Ngày 11-9-1923, người Pháp thành lập hãng Phim và Chiếu bóng Đông Dương (Indochine Films et Cinéma – IFEC). Ra đời được hơn một tháng, IFEC đã sản xuất bộ phim đầu tiên là Kim Vân Kiều. Kim Vân Kiều do dàn đào kép của ban tuồng Quảng Lạc thực hiện, Bảy Tắc đóng vai Hoạn Thư, Tư Lê đóng vai ông Phủ. Sân chùa Láng là bối cảnh dinh Từ Hải, cổng làng Thọ làm cửa vào nhà Tú Bà, bãi tha ma làng Yên Thái là chỗ Kiều viếng mộ Đạm Tiên... Đây là bộ phim câm, độ dài 1.500 mét, quay xong được đưa về Pháp làm hậu kỳ và ra mắt lần đầu tại rạp Palace (nay là rạp Công Nhân ở phố Tràng Tiền). Một số tờ báo thời đó như Hữu Thanh, Trung Văn tuy khen ngợi "phim lấy chuyện của An Nam, con hát An Nam đóng và khung cảnh tự nhiên" nhưng do Kim Vân Kiều không có gì khác so với vở diễn sân khấu, nên cũng không thu hút khán giả dù, phim là hình thức nghệ thuật rất mới mẻ ở Hà Nội khi đó. Từ ngày 15 đến 21-10-1924, IFEC cho chiếu chương trình toàn phim An Nam gồm: Hội Kiếp Bạc, Kim Vân Kiều và Phong cảnh tại Kinh đô Huế.
Kim Vân Kiều thất bại, nhưng IFEC không bỏ cuộc, họ thực hiện bộ phim hài ngắn (độ dài 600 mét) có tên là Toufou vào năm 1925. Vai chính Toufou do một diễn viên người Việt lai Trung Quốc tên Léon Chang đóng. Phim nhại theo cách diễn xuất của vua hề Charlie Chaplin đã bị báo chí lẫn khán giả chỉ trích. Không nản lòng, năm 1927, IFEC cố gắng làm một bộ phim dài 1.000 mét cũng lấy đề tài An Nam, đó là Huyền thoại bà Đế. Phim do Paul Numier viết kịch bản dựa theo một câu chuyện dân gian nói về một cô gái bị cha mẹ, họ hàng nghi ngờ là hư hỏng nên buộc phải chết, sau đó được giải oan và dân làng lập miếu thời gọi là Bà Đế. Vai chính là một cô gái Pháp lai Việt, còn các diễn viên phụ hầu hết là người Việt. Tuy nhiên bộ phim vẫn bị thua lỗ về doanh thu dù nó được công chiếu tại Pháp. Sau thất bại này, IFEC không nghĩ đến chuyện làm phim nữa.
Cùng với IFEC, có một người Hà Nội cũng đã bỏ tiền ra làm phim, đó là Nguyễn Lan Hương (còn gọi là Hương Ký). Ông này là lính thợ tham gia chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Giải ngũ, ông ở lại Pháp học được nghề ảnh, về nước mở hiệu ảnh ở 86 phố Hàng Trống. Năm 1924, chủ tiệm ảnh Hương Ký đã mời một người Pháp hiểu biết về điện ảnh dạy cho cách làm phim rồi tự thực hiện bộ phim hài Đồng tiền kẽm tậu được ngựa. Phim dài sáu phút, phỏng theo truyện Cô gái và bình sữa (La laitière et le pot au lait) trong truyện ngụ ngôn của La Fontaine. Phim thứ hai của Hương Ký cũng là phim hài với tựa Cả Lố, đang quay thì phải dừng lại vì bất đồng giữa Hương Ký và diễn viên đóng phim. Sau đó, Hương Ký còn quay phim tài liệu Ninh Lăng dài 2.000 mét về đám tang vua Khải Định. Tiếp đó là Tấn tôn đức Bảo Đại dài 800 m, về lễ đăng quang của Bảo Đại với chi phí là 30.000 đồng (tiền Đông Dương), phim đã chiếu tại rạp Palace được 27 ngày nhưng chỉ thu được 5000 đồng, khiến Hương Ký lỗ nặng. Tiếng tăm của người An Nam làm được phim lan sang các tỉnh phía nam Trung Quốc, và Hương Ký được tỉnh trưởng Vân Nam đặt hàng làm hai phim tài liệu quay tại Trung Quốc. Một trong hai phim là Đám tang tướng Đường Kế Nghiêu làm năm 1929. Nhưng sau đó không thấy Hương Ký làm nữa mà trở về với nghề nhiếp ảnh. Có người cho rằng IFEC đã tác động đến tỉnh trưởng Quảng Tây để dừng dự án vì họ không muốn một hãng phim Việt Nam thành công trong khi họ liên tục thất bại. Sau đó nhiều năm, người ta không thấy người Việt Nam nào bỏ tiền sản xuất phim.
