượng này nên đặt ở trên bàn thờ, còn đặt ở nơi công cộng phải cho người xem một cảm xúc. Năm 1982, để ghi nhớ học thuyết của Lênin đã mở ra đường đi cho cách mạng Việt Nam, Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã quyết định dựng tượng Lênin tại vườn hoa Chi Lăng. Tượng bằng đồng, cao 5,2 mét, với hình tượng Lênin trong tư thế đang đi, do chính phủ Liên Xô tặng, được đặt trên bệ đá hoa cương cao 2,7 mét, công trình khánh thành vào ngày 20-8-1985. Khi Liên Xô tan rã, nhiều tượng Lênin ở các nước thuộc Liên Xô cũ bị giật đổ, nhưng tượng Lênin ở Hà Nội vẫn được trân trọng nguyên vẹn. Cũng trong năm này, để ghi công và tưởng niệm các chiến sỹ và những người con Hà Nội đã chiến đấu và hy sinh trong 60 ngày đêm (từ ngày 19-12-1946 đến đầu năm 1947) để bảo vệ Thủ Đô, Hà Nội đã cho dựng cụm tượng Cảm tử để Tổ quốc quyết sinh cạnh đền Bà Kiệu, đúng vị trí trước kia là bia tưởng niệm Alexandre de Rhodes, một trong những người có công lớn mang lại chữ viết hiện nay cho người Việt. Tác giả của tượng đài này là hoạ sĩ Phạm Kim Giao. Tuy nhiên tượng làm theo tư duy tranh cổ động: Trời xanh mấy trắng lúa vàng – Công nông binh sĩ xếp hàng tiến lên. Là cụm tượng nhưng kết cấu rời rạc, các hình tượng không ăn nhập với nhau. Nhà điêu khắc Trần Tuy kể rằng, phác thảo ban đầu còn xấu hơn, tượng đài hiện nay là đã được góp ý để tác giả sửa chữa.
Chuẩn bị cho kỷ niệm Thăng Long – Hà Nội tròn 1000 tuổi vào năm 2010, ngày 15-11-2001, Hội đồng nhân dân TP Hà Nội ra nghị quyết xây dựng tượng đài vua Lý Thái Tổ, vị vua sáng lập Thăng Long. Thực hiện nghị quyết, bẩy tháng sau, ngày 6-6-2002, UBND Thành phố đã lập dự án. Tháng 2-2003, Thành phố tổ chức một số cuộc hội thảo với hai nội dung chính là nên thể hiện hình tượng Lý Thái Tổ như thế nào và địa điểm đặt tượng. Về địa điểm, một số ý kiến thiên về hướng tôn trọng lịch sử cho rằng nên đặt ở Hoàng Thành với lý do Hoàng Thành là nơi Lý Thái Tổ dựng nghiệp và sống ở đó trong nhiều năm. Ý kiến này hoàn toàn có lý dù Hoàng Thành giờ không còn song ở đây lại có quá nhiều công trình của Bộ Quốc phòng nên tìm một không gian rộng rãi, cảnh đẹp là không dễ. Một số ý kiến khác lại thiên về tính hiệu quả xã hội đã đề nghị đặt ở vườn hoa Indira Gandhi (trước đó vườn hoa này có tên là Chí Linh). Đây là vị trí trung tâm, cảnh đẹp, đông người qua lại, nằm trên trục Đông – Tây (từ Ngân hàng Nhà nước đến Tháp Rùa); vị trí này cũng là nơi thường xuyên tổ chức các kỳ cuộc lớn của Hà Nội nên sẽ đạt được hiệu quả xã hội cao. Cuối cùng, chính quyền, các nhà sử học, kiến trúc, hoạ sĩ... nhất trí chọn vườn hoa Indira Gandhi.
