Sáng sớm mồng một Tết Nguyên Đán, trong sự yên lặng hiếm hoi của 365 ngày trong năm, ngoài phố đã văng vẳng tiếng rao: "Ai muối đi!" Với đôi quang gánh hoặc dắt chiếc xe đạp, người bán muối đi từ phố này qua phố khác và tiếng rao muối bắt đầu cho một năm mới, vì như tiền nhân vẫn thường bảo: "Đầu năm mua muối, cuối năm mua vôi." Tục này không biết đã có từ bao giờ, chỉ biết đầu năm mua bát muối là mong cho gia đình quanh năm mặn mòi, yên ấm.
Thời Lý, Thăng Long có hai chợ nổi tiếng bán nhiều mặt hàng là Bạch Mã và Cầu Đông. Lúc đầu chợ Bạch Mã gọi là chợ Cửa Đông, đến đời nhà Trần đổi thành Bạch Mã vì ở gần đền Bạch Mã (nay ở phố Hàng Buồm). Còn chợ Cầu Đông ở cạnh chùa Cầu Đông (nay ở phố Hàng Đường) nên có tên là Cầu Đông. Chợ Đồng Xuân là tiếp nối của Bạch Mã và Cầu Đông do người Pháp xây dựng năm 1889 và khánh thành vào năm 1890. Ngoài các chợ lớn, xung quanh Thăng Long còn nhiều chợ họp theo phiên như chợ Bưởi, chợ Mơ. Có lẽ do không có chỗ ngồi trong chợ, không có nhà mặt phố nên họ phải đi bán rong và phần lớn người đi bán rong bán các sản phẩm do chính gia đình họ làm ra. Thăng Long là kinh đô, người tứ phương đổ về nên phố phường nhộn nhịp, người đông đúc, đó là cơ hội kiếm sống cho người bán hàng rong. Và muốn bán được hàng họ phải rao để thiên hạ biết họ bán gì. Người có cửa hàng thì họa có "điên" mới rao và tiếng rao gắn liền với kẻ bán hàng rong. Sử sách chép, thời Lý ở Thăng Long đã có người gánh hàng đi bán trong kinh thành. Họ bán rượu, chiếu, muối... Trong ca dao Việt Nam có một bài về thân phận cô gái bán rượu rong:
Em là con gái đồng trinh.
Em đi bán rượu qua dinh ông nghè.
Ông nghè sai lính ra ve.
Trăm lạy ông nghè tôi đã có con.
Có con thì mặc có con.
Thắt lưng cho tròn mà lấy chồng quan.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, nhà cửa được xây cất nhiều hơn vì thế cửa hàng buôn bán cũng nhiều hơn. Hàng hóa từ nước ngoài tràn vào ngày một nhiều khiến Hà Nội vốn là cái chợ lớn càng lớn hơn. Từ buôn bán, kinh doanh tự do đã sinh ra tầng lớp tiểu tư sản thành thị, tư sản dân tộc, tư sản mại bản, làm đời sống, xã hội Hà Nội có nhiều thay đổi. Một bộ phận dân thành thị, người ở quê ra không có khả năng thuê mướn cửa hàng khiến họ phải đi bán hàng rong. Một nguyên nhân khác là thu nhập của người bán rong không ổn định nên chính quyền cũng không đánh thuế, làm cho số người bán rong tăng lên. Năm 1928, Viện Viễn Đông bác cổ xuất bản cuốn sách mỏng in hai mặt các ký họa bằng chì và màu nước của sinh viên Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương về những người bán phở, mía, nước chè, cháo, bánh mỳ... rong trên phố Hà Nội. Qua chữ ký có thể nhận ra ký họa là của các sinh viên Lê Văn Đệ, Vũ Cao Đàm, Tô Ngọc Vân, Trần Phềnh... Cùng với ký họa đầy ẩn ý và lời bình thú vị, còn có ký âm trên khuông nhạc của F.de Fénis. Tất cả những người bán rong đều rao để quảng bá món hàng của mình, đến năm 1930 có thêm tiếng rao của trẻ bán báo. Trước đó, năm 1894, nhà nghiên cứu người Pháp là Edmond Nordemann đã viết cuốn sách có tựa đề "An Nam văn tập" (Chrestomathie Annamite, xuất bản năm 1898 tại Hà Nội) trong đó có phần về tiếng rao hàng rong ở các phố Hà Nội. Ông đã thống kê cả thảy có 30 tiếng rao của những người bán hàng rong, và đến nay, đã gần một trăm hai mươi năm nhưng nhiều tiếng rao vẫn còn đến ngày nay như rao bán bánh kẹo, bánh dầy, giò, thu mua đồ cũ... Ví dụ như: "Ai đồng nát, thau thiếc, gang sắt bán không?", "Ai bánh bao ra mua", "Ai bánh cuốn Thanh Trì ra mua nào..." Những tiếng rao mất đi do các sản phẩm đó hay dịch vụ đó không còn, bây giờ làm gì còn võng đay mà vá hay chum vại vỡ là bỏ luôn đâu còn ai hàn.