Cuối những năm 30 của thế kỷ trước, người Hà Nội bắt đầu ít mặn mà với tuồng, chèo, cải lương, dù các ông bầu đã làm nhiều chiêu trò nhưng các rạp hát vắng khách. Họ thích kịch nói và phim hơn, nhưng phim lại hầu hết là của nước ngoài. Nhiều thanh niên muốn dùng kỹ nghệ của Pháp để làm phim Việt Nam như ông Hương Ký từng làm. Và năm 1937, chàng sinh viên y khoa Đàm Quang Thiện đứng ra thành lập nhóm gồm những người khát khao "Phim Việt Nam do tài tử Việt Nam đóng, nói tiếng Việt Nam". Tham gia nhóm có nhiều trí thức trẻ là sinh viên của Cao đẳng Thương mại, Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Ngày 20-11-1937, nhóm ký hợp đồng với Pei Song King, một Hoa kiều làm chủ rạp chiếu bóng ở phố Hàng Bạc làm đại diện cho hãng Nàm Duỵt (The South China motion picture Co) để quay bộ phim Cánh đồng ma theo kịch bản của Nguyễn Văn Nam (tức Đàm Quang Thiện). Theo hợp đồng, phim được quay ở Hồng Công và sau khi bán hay đem chiếu, trừ chi phí, Đàm Quang Thiện hưởng 15%, còn lại là của Pei Song King. Bị ức hiếp, đè nén nơi đất khách qưê người, nhiều người trong đoàn làm phim đã bỏ về nước. Phim quay xong đúng ngày mùng hai Tết Mậu Dần (1938) thì nhóm của Đàm Quang Thiện bị đuổi ra khỏi nhà. Trong số những người tham gia đóng phim có nhà văn Nguyễn Tuân. Trong bài báo Một chuyến đi đăng trên bán nguyệt san Tiểu thuyết thứ Bẩy, Nguyễn Tuân đã kể lại chuyến đi đóng phim sóng gió này: "Khi vừa trong nhà vệ sinh ra lập tức có người dâng hai tay khăn lau tay, lại phải cho tiền, vừa rút điếu thuốc lá ra đưa lên miệng định đánh diêm, lập tức có người bật diêm dí vào điếu thuốc, lại phải tiền. Không cho thì mang tiếng người An Nam keo kiệt, cho thì không có tiền ăn sáng." Thất bại nhiều nhưng lạ thay, một số người Hà Nội vẫn khát khao làm phim thuần Việt và chưa bỏ giấc mộng. Đầu năm 1939, Giám đốc hãng Pathé Nathan của Pháp là Thomasset gặp Nguyễn Tuân và Nguyễn Doãn Vượng, Thomasset mời hai ông cùng một số người khác đóng hai bộ phim là Người chèo thuyền trên vịnh Hạ Long và Đồn biên phòng. Đang trong thời gian chuẩn bị thì tháng 9-1939, ông này bị động viên vào quân đội Pháp để tham gia chiến tranh thế giới thứ II nên dự án không thực hiện được. Năm 1945, một đạo diễn khác cũng là người Pháp tên là Bévy, ông ta có tham vọng lấy truyện cổ tích Việt Nam để làm phim và lại mời Nguyễn Tuân, Nguyễn Doãn Vượng cùng tham gia nhưng năm đó Nhật đảo chính Pháp nên bộ phim không tiến hành được. Có lẽ Nguyễn Tuân không có duyên với điện ảnh, dù mãi sau này ông có được đạo diễn Phạm Văn Khoa mời đóng vai chánh tổng trong phim Làng Vũ Đại ngày ấy.