Về hình tượng vua Lý, đã có một cuộc tọa đàm lớn với sự góp mặt đông đủ các nhà sử học, văn hóa, kiến trúc, điêu khắc, hoạ sĩ,... tham gia để thảo luận hình tượng vua Lý sẽ được thể hiện thế nào nhằm gợi mở cho các nhà sáng tác. Đầu tháng 3-2003, Hà Nội công bố cuộc thi sáng tác mẫu tượng Lý Công Uẩn. Các nhà điêu khắc trong cả nước đã hưởng ứng nhiệt tình, bởi đây không chỉ là trách nhiệm với lịch sử dân tộc mà sáng tác mẫu tượng về một con người, một vị vua mà họ có rất ít tư liệu là thách đố thú vị, gây cảm hứng. Sau gần ba tháng, Ban tổ chức đã nhận được 28 mẫu tượng cùng sa bàn, bản vẽ phối cảnh. Hội đồng nghệ thuật đã tiến hành nhiều cuộc thảo luận, nhiều vòng bỏ phiếu kín để chọn ra ba mẫu hội đủ các tiêu chí đề ra, đó là mẫu phác thảo của ba nhà điêu khắc Lê Đình Bảo, Vi Thị Hoa và Lê Đình Quý. Cả ba mẫu này tuy còn khiếm khuyết nhưng đều công phu, kỹ lưỡng gần như một tác phẩm hoàn chỉnh, Hội đồng nghệ thuật trình các cấp lãnh đạo xem xét và quyết định lựa chọn. Sau khi nghe ý kiến của các nhà văn hóa, họa sĩ, sử học,... cộng với cảm nhận chủ quan, lãnh đạo thành phố quyết định chọn mẫu của nhà điêu khắc Vi Thị Hoa. Sau đó hội đồng nghệ thuật yêu cầu nhà điêu khắc chỉnh sửa các khiếm khuyết. Được sự đóng góp của các họa sĩ Đinh Trọng Khang, Trần Khánh Chương, các nhà điêu khắc Dương Đăng Cẩn, Tạ Quang Bạo, Lưu Danh Thanh, Nguyễn Phú Cường,... cùng nỗ lực của bản thân, một tượng đất tỷ lệ 1/1 cao 1010 cm (tương ứng với năm định đô) được nhà điêu khắc Vi Thị Hoa hoàn thành trong thời gian ngắn. Chính quyền thành phố và hội đồng nghệ thuật chấp nhận phác thảo đã bổ khuyết và đồng ý sử dụng làm mẫu đúc tượng đồng. Công việc đúc tượng đồng được giao cho ông Nguyễn Trọng Hạnh ở Ý Yên – Nam Định, vì trước đó ông Hạnh đã đúc tượng đài Chiến thắng Điện Biên Phủ (nặng 220 tấn cao trên 12 mét, khánh thành 30-4-2004). Tượng Lý Thái Tổ được đúc trong năm lăm ngày, do tượng quá lớn nên phải đúc thành hai khối. Khối thân nặng 12 tấn, và phần đế nặng 20 tấn. Sau khi đúc xong, chất lượng đồng được Viện Công nghệ Kim loại kiểm nghiệm, đạt 87% đồng, nằm trong tỷ lệ cho phép. Ngày 17-8-2004, UBND TP Hà Nội làm lễ khởi công công trình trên căn hầm hình chữ chi, nửa chìm nửa nổi, do quân đội Nhật xây bằng gạch vào khoảng đầu năm 1945 để phòng tránh bom của quân đồng minh.
Có tượng, có vị trí nhưng cần phải cải tạo mặt bằng và không gian xung quanh, đảm nhiệm phần công việc này là Viện Nghiên cứu Kiến trúc (Bộ Xây dựng). Trên cơ sở một vườn hoa vốn không rộng nhưng đơn vị này đã khéo léo tạo ra mặt bằng và không gian hợp lí. Sau khi phần dựng tượng hoàn thành, Vi Thị Hoa đã giới thiệu nhà điêu khắc Trần Tuy vẽ mẫu rồng ở các bậc lên xuống. Ngày 8-10-2004, Thành phố làm lễ khánh thành công trình. Cũng vào dịp kỷ niệm ngày thành lập QĐND Việt Nam năm này, cụm tượng Cảm tử để Tổ quốc quyết sinh bằng đá khối cao 9,7 mét nặng 300 tấn do nhà điêu khắc Vũ Đại Bình và họa sỹ Mai Văn Kế vẽ phác thảo đã khánh thành tại vườn hoa Vạn Xuân (vườn hoa Hàng Đậu trước đây). Và cần nói về một tượng đài có ý nghĩa, có giá trị nghệ thuật là tượng Bác Hồ và Bác Tôn của nhóm tác giả Lâm Quang Nới được khánh thành ngày 3-10-2010 tại công viên Thống Nhất. Đây là món quà đặc biệt của Đảng bộ và người dân TP Hồ Chí Minh tặng Hà Nội nhân dịp Đại lễ 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội. Tượng đài thể hiện tư thế Bác Hồ bắt tay chúc mừng Bác Tôn sau khi Bác Tôn được Quốc hội khoá II (năm 1960) bầu vào chức vụ Phó Chủ tịch nước Việt Nam DCCH. Công trình thể hiện sự tôn vinh, trân trọng, tình cảm kính yêu của nhân dân đối với Bác Hồ và Bác Tôn, đồng thời cũng là biểu hiện của tình đoàn kết Nam – Bắc một nhà. Tượng Bác Hồ và Bác Tôn mang một ý nghĩa lớn khi được đặt tại công viên Thống Nhất – biểu tượng của niềm khao khát non sông liền một dải từ những năm kháng chiến chống Mỹ. Tượng cao 5,4 mét đặt trên bệ cao 1,8 mét, nặng khoảng 20 tấn, được đúc bằng đồng hợp kim của Ucraina.
Hà Nội còn có tượng đài Quang Trung cạnh gò Đống Đa. Tượng tuy bề thế nhưng theo một số người trong giới chuyên môn thì "giống như ông tướng canh gò". Thậ#t ra, bản thân bức tượng không quá xấu, nhưng vì tượng rất thấp mà gò đặt tượng lại quá cao, nên đã tạo ra cảm giác tù túng. Tượng đài Công nhân ở Cung Văn hóa hữu Nghị Việt – Xô cũng được cho là chưa phát huy hết giá trị khi bị đặt trong một không gian rất khuất.
Tượng đài là văn hóa vật thể, có tính giáo dục cao (không phải vô cớ mà Thực dân Pháp cho dựng rất nhiều) nhưng Hà Nội hiện quá ít tượng, đã thế còn đơn điệu và giá trị thẩm mỹ không cao nên chưa góp phần tôn vinh văn hóa Thăng Long – Hà Nội.