Kẹo kéo là sản phẩm thủ công rẻ tiền dành cho con trẻ. Kẹo được người bán rong đưa tới khắp thị thành và thập niên 1930, người ta đã ghi lại tiếng rao của anh bán kẹo kéo:
Kẹo kéo càng kéo càng dài.
Càng dai càng ngọt.
Chạy tọt về nhà.
Xin bà một xu.
Xin bu một hào.
Ra mua kẹo kéo.
Ai kéo... đây!
Câu cuối cùng, anh bán kẹo kéo dài giọng và giật cục ở từ "đây". Bán quà này chỉ thấy có đàn ông, tuyệt nhiên không thấy có đàn bà, chắc là để kéo cho kẹo dài ra cần có bàn tay khỏe. Người ta cũng ghi được câu khác:
Kẹo kéo vừa rẻo vừa ngon
Mua hào kẹo kéo cho con nó mừng
Ai kéo... đây!
Trong cuốn Bắc Kỳ – Phong cảnh và ấn tượng (xuất bản tại Hải Phòng năm 1944), nữ nhà văn Pháp Hilda Arnhold tả tiếng rao ở Hà Nội khiến người đọc không thể không đi ngay ra phố để mắt thấy, tai nghe: "Mới tang tảng sáng, đã có nhiều người đi lại, tiếng guốc gỗ quệt vội vã, những bước chân trần giậm thình thịch. Một người đạp xe qua, chuông xe kêu lảnh lót, mùi thuốc lá thoang thoảng, chả hiểu sao mà người ta mở đầu một ngày làm việc sớm thế, trời đã sáng hẳn đâu. Trước tiên là ông bán phở gánh, ông ta xuất hiện với tiếng va chạm của chồng bát cùng với mùi thơm lựng của nồi nước dùng. Cái quầy phở lưu động của ông được bày trên vỉa hè nơi góc phố, có một thằng nhỏ phụ việc ngồi thổi lửa bằng cái ống tre. Mới thế mà đã có đám khách hàng vây quanh, trong ánh lửa nhập nhoạng giữa cảnh bóng tối chưa tàn. Cốp, cốp... tiếng dao băm thớt hòa nhịp với tiếng rao dõng dạc: Phở ớ ớ... vang trên phố rất kỳ dị. Cạnh đó là một người bán cà phê, cũng lại là cà phê dạo. Người bán ngồi giữa hai cái chạn, cái lò than để ngỏ, trên có một cái siêu kẽm nước sôi. Ông ta rao chỏng lỏn: Cà phê... ôlé, nhưng chẳng biết có phải là cà phê sữa không, hay chỉ quen mồm rao, tạo sự chú ý..."