Cách mạng Tháng Tám thành công và một buổi lễ long trọng để công bố với thế giới về một nước Việt Nam độc lập đã được tổ chức tại Quảng trường Ba Đình – Hà Nội vào ngày 2-9-1945. Công việc chụp ảnh và quay phim được nhà nhiếp ảnh trẻ Võ Văn Lai sốt sắng đảm nhiệm. Nhiếp ảnh thì không phải lo vì có quá nhiều người tự nguyện nhưng quay phim thì chỉ có Hương Ký và hãng Đông Dương phim. Nhưng Đông Dương phim chỉ có trên danh nghĩa, thực tế đã không còn hoạt động, nên Võ Văn Lai đã mời Hương Ký và ông này đã nhận lời. Tuy nhiên, một tuần sau ngày 2-9, Hương Ký thông báo không quay được vì máy quay bị hỏng. Rồi câu chuyện cũng bị chìm đi vì nước Việt Nam non trẻ có quá nhiều việc phải làm. Hai mươi chín năm sau, năm 1974, khi đạo diễn Phạm Kỳ Nam đang làm bộ phim tài liệu Những ngày Bác Hồ ở Tây Âu tại Pháp thì một hôm có người gọi điện thoại đến khách sạn nơi ông ở, hẹn gặp để trao lại một món quà chắc sẽ rất có ích cho việc làm phim của ông. Và món quà là những hộp phim 16 ly đã cũ, được đóng gói cẩn thận và người trao món quà cho biết ông chỉ là người chuyển giúp một người "bạn của Việt Nam". Khi chiếu phim, đạo diễn Phạm Kỳ Nam lặng người xúc động vì đó chính là những thước phim ghi lại Lễ Độc lập tại Quảng trường Ba Đình ngày 2-9-1945. Nhưng ai đã quay những thước phim này? Trong bài viết Những điều còn bí ẩn quanh việc quay bộ phim ngày độc lập 2-9-1945 của ông Nguyễn Hữu Đang (ông Nguyễn Hữu Đang là Trưởng ban tổ chức lễ tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945), thì ông Đang không tin những thước phim đó do Hương Ký quay vì ông biết sau Lễ Độc lập ít ngày, quân Tàu Tưởng đưa Vũ Hồng Khanh về nước với âm mưu cướp chính quyền thì Hương Ký đã theo Quốc dân đảng chống lại Việt Minh. Nhưng ông Nguyễn Hữu Đang cũng chỉ đặt vấn đề mà không khẳng định những thước phim ấy là chính nhân viên trong phái bộ Mỹ do Patty cầm đầu dưới danh nghĩa đại diện quân đồng minh đã quay. Ông lí giải, với danh nghĩa là đại diện quân đồng minh, họ được quyền đi lại thoải mái trên quảng trường để quay phim, chụp ảnh mà không bị ai cản trở. Và cho đến hôm nay, ai đã quay những thước phim đó vẫn chưa có câu trả lời? Pháp tái chiếm Hà Nội đầu năm 1947, việc sản xuất phim bị ngưng trệ vì dân thành phố đi tản cư, có làm phim cũng chẳng có ai xem. Nhưng đến đầu những năm 1950 các rạp chiếu bóng ở Hà Nội sôi động trở lại và trong tình thế phim Mỹ hoành hành nhưng các ông Trần Đình Long, Kim Chung cùng một số người khác vẫn bỏ tiền làm phim. Trong số các phim sản xuất phải kể đến Kiếp hoa, Bến cũ, đặc biệt là phim Nghệ thuật và hạnh phúc với sự tham gia của các đào kép nổi tiếng là Ái Liên, Ngọc Dư, Anh Đệ...
