Có thể coi thứ hai ngày 16-3-1885 là ngày đáng nhớ của sân khấu Hà Nội, khi nhóm kịch có hai diễn viên chuyên nghiệp là vợ chồng Deschamps cùng một số diễn viên nghiệp dư đã diễn kịch tại Bờ Hồ. Sân khấu chỉ là sàn gỗ, ba mặt che chắn bằng cót, dựng ngay cạnh đền Ngọc Sơn. Khán giả chủ yếu là lính Pháp, công chức thành phố và số ít người Việt có quan hệ với Pháp. Đêm diễn thành công và là ý tưởng cho việc ra đời một nhà hát theo kiểu Pháp tại Hà Nội. Sự kiện đáng nhớ thứ hai là ngày 20-10-1921, lần đầu tiên vở kịch nói Chén thuốc độc của Vũ Đình Long, người Việt Nam 100%, được trình diễn tại Nhà hát lớn, nơi mà trước đó chỉ dành cho nghệ sỹ Pháp. Sự kiện thứ ba không thể không nhắc đến là năm 1925, ông Nguyễn Đình Nghị đã đưa chèo sân đình ra phố và trở thành người làm gạch nối giữa chèo cổ và chèo mới. Và sự kiện thứ tư...
Trong một bài viết đăng trên Tạp chí sân khấu số Xuân năm 1988, nhà văn Nguyên Ngọc, khi ấy là Tổng biên tập Báo Văn Nghệ, viết: "Trong quãng dăm ba năm trở lại đây, sân khấu đã vượt lên tất cả các môn nghệ thuật khác trong việc xông vào những vấn đề xã hội đang gay cấn và nóng bỏng, nó dẫn đầu trong việc phanh phui thực trạng xã hội của chúng ta, phô bày những thực tế phức tạp gay gắt của đời sống xã hội, cố gắng vẽ nên những bức tranh chân thật của xã hội và con người chúng ta hôm nay và trong một chừng mực nhất định, nó đề xuất một số kiến nghị xã hội ít nhiều quan trọng". Có người cho rằng việc báo Tuần tin tức (của TTXVN) năm 1984 phanh phui Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa, ông Hà Trọng Hòa cậy chức, cậy quyền lộng hành, là động lực cho các sân khấu phản ánh các vấn đề nóng bỏng của xã hội là chỉ nhìn vào bề nổi. Trước đó, giới sân khấu và khán giả đã cảm nhận được điều này qua hai vở: Dòng sông ám ảnh (tác giả Hồng Phi) và Thời tiết ngày mai (tác giả Xuân Trình). Dòng sông ám ảnh (đạo diễn Đoàn Anh Thắng) của đoàn Kịch Hải phòng chuẩn bị mang đi hội diễn sân khấu năm 1980 thì có lệnh dừng lại, và với Thời tiết ngày mai của đoàn kịch Hà Nam Ninh (đạo diễn Xuân Đàm) cũng như vậy, đúng hôm anh em trong đoàn mổ lợn liên hoan mừng vở diễn hoàn thành.
Năm 1984, các đoàn kịch trong cả nước tất bật chuẩn bị cho hội diễn sân khấu toàn quốc năm 1985. Hội nghị Trung ương 6 (họp vào tháng 7-1984), Hội nghị Trung ương 7 (họp 12-1984) với những quan điểm mới về phát triển kinh tế dù không thông tin ra bên ngoài nhưng nó lan truyền trong xã hội và trở thành đề tài của giới trí thức, đặc biệt là các nhà viết kịch trong đó có Lưu Quang Vũ. Họa sỹ Ngọc Mỹ khi đó là Phó trưởng đoàn Kịch nói Hà Nội kể: "Lưu Quang Vũ đã viết xong Tôi và chúng ta nhưng ông Trần Độ khi ấy là Trưởng Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương (kiêm Thứ trưởng Bộ Văn hóa) thi thoảng lại cung cấp thêm thông tin về các cuộc họp bàn đổi mới nên Vũ lại thêm bớt, lời thoại của vở diễn ngoài rạp có khá nhiều câu của Trần Độ". Trong bức thư gửi cho Hoàng Quân Tạo viết trên giấy đen xì xé từ quyển sổ ra đề ngày 11-11, Vũ viết: "Chưa có vở nào tôi thấy say sưa hào hứng như vở này, một vở kịch lớn và xứng đáng với tâm