Hà Nội đầy ứ các loại người, dân quê ra kiếm sống ở chật các khu trọ rẻ tiền và không ai đi làm với cái bụng trống rỗng nên xôi là sự lựa chọn của người ít tiền. Bán xôi phần lớn là bà già hay phụ nữ trung tuổi người làng Tương Mai. Bên trên khăn vành dây là thúng xôi, họ đi dọc các phố đông đúc và rao rất mộc mạc: Ai xôi ơi! Dù xôi lạc, xôi ngô hay xôi xéo thì luôn phải ủ nóng trong vỉ buồm dệt bằng cói, bên ngoài là miếng vải cũ, khi có khách họ đơm bằng đũa và tùy theo mùa mà dùng lá sen hay lá chuối. Giống như người bán xôi, người bán bánh cuốn rao cũng rất đơn giản: Ai bánh cuốn đi... Người bán bánh cuốn là dân Thanh Trì. Bên cạnh lớp bánh cuốn có chai nước mắm, vài lạng chả cùng ít bát đĩa. Còn bà bán bún thang thì trong lúc cùng thằng nhỏ giúp việc bày biện đã rao đi rao lại: Ai bún thang nào... Giờ ngủ trưa mới đến lượt bà bán chè xuất hiện. Bà gánh hai cái chạn gỗ có nhiều ngăn, sắp đặt những bát chè: hạt sen rắc xôi, chè ướp hoa bưởi, bà này rao đúng tên món hàng: Chè hạt sen không... Những phố có nhiều cửa hàng buôn bán và bán hàng chủ yếu là đàn bà con gái, họ bán hàng cả ngày nên thường buồn ngủ và "nhạt mồm" vì thế hay ăn quà vặt, và các phố này bao giờ cũng là điểm đến đầu tiên. Nếu lâu lâu không thấy qua, thì các bà, các cô chép miệng "Chắc nhà nó ốm đau hay làm sao rồi!" Khi người bán quà rong mỏi chân, họ dừng bên cạnh cửa nhà nào đấy và thế nào cũng mời chủ nhà ăn quà, rồi nhất quyết không lấy tiền như để cám ơn đã cho ngồi nhờ trước cửa. Mùa nào thức nấy, đường phố luôn đầy ắp tiếng rao và các bà, các cô dù đang làm gì nghe tiếng rao thứ quà mình thích là gióng ra phố gọi. Thậm chí họ rõ biết giờ này sẽ có hàng quà gì qua, giờ kia là hàng gì.
Nếu vào những năm 20 của thế kỷ trước, tiếng rao chủ yếu là của những người bán quà thì sang những năm 1930 và kéo dài cho đến ngày tiếp quản Thủ đô (10-10-1954) tiếng rao càng phong phú vì mặt hàng đã đa dạng hơn. Tờ mờ sáng, đám trẻ chạy từ nhà in ra tỏa đi các phố rao báo với tin tức nóng hổi. Tiếng rao âm vang theo bước chạy của đứa trẻ. Nghe tiếng rao có thể đoán quê nó ở vùng nào nhưng nhiều khi cũng rất khó nếu nó luyến láy ở những nhịp âm cuối. Các bác thợ mộc tay xách hòm đồ, vai đeo chiếc cưa đi dọc các phố rao: Ai mộc đi... Sau khi đi một vòng, nếu không có việc, các bác tụ lại ở chợ Hàng Da hay chỗ chắn tàu ở Cửa Nam. Thợ mộc rong phần lớn là người Hà Nam, họ lên Hà Nội chung tiền thuê nhà và chủ yếu sửa chữa vặt vì xong việc là có tiền ngay. Cánh mài dao phần lớn là dân Hà Đông, Phủ Lý, họ rao có vần, có điệu và khá hài hước:
Ai mài dao sắc như nước
Chém nước nước đứt
Chém sắt thì mẻ dao
Ai mài dao nào...
Họ gánh một bên là hòn đá mài, bên kia là thùng nước nhỏ đi theo lộ trình định sẵn, sáng ra là phải lượn qua các quán phở, còi tan tầm chủ nhà về mới đi vào xóm, chiều thì đến các chợ vòng qua vòng lại dãy hàng thịt. Có khi tiện tàu điện, họ vào cả chợ Hà Đông. Còn thợ khóa, sau khi đi một vòng quanh phố Tây, những nhà dùng nhiều khóa nhất, thì tụ ở ngã tư Phùng Hưng – Hà Trung. Đêm buông xuống là đám tẩm quất khiếm thị đội mũ trắng cầm xâu xèng lên đường. Phần nhiều trong số họ trước khi ra đường kiếm sống đều ở Nhà thương làm phúc Hàng Bột. Ra ngoài vất vả nhưng bù lại họ tự do hơn và thế nào cũng kiếm được một em để rồi thuê nhà sống chung. Tiếng xủng xoảng của xâu xèng khiến ai có nhu cầu đấm bóp biết ngay anh ta đang đến. Vào cuối những năm 1940, từ những tiếng rao kem trên tàu điện của những đứa trẻ, người ta chế ra lời mới cho một bài hát đã phổ biến trước đó: "Kem đi, kem đi, kem một hào hai chiếc, kem Cẩm Bình ngon lắm, nào ai mua nào. Này chú bán kem, có rao thì rao cho khéo, đừng mà rao láo, điếc tai hành khách trên tàu!"