Phim là vậy còn rạp thì sao? Thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XX, Hà Nội vẫn chưa có rạp chiếu bóng. Tuy nhiên sau chiến tranh thế giới thứ nhất, tại khách sạn Métropole người ta đã chiếu phim phục vụ khách nghỉ ngơi ở đây tại quầy Grand café. Bộ phim được chiếu là phim câm Thần cọp và có thể khẳng định Grand café là "rạp" đầu tiên ở Hà Nội. Rạp chiếu bóng (thời đó người ta gọi rạp chiếu phim là rạp "chớp bóng") theo đúng nghĩa đầu tiên ra đời ở Hà Nội là rạp Pathé ở cạnh đền Bà Kiệu. Để có đất xây rạp, chủ rạp Aste người Pháp đã móc nối với hội đồng thành phố phá một phần đền Bà Kiệu lấy mặt bằng xây rạp. Rạp lợp tôn, kê ghế gỗ, khánh thành ngày 10-8-1920, bên ngoài treo biển bằng tiếng Pháp "các lô để dành người Âu" nghĩa là chỗ dành cho người Âu thì người Việt không được ngồi cho dù rạp vắng khách. Pathé bị phá năm 1941 để dựng tấm bia tưởng niệm Alexandre de Rhodes. Tiếp đó tới rạp Tonkinois ở phố Hàng Quạt, trước khi trở thành rạp chiếu phim, Tonkinois là nhà hát Năm Chăn chuyên diễn tuồng, chủ Tonkinois là anh chàng Tây lai lấy vợ Việt Nam. Gọi là nhà hát nhưng thực ra chỉ là mấy ngôi nhà tư rộng năm gian khi diễn tuồng thì dẹp đồ đạc, thu gom quần áo, khán giả quây xung quanh chiếc đèn treo ba dây. Rạp chiếu phim đầu tiên vào ngày 12-6-1921 và sau đó chuyên chiếu phim trinh thám, phiêu lưu nhiều tập, phim về chiến tranh. Năm 1930, Tonkinois đã cho chiếu phim có lồng tiếng Việt để khán giả có thể hiểu được nội dung. Sau khi IFEC thành lập, hãng này cũng bỏ tiền xây rạp. Rạp đầu tiên của họ khánh thành vào năm 1924 là Palace sau đó là Family (ở phố Hàng Buồm). Năm 1930, một công ty chiếu bóng nữa do người Pháp làm chủ đã ra đời ở Hà Nội để cạnh tranh với IFEC, đó là Societé des cinéthéâtre d’Indochine. Thấy chiếu bóng là ngành kinh doanh béo bở, một số Hoa kiều cũng bỏ vốn xây dựng, nhưng họ chỉ xây rạp nhỏ, thuê phim của người Pháp và một số ít phim Hồng Công, Trung Quốc để chiếu. Tính đến năm 1927, toàn cõi Việt Nam có ba ba rạp chiếu bóng, trong đó Hà Nội có bốn rạp, Hải Phòng hai rạp, Huế hai rạp, Chợ Lớn bốn rạp, Sài Gòn bốn rạp, Cần Thơ hai rạp... Năm năm sau, năm 1932, số rạp tăng lên nhanh chóng. Riêng Bắc Kỳ có hai bảy rạp, Trung Kỳ mười một rạp và Nam Kỳ mười ba rạp. Một số người Việt Nam bắt đầu quan tâm đến lĩnh vực kinh doanh mới này và ở Hà Nội, nhà tư sản Vạn Xuân là người đầu tiên bỏ tiền xây rạp Olimpia (nay là Nhà hát Hồng Hà trên phố Hàng Da) vào năm 1936. Đến năm 1939, số lượng rạp chiếu phim tại Việt Nam lên tới con số sáu mươi.