huyết của chúng ta. Chính vì vậy nên Vũ không muốn như anh nói: Chưa xong cũng cứ đọc. Mấy hôm nay Vũ vùi đầu viết nên hôm qua cũng không đi xem được. Chiều ngày kia 13-11 (lúc 2 giờ) Vũ sẽ xin đến được đọc trình các anh. Chắc các anh sẽ tha thứ khi nghe xong vở". Theo qui định, Kịch Hà Nội trình Tôi và chúng ta lên Sở văn hóa, Sở đồng ý và trình lên Thành ủy xin ý kiến. Rất may Thành ủy ủng hộ. Tuy nhiên trong quá trình tập, phụ trách Tuyên huấn Hà Nội là ông Trần Hoàn thấy lời thoại "mạnh" quá đã yêu cầu thay đổi. Vở dựng xong, Hà Nội không dám duyệt "thôi cứ mang đi tham dự hội diễn, nếu không thành tâm thì cũng thành nhân", ông Trần Hoàn đã nói như vậy với lãnh đạo kịch Hà Nội. Song, Trưởng đoàn Hoàng Quân Tạo không "yên tâm", ông muốn "xin ý kiến" Ban Tuyên huấn. Nhờ mối quan hệ sẵn có, Hoàng Quân Tạo đã mời ông Hoàng Tùng (Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương) đến xem. Nhưng ông Hoàng Tùng không đi một mình, ông mời Tố Hữu (Bí thư Ban chấp hành Trung ương, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng) đi cùng. Nghỉ giải lao khi hết phần I, Hoàng Quân Tạo mon men đến gần, nói xa gần về vở, ông Tố Hữu bảo: "Phần II chắc còn dữ dội hơn" khiến Hoàng Quân Tạo thót tim. Vở diễn kết thúc, ban lãnh đạo tiễn Tố Hữu và Hoàng Tùng ra ô tô, trước khi vào xe Tố Hữu nói: "Vở diễn nói chung tốt". Nhận xét của ông Tố Hữu như một quyết định không chữ ký cho phép đoàn được diễn cho công chúng. "Nhưng với ông Trần Hoàn, dường như chưa thể yên tâm, khi tiễn đoàn lên tầu vào Thành phố Hồ Chí Minh, ông yêu cầu diễn viên tiếp tục học thuộc lời thoại đã sửa trên tầu", ông Ngọc Mỹ kể. Thế nhưng tại hội diễn, diễn viên cứ thoại lời trong kịch bản vì họ đã thuộc và lại nó hay và ý nghĩa hơn lời thoại bị yêu cầu sửa.
Chức vụ của nhân vật trong các vở kịch trước đó to nhất chỉ là giám đốc nhưng ở Tôi và chúng ta là bộ trưởng, không những thế, vị bộ trưởng này còn là Ủy viên Trung ương. Tôi và chúng ta phản ánh cuộc đấu tranh gay gắt để thay đổi phương thức tổ chức, lề lối hoạt động sản xuất ở xí nghiệp Thắng Lợi, giữa hai lực lượng bảo thủ và đổi mới. Đại diện "phe" bảo thủ là Phó giám đốc Nguyễn Chính, quản đốc phân xưởng Trương cùng sự hỗ trợ của Trần Khắc, đại diện Ban thanh tra bộ khư khư giữ các nguyên tắc, quy chế cứng đờ, lạc hậu, kiên quyết không chấp nhận đổi mới. "Phe" đổi mới gồm: Giám đốc Xí nghiệp Hoàng Việt (Trần Vân đóng), Thanh kíp trưởng Phân xưởng 1 (Hoàng Cúc), kỹ sư Lê Sơn cùng đại đa số anh chị em công nhân với tinh thần dám nghĩ dám làm, phá bỏ các quy định giáo điều, lạc hậu để xí nghiệp thoát khỏi trì trệ đi lên. Tôi và chúng ta khẳng định: Không thể có thứ chủ nghĩa tập thể chung chung, không thể giữ mãi các nguyên tắc và phương pháp của thời cũ trước sự chuyển biến mạnh mẽ trong tư duy của xã hội. Vở diễn phê phán tư duy lạc hậu,bảo thủ trong sản xuất, ủng hộ xu hướng đổi mới trong kinh tế. Giành được Huy chương vàng tại hội diễn, đó là phần thưởng xứng đáng nhưng xứng đáng hơn, vở diễn thu hút đông đảo các tầng lớp khán giả Thủ đô, đặc biệt là giới trí thức. Tôi và chúng ta diễn ngày 3 xuất ở Hà