Hà Nội tiến hành cải tạo công thương nghiệp tư bản, tư doanh vào tháng 7-1959 nên thương mại tư nhân chỉ còn ở các chợ truyền thống và lèo tèo cửa hàng ở các phố với rất ít hàng hóa. Hàng loạt cửa hàng mậu dịch quốc doanh ra đời, trong đó phải kể đến Bách hóa Tổng hợp (nay là Trung tâm thương mại Tràng Tiền) mà người ta tự hào gọi là "pháo đài thương nghiệp XHCN". Cùng với Bách hóa Tổng hợp là hệ thống các cửa hàng bách hóa, cửa hàng thực phẩm bán theo tiêu chuẩn cung cấp nằm rải rác ở các quận huyện, thì người ta nghĩ rằng hàng rong không thể tồn tại ở Hà Nội. Thế nhưng nó vẫn sống, bởi nhà nước không thể lo được hết, và dù đã hoặc đang phấn đấu thành con người mới XHCN thì mỗi người vẫn có những đòi hỏi rất riêng trong ăn uống, sinh hoạt. Một số mặt hàng rong không còn nhưng lại xuất hiện các mặt hàng mới và theo đó cũng mất đi tiếng rao từng đi cùng với nó và lại ra đời những lời rao mới.
Khi chuyến tàu điện đầu tiên leng keng chuyển bánh, phố Hà Nội vẫn còn đó tiếng rao của các bà bán xôi, bánh cuốn với tiếng rao mộc mạc: "Ai xôi đi... Ai bánh cuốn đi..." Vẫn còn phở gánh nhưng không còn tiếng rao và không còn cháo thịt bạc nhạc hay cà phê xe đẩy. Khi phố xá đông đúc mới thấy những người bán tạp hóa lỉnh kỉnh các món đồ trên cơ thể và ông bán thuốc mới ló ra từ các ngõ nhỏ. Ngay cả khi Mỹ ném bom đánh phá miền Bắc và Hà Nội, dân phải sơ tán về các vùng quê thì tại bến tàu điện ở phố Đinh Tiên Hoàng, Cầu Giấy, Vọng hay chợ Mơ... bến xe khách Kim Liên, Kim Mã, Bến Nứa... vẫn đầy ắp tiếng rao. Họ tràn lên tàu điện, xông vào các phố có dân để bán hàng mong kiêm chút lãi nuôi con. Điều lạ lùng là tiếng rao thời kỳ bao cấp được nâng cấp, không chỉ nhấn nhá câu rao, có vần, có điệu mà không ít người còn dùng thơ. Như người bán thuốc trên tầu điện rao một thứ thuốc chữa bệnh của đàn ông:
"Đau xương nhức lưng củ ấu Tầu
Sa đì ấm giỏ cũng là nó
Củ ấu Tầu đi..."
Với thuốc ho:
Đàn ông ho ca nông (một loại súng)
Đàn bà ho cát tút (vỏ đạn)
Trẻ em ho gà ho vịt
Thanh niên nam nữ ho vì tình
Đứa trẻ giật mình cũng biết ho
Thuốc ho nào..."
Và với thuốc hôi nách, tiếng rao êm dịu như ngâm thơ trên đài:
Một làn gió thổi qua
Một làn gió thổi lại
Anh đổi cho chị
Chị đổi cho anh
Thế là cuộc tình tan vỡ
Ai... thuốc hôi nách nào...
Sau tiếng rao, họ giới thiệu cách dùng: "Kẹp gói thuốc vào nách và chỉ sau vài phút, gió thổi qua, gió thổi lại, hai người nhìn nhau cười. Không khỏi không lấy tiền. Ai thuốc hôi nách đi..." Kẻ bán dầu nóng Sao Vàng lại như kể một câu chuyện: "Một người đàn ông đang đi trên phố Hàng Bột bỗng phải gió đâm đầu vào cột điện. Một bà cụ thấy thế rút ra trong túi một hộp dầu con hổ xoa vào hai bên thái dương, chưa kịp cất hộp dầu vào túi anh ta bật tỉnh, bà con xúm lại hỏi loại dầu gì mà hiệu nghiệm như vậy. Xin thưa đó là dầu cao con hổ hiệu Sao Vàng. Xoa nóng hôi hổi, xoa nổi da gà, xoa cạch đến già, lần sau không ai dám cảm." Nếu tàu điện chạy qua phố nào, họ sẽ đổi sang tên phố đó.