Trước năm 1930, mỗi rạp chỉ đặt một máy chiếu, khi hết cuốn, thợ chiếu thay cuộn mới để chiếu tiếp. Màn ảnh được làm bằng vải trắng xung quanh viền vải xanh thẫm hoặc đen. Sàn phòng chiếu bằng phẳng và màn ảnh được đặt trên cao nên xem xong phim thì ai cũng bị mỏi cổ. Khán giả ngồi trên những ghế tựa hoặc ghế băng có tựa lưng bằng gỗ nhưng có vài rạp không có ghế ngồi mà ngồi dưới sàn như Family. Rạp này có hai hạng, xem mặt chính thì phải trả hai xu, xem mặt trái thì chỉ mất nửa tiền. Rạp Hội Âm nhạc (nay là Nhà hát múa rối nước Kim Đồng ở phố Đinh Tiên Hoàng) thì hai phần ba phía trên là ghế tựa còn lại phía dưới là ghế băng và giá vé rất rẻ nên thu hút rất đông học sinh con nhà nghèo vào xem. Cuối những năm 1930, một số rạp mới có ban công và sàn được làm dốc, các hàng ghế được bố trí lệch nhau. Một số rạp lắp quạt trần để giảm nóng bức trong mùa hè và phân chia thành bình dân, sang trọng.
Những bộ phim đầu tiên được trình chiếu ở Hà Nội đều là phim câm, cho đến khoảng giữa thập niên 1930, khán giả mới được xem phim nói với bộ phim đầu tiên là Phía Tây không có gì lạ. Nhưng khi đó, ngôn ngữ trong phim là tiếng Pháp nên chỉ những người biết tiếng mới hiểu được và để khắc phục tình trạng vắng khán giả, các rạp cho dịch ra tiếng Việt, thuê người thuyết minh. Cũng trong thời gian này, chủ rạp nhận thấy Tết Nguyên Đán là cơ hội vàng cho doanh thu nên họ nhập những phim hẫp dẫn rồi cho quảng cáo trên băng rôn căng trên phố, dán áp phích ở cửa rạp, quảng cáo trên các báo. Bên trong rạp, họ còn treo câu đối chúc Tết, có hoa đào, nhân viên tươi cười niềm nở. Đặc biệt, rạp Majestic (nay là rạp Tháng Tám trên phố Hàng Bài) khi chiếu phim Tarzan, họ còn đưa cả cây đã cắt ngọn vào góc rạp để tạo cảm giác giống như cánh rừng nhiệt đới. Đi đầu trong chiếu phim Tết là hãng Cinéma Théâtre và để không bị lép vế IFEC cũng phải chạy theo. Trong thời gian chiến tranh thế giới lần thứ hai, giao thông đường biển từ Pháp tới Việt Nam bị Đức và Nhật phong tỏa đã ảnh hưởng đến việc vận chuyển phim. Năm 1945, Nhật đảo chính Pháp nắm quyền cai trị Đông Dương, bi quan trước tình hình kinh doanh, nhiều chủ rạp người Pháp đã bán lại rạp cho người Hoa. Để bù vào nguồn phim thiếu hụt từ Pháp, các chủ người Hoa đã nhập phim từ Hồng Công.