Nội ròng rã hàng tháng trời và tại Nhà Văn hóa Lao động ở Thành phố Hồ Chí Minh là 3 xuất diễn một ngày và trong hơn một tháng, không xuất nào trống ghế, người ta còn phải kê thêm giữa lối đi. Những khen ngợi trên báo và dư luận xã hội khiến Bí thư Thành ủy Nguyễn Văn Linh đến xem. Ngày hôm sau, ông đã cho mời Trưởng đoàn, đạo diễn Hoàng Quân Tạo đến Thành ủy cám ơn anh chị em nghệ sỹ đã cống hiến cho khán giả thành phố vở diễn hay, đồng thời động viên đoàn tiếp tục diễn phục vụ bà con. Còn Phó Bí thư thường trực Mai Chí Thọ định đi xem nhưng trước buổi diễn, ông phải ra Hà Nội công tác đã yêu cầu Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh (HTV) quay thành băng để xem khi đi công tác về. HTV mời đoàn diễn tại trường quay nhưng cuốn băng này bị lọt ra ngoài, người ta sao chép và bầy bán tràn lan ở các điểm bán và cho thuê băng trong thành phố. Nhưng không vì thế mà Tôi và chúng ta vắng khách, đoàn vẫn diễn ngày 3 xuất và khán giả thứ 150.000 của Tôi và chúng ta là ca sỹ Thanh Hạnh, thành viên nhóm "Những làn sáng nhỏ" của HTV.
Tháng 12-1984, Nhà hát kịch Trung ương (nay là Nhà hát kịch Việt Nam) dựng Nhân danh công lý (tác giả Võ Khắc Nghiêm - Doãn Hoàng Giang, đạo diễn Doãn Hoàng Giang). Đạo diễn Doãn Hoàng Giang nhớ lại: "Khi đọc kịch bản,người tôi nổi gai ốc vì sự táo bạo của tác giả cho dù kịch bản chưa hoàn chỉnh". Lần đầu tiên sau ba chục năm dưới chế độ XHCN, kịch bản đưa chuyện con một cán bộ cao cấp trong ngành công an lộng hành, bất chấp pháp luật. Kịch Trung ương trước đó chỉ dựng kịch nước ngoài hay những vở trong nước mang tính ngợi ca một chiều nên khi tin tức về Nhân danh công lý lên sàn, đã lan ra khắp dư luận xã hội. Sự ủng hộ của dư luận động viên anh chị em nghệ sỹ nhưng lại là nỗi lo của đạo diễn và lãnh đạo nhà hát, vì vở diễn có thể bị đình như một số vở trước đó. Vở diễn đã đưa ra thông điệp: tội ác phải bị trừng trị dù người đó là ai. Cũng lần đầu tiên, Doãn Hoàng Giang đã đưa cảnh hiếp dâm lên sân khấu. Hôm chạy lần cuối trước khi Bộ Văn hóa duyệt, Nhà hát đã mời lãnh đạo Công an Hà Nội, xem xong, các vị lặng yên ra về. Trước thái độ đó, Giám đốc NSND Mạnh Linh lại càng lo hơn. Còn Doãn Hoàng Giang nhức đầu vì những lời đồn "đồng chí này chỉ đạo, đồng chí kia có ý kiến", ông chỉ mong diễn một đêm rồi xếp kho cũng được. Song ông cũng vững tin vào quyết định của Bộ Văn hóa vì khi cho dựng, Bộ hẳn phải có đủ lý lẽ để bảo vệ quan điểm. Rồi Bộ trưởng Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) Phạm Hùng đi xem. Khi tấm màn nhung ở Nhà hát lớn khép lại, Mạnh Linh và Doãn Hoàng Giang nhận được lời động viên, và ông còn mời hai người hôm sau ăn cơm tại nhà khách để trao đổi thêm về nội dung. Chưa hết, ông viết thư cho Đoàn Kịch nói Kim Cương ở Thành phố Hồ Chí Minh nên mời Doãn Hoàng Giang dựng vở này để người dân thành phố xem. Thừa lệnh ông, Công an Thành phố Hồ Chí Minh còn cử cán bộ thị phạm diễn viên các động tác liên quan đến điều lệnh ngành. Nhờ ông Phạm Hùng mà từ hai đoàn của Nhà hát kịch lên thành ba đoàn diễn, và Nhân danh công lý đến được với khán giả khắp các vùng miền đất nước.