Thuốc lá vừa hiếm lại vừa đắt tiền nên phần lớn thanh niên rít thuốc lào, vì thế trên phố nhan nhản những ông bán điều cày, thuốc lào. Điếu cày làm bằng tre, thân điếu được khắc hai con rồng thế giao long, với chiếc nõ bằng gỗ (thập niên 70 mới đúc bằng nhôm). Bên hông, họ đeo bị cói to tướng đựng thuốc lào gói sẵn bằng giấy báo (sau giải phóng miền Nam mới đóng trong túi ni lông). Giọng họ tưng tửng:
Chồng hút mà vợ cũng say
Thằng con châm đóm lăn quay ra sàn
Có chị hàng xóm đi qua
Hít phải khói thuốc say ba bốn ngày
Ai thuốc lào Tiên Lãng đây...
Một hào một gói, hai gói hai hào đây...
Thỉnh thoảng họ dừng lại hút một điếu, buổi trưa phố vắng, tiếng điếu cày rít vang xa đến vài con phố. Bán tăm tre thường là người khiếm thị, họ rao ê a kiểu hát xẩm:
Một hào một gói tăm tre
Bán cho quý khách đi xe, đi tàu
Xỉa răng rồi lại ăn trầu
Bán cho quý khách đi tàu, đi xe
Ai tăm tre nào...
Thời bao cấp, xà phòng hiếm nên những người mặc áo trắng mà không có xà phòng thường phải mua thuốc tẩy hòa với nước ngâm áo. Người bán thuốc tẩy rao:
Lơ trắng, lơ xanh, lơ tẩy hồng
Ai lơ Tốt nào...!
Lời rao có chữ "tốt" vì ông bán lơ tên là Tốt, chứ không phải ông ta bán lơ có chất lượng tốt. Bà bán kim băng cũng không chịu thua:
Ai mua kim băng cài nhăng cài nhít
Ai quần thủng đít thì mua kim băng
Kim băng nào...
Nhưng ấn tượng nhất có lẽ là ông bán thuốc chuột, ông ta nói liền tù tỳ: "Chuột lớn, chuột con, chuột cha, chuột chú, chuột chù, chuột cống, chuột châu Phi hay Thổ Nhĩ Kỳ, chuột gỉ chuột gì ăn vào cũng chết tuốt, mua đi kẻo hết, không chết không lấy tiền. Ai thuốc chuột nào...!"
Nếu những người bán tạp hóa thường tập trung ở bến tàu điện, bến xe thì những người bán quà vặt lại trực trước cổng trường học, rạp xiếc phố Trần Nhân Tông, rạp chiếu bóng Kim Đồng (phố Hàng Bài) hay trước cửa Cung Thiếu nhi. Cũng, vẫn là kẹo kéo nhưng lời rao khác trước:
Cô kia tóc ngắn ngang vai
Ăn đồng kẹo kéo nó dài đến khoeo
Cô kia chưa có người yêu
Ăn đồng kẹo kéo đến chiều có ngay
Hay:
Kẹo này chú nấu vani
Cháu ăn cháu lớn cháu đi nước ngoài
Khi đi áo rách, màu phai
Khi về Pút nhích (xe đạp Liên Xô) thoái mai (thoải mái) tung hoành
Không chỉ kẹo kéo, những nơi này còn có các ông Ba Tàu bán bánh tiêu, hay Bi ron ron, bi ròn ròn, bi ngòn ngọt đây... (một loại bánh làm bằng bột mỳ ngào đường rán bằng dầu, nhỏ như hòn bi), bánh chín tầng mây (làm bằng bột củ rong riềng, mỗi tầng là một màu). Từ câu rao, trẻ con lại chế biến trêu lại:
Bánh chín tầng mây
Mười tầng gió
Đi khắp xó
Ăn giỗ trẻ con
Lại còn thêm các cô bán táo dầm, khế dầm hay me chua, các cô cất tiếng rao làm người nghe tứa nước miếng... Bán nộm bò khô cũng là của mấy ông Ba Tàu, ông rao: "Nộm đu đủ... đây...", vừa rao, vừa khua kéo, tiếng lách cách như báo hiệu "Tôi đang đứng ở đây cơ mà". Nói chung, các loại quà như: bi ron ron, bánh chín tầng mây, nộm bò khô, bánh tiêu, quẩy... thì không người Việt nào có thể hơn được Hoa kiều vì họ có những bí quyết gia truyền.