Sau khi tiếp quản Thủ đô năm 1954, chính quyền mới vẫn giữ nguyên các rạp và chỉ đến khi có chủ trương cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh thì các rạp buộc phải thực hiện công tư hợp doanh vào năm 1959, rồi sau thành rạp nhà nước. Nguồn phim Mỹ, Pháp không còn, và nên miền Bắc nhập phim của Liên Xô, Đức, Ba Lan... Thời kỳ này khu vực nội thành Hà Nội gồm bốn khu Đống Đa, Hai Bà Trưng, Ba Đình và Hoàn Kiếm, các khu này có thêm rạp chiếu do cải tạo lại các rạp hát. Nhiều nhất là khu Hoàn Kiếm với Tháng Tám, Kim Đồng (phố Hàng Bài), Bắc Đô (phố Hàng Giấy), Hòa Bình (trước là rạp Hội Âm nhạc phố Đinh Tiên Hoàng)... Khu Ba Đình có Đặng Dung. Khu Hai Bà Trưng có Mê Linh (phố Lò Đúc), Bạch Mai (phố Bạch Mai), Đống Đa có Dân Chủ (phố Khâm Thiên), Đống Đa (phố Thái Thịnh). Tuy nhiên, Đống Đa không phải là rạp cũ, nó được xây dựng vào năm 1976. Các huyện ngoại thành có bãi chiếu bóng ngoài trời, Từ Liêm có bãi Cầu Giấy, Thanh Trì có bãi Mai Động, Gia Lâm có bãi Gia Lâm, riêng khu Đống Đa lại có bãi Khương Thượng. Mấy chục năm, các rạp chiếu phim ở Hà Nội chủ yếu dựa trên cơ sở vật chất sẵn có, ít được chú ý sửa chữa, nâng cấp. Không chỉ chất lượng âm thanh chưa bảo đảm, mà các công trình vệ sinh cũng kém, thậm chí có rạp giữa buổi chiếu quạt trần rơi xuống trúng đầu khán giả đang ngồi xem. Phim chiếu rạp hầu hết là phim Trung Quốc và chủ yếu là phim đề tài cách mạng như Gia đình cách mạng, Cờ Hồng trên núi Thúy (Trung Quốc), phim Triều Tiên có Hoa diếp dại. Khoảng đầu những năm 60 của thế kỷ trước, khi Khrutshev ở Liên Xô bị các nước trong phe XHCN cáo buộc theo "chủ nghĩa xét lại", nhiều sinh viên Việt Nam đang học tập ở Liên Xô phải về nước. Trong giai đoạn này, Việt Nam cũng không nhập phim do Liên Xô nữa. Và ở Hà Nội có một nhà phê bình phim bị vạ lây là ông Cao Nhị. Trước đó Cao Nhị chuyên giới thiệu phim nước ngoài nhập vào Việt Nam trong đó có phim Liên Xô trên tạp chí Màn ảnh. Khi cấm phim Liên Xô, ông bị quy kết là theo "chủ nghĩa xét lại", người ta không cho ông tiếp tục viết giới thiệu và phê bình. Tuy nhiên ông vẫn viết và ký tên khác.
Nhà phê bình văn học Nguyễn Hòa kể rằng, thập niên 70 của thế kỷ trước, một số rạp ở Hà Nội chiếu phim Tối mật do CHDC Đức sản xuất. Người Hà Nội nô nức rủ nhau đi xem, xuất chiếu nào của các rạp cũng đông khán giả. Người ta đến xem do tò mò, vì nghe đồn trong phim có cảnh cởi truồng. Thế nên có thanh niên xem xong liền chui vào nhà vệ sinh, chờ xuất chiếu tiếp theo thì mò ra xem lần nữa. Thực ra chẳng phải là cởi truồng gì cả, mà phim có cảnh một người ghé mắt qua lỗ khóa thấy cái mông của nhân vật nữ đang tắm! Đây là thời kỳ khán giả Hà Nội say mê các bộ phim Những đứa con của gấu mẹ vĩ đại, Con rắn to... của CHDC Đức, Những người báo thù không giờ bị bắt, Taras Bulba, Rutxlan và Lútmila, Vua Sangtan,... của Liên Xô , Những ngôi sao Eghe của Hungari, Thanh kiếm và lá chắn, Đại tá Vôlôđiepxki của Ba Lan. Sự hâm mộ của khán giả đã tạo ra cơ hội của một số người trục lợi, đưa tới hiện tượng "phe vé". Khi các rạp Tháng Tám, Kinh Đô, Thăng Long, Đống Đa, Dân Chủ... mở cửa bán vé, "con phe" kéo đến, chen chúc lèn chặt trước các ghi-sê. Người xem bình thường, phải có sức khỏe hơn người may ra mới đủ sức chen lấn mua một hai chiếc vé. Còn năm 1985, bộ phim Tình yêu và những giọt nước mắt của Ấn Độ đã gây nên cơn sốt chưa từng có. Cũng từ phim này, lần đầu tiên xuất hiện vé giả ở rạp Tháng Tám, ghế hạng A chỉ có 35 chỗ nhưng có tới 180 vé hạng này. Nhân viên soát vé không phân biệt được vé giả với vé thật, nên nhiều người có vé thật lại phải đứng xem. Nội dung phim kể về một chàng trai con nhà giàu yêu một cô gái xinh đẹp nhà nghèo. Tình yêu của họ gặp muôn vàn trắc trở do định kiến xã hội, cuối cùng họ không đến được với nhau. Để tăng số buổi chiếu ở các rạp, người ta tổ chức chiếu theo lối cuốn chiếu: rạp này vừa chiếu xong cuốn thứ nhất đã có người của rạp khác chờ sẵn, nhận xong cuốn phim liền cắm đầu cắm cổ phóng về rạp của mình để chiếu. Các cuốn tiếp theo cũng vậy, cứ thế quay vòng, và có những xuất chiếu khi kết thúc cũng vừa đến giờ làm việc buổi sáng. Sở dĩ phim thu hút khán giả vì trước đó họ chỉ được xem phim hồng quân Liên Xô chiến đấu chống bạch vệ hay các nhân vật có tên là Tanhia, Lutmina hay Elena hăng say sản xuất ở nông trang để đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Trong những năm 1974, 1975 xuất hiện tình trạng mấy anh lêu lổng tự nhận là "lính quân khu" chuyên trấn lột vé tại rạp Mê Linh. Họ ngang nhiên trấn lột vé của các đôi tình nhân rồi ngang nhiên bán lại cho các đôi khác chưa có vé. Trước khi Mỹ ném bom miền Bắc, các rạp Hà Nội ngày chiếu hai buổi, Chủ nhật chiếu ba buổi với hiệu suất ghế trung bình là 80%.
Cùng với xem phim ở rạp thì sau 1954 Hà Nội vẫn còn xem phim thùng ở quảng trường Đông Kinh nghĩa thục và bến tàu điện Đinh Tiên Hoàng (nay là bến xe buýt). Thùng xem bằng tôn cao chừng tám chục phân, rộng cỡ một mét và dài chừng hai mét, thùng có bốn bánh xe để di chuyển. Xem phim thùng hầu hết là trẻ con, một lần xem trả năm xu và được ngồi ghế đàng hoàng. Trẻ nhìn qua lỗ nhỏ còn ông "chủ rạp" thì thuyết minh, cứ thế cho đến hết. Bộ phim hay chiếu thời đó là Tarzan. Sau đó kiểu chiếu phim này đã bị cấm. Một kiểu chiếu khác gọi là "phim đèn chiếu", Sở Văn hóa Hà Nội có hẳn một xưởng sản xuất loại phim này. Một người chuyên cho từng tấm phim âm bản qua máy phóng lên màn ảnh, người khác thì thuyết minh nội dung. Phim đèn chiếu được các đội chiếu bóng mang chiếu ở các huyện ngoại thành, thu hút rất đông trẻ em.
Từ 1989 đến đầu những năm 1990, CNXH ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ nên nguồn phim theo nghị định trao đổi văn hóa cấp chính phủ với Liên Xô, Đức, Ba lan... không còn. Bộ phim cuối cùng chiếu tại Hà Nội trước khi rạp Đại Đồng, Mê Linh, Đống Đa... đóng cửa rồi sau đó trở thành các sàn nhảy là phim Sám hối của đạo diễn Abulaldze sản xuất tại xưởng Guzia.