Nếu những năm 60 của thế kỷ trước, người bán kem vẫn dùng bình thủy tinh thì cuối những năm 70 họ thay bằng hộp xốp, vừa chứa được nhiều, lại không vỡ. Trước đó họ chỉ lấy kem mậu dịch thì thời kỳ này xuất hiện các lò kem gia công, chất lượng rất tồi vì chỉ có chút bột với nước và đường hóa học. Họ không đi bộ mà đi xe đạp, họ không rao bằng lời mà thay bằng kèn làm bằng quả bóng cao su. Chị hàng xóm nhà tôi có con nhỏ, thằng bé thích ăn kem nên cứ mỗi lần nghe tiếng "bép bép" là chị bịt tai con vì sợ nó nghe thấy đòi mua. Có khi còn chạy ra tận đầu ngõ cấm thằng bán kem không được vào, hai que kem là mất đứt mớ rau muống bè. Nhưng cũng có lần nó nghe tiếng "bép bép" đầu nhà, đòi mua chị dỗ: "Kem làm bằng nước lã mà con, hôm nào mẹ cho lên Tràng Tiền ăn kem cốm mới ngon", nhưng thằng bé không chịu khóc giẫy lên nên đành phải mua một chiếc và không quên xỉ vả thằng bán kem là "đồ ăn dỗ trẻ con". Thằng bán kem bán được một chiếc nên nó cóc thèm chấp.
Đầu những năm 80, kẹo cao su còn hiếm ở Hà Nội, thậm chí nhiều người còn không biết kẹo cao su thế nào thì có một anh chàng tên Nguyên nhà ở phố Phan Phù Tiên đã đi bán rong. Nguyên đựng kẹo con vẹt của Thái Lan, kẹo của Tiệp Khắc trong "săm sô nai", anh ta không rao mà vừa đi vừa nhai, đến chỗ đông người thì thổi miếng cao su trong miệng to như quả bóng và tiếng bụp đã ra gây chú ý, lúc đó anh ta mới mở "săm sô nai" coi đó như lời mời. Nguyên là người đầu tiên bán kẹo cao su rong ở Hà Nội. Tiếng rao đêm thời bao cấp vẫn còn và chủ yếu là bán bánh mì, bánh khúc hay khoai luộc. Có điều không hiểu được là năm 1985 đến năm 1989, lạm phát rất cao, cuộc sống vô cùng khó khăn nhưng tiếng rao quà vẫn không mất đi...
Đầu những năm 90, chính sách đổi mới đi vào cuộc sống, kinh tế Hà Nội dần khá lên. Hàng tiêu dùng đa dạng, mẫu mã phong phú bày bán khắp thành phố nên những gia đình khá giả loại bỏ những đồ sinh cũ để sắm mới và thế là xuất hiện một lực lượng hùng hậu những người đi mua đồ cũ, họ rao:
Bàn nà (là), quạt cháy máy bơm
Ti vi, tủ nạnh (lạnh) nồi cơm đầu giàn
Công tơ sắt thép nồng (lồng) bàn bán không...
Hoặc:
Nông (lông) ngan, nông (lông) vịt
Các cụ ăn thịt còn nông (lông)
Túi bóng bình tông
Đồng chì nhôm bẹp
Dép nhựa đứt quai
Ai bán nào...
Theo thời gian, kinh tế phát triển, hàng hóa ê hề ở các cửa hàng, quảng cáo xuất hiện trở lại trên báo nên tiếng rao xưa vơi đi rất nhiều và mất hẳn, như rao bán thuốc lào, lơ tẩy hồng, bả chuột, kim khâu tải, lấy ráy tai, thuốc hôi nách... Thay vào đó là người bán báo đi xe đạp, thu tiếng rao vào băng rồi cho phát ra loa: "Một vụ tự tử vì tình trên cầu Long Biên. Một thanh niên bán người yêu... đã được đăng trên số báo ra hôm nay... báo nào." Tiếng rao thời nay ngắn hơn, cụ thể hơn nhưng cục mịch, không còn vần điệu. Không ít tiếng rao còn ngọng "l" và "n", tuy cho biết xuất xứ của người bán nhưng gây phản cảm...
Ở góc độ kinh tế, có thể coi tiếng rao góp vào giáo trình marketing một kiểu bán hàng vốn không được đề cập đến. Ở góc độ văn hóa, tiếng rao là món quà âm thanh độc đáo và duy nhất trên thế giới miễn phí cho khách nước ngoài đến Hà Nội. Và để nhớ cho những ai phải xa thành phố này. Nhưng là ngày xưa thôi, còn bây giờ...