Hội nghị Trung ương 8 (khóa V) họp từ ngày 10 đến 17-6-1985 đã quyết định phải đổi mới. Tháng 12-1986, Đại hội VI của Đảng diễn ra tại Hà Nội, Đại hội đã đề ra chủ trương đổi mới, xóa bỏ cơ chế quan liêu bao cấp, phát triển nền kinh tế theo thị trường hàng hóa. Từ đổi mới là đầu đề cho các câu chuyện của những ông đạp xích lô đến giới trí thức là động lực cho Lưu Quang Vũ viết Khoảnh khắc và vô tận (hay còn gọi phần II của Tôi và chúng ta). Đoàn kịch Hà Nội dàn dựng kịch bản này và một lần nữa vở diễn lại gây dư luận trong xã hội, nó đánh thức khát khao đổi mới của mọi tầng lớp trong xã hội mà trước đó ai cũng mong muốn nhưng chỉ phàn nàn, kêu ca hoặc phiếm chỉ, ám chỉ, không dám công khai. Có một câu chuyện cảm động giữa Lưu Quang Vũ và diễn viên Trần Kiếm (đóng vai ông Quých trong Tôi và chúng ta) mà rất ít người biết. Sau khi đọc kịch bản, Trần Kiếm gặp riêng Lưu Quang Vũ và bảo: "Ông Vũ ạ, bệnh tôi nặng lắm rồi. Tôi biết chắc đây là vở kịch cuối cùng được tham gia". Lưu Quang Vũ gạt đi, nhưng Trần Kiếm lắc đầu: "Bác sĩ cho biết, tôi không sống được lâu nữa. Cho nên ở phần này, Vũ hãy để cho ông Quých chết vì bệnh tim. Thế là tôi sẽ được đóng trọn vẹn nhân vật mà tôi vô cùng yêu quý. Mấy khi người diễn viên được diễn chính cái chết của mình trên sân khấu". Bàn với đạo diễn Hoàng Quân Tạo, Lưu Quang Vũ đã viết cảnh người công nhân già trung hậu ngã xuống sau một cơn đau tim nặng. Trước lúc mất, Trần Kiếm dặn lại vợ: "Nói với các chú, các bác đoàn kịch mặc cho anh bộ phục trang trong vai ông Quých, để vào áo quan cho anh hộp đồ hóa trang anh vẫn dùng..." và người thân của ông đã làm theo lời trăng trối ấy. Đó là bộ quần áo xanh đã bạc màu, chiếc mũ công nhân, cái hộp đựng đồ hóa trang đã cũ, mấy mảnh vải tẩy trang. Ông đã ra đi cùng với nhân vật của mình, trung thực, ủng hộ cái mới cái tiến bộ. Không chỉ thu hút khán giả ở Hà Nội mà ngay khi mới đặt chân đến Thành phố Hồ Chí Minh, Đoàn đã được Phó Chủ tịch UBND thành phố Đỗ Duy Liên tiếp đón ân cần. Sau hai tháng chỉ diễn tại Hội trường Liên hiệp Công đoàn Thành phố, ngày 12-4-1987, Đoàn đã đón khán giả thứ 100.000 đó là chị Bích Trâm 24 tuổi nhân viên kho thành phẩm Nhà máy Đồ hộp Duy Hải. Theo lịch trình đoàn diễn hết tháng 5-1987 mới trở ra Hà Nội.
Khi các đoàn kịch dựng hết kịch bản này đến kịch bản khác của Lưu Quang Vũ và vở diễn nào cũng thu hút đông đảo khán giả làm Trưởng đoàn Kịch nói Quân đội Quý Hải sốt ruột. Ông cũng muốn Kịch Quân đội dựng kịch Lưu Quang Vũ nhưng hầu hết những vở mà Vũ viết lại không có hình bóng người lính, vì thế Quý Hải quyết định đặt Vũ viết cho Đoàn. Tháng 5-1989, Quý Hải gặp Lưu Quang Vũ đưa yêu cầu nhưng Vũ vẫn chưa biết viết theo hướng nào, chiến tranh thì đã qua, hậu chiến thì nhiều chuyện nhưng cũng không dễ viết. Bàn đi tính lại, cuối cùng Quý Hải bảo Vũ cứ chọn một trong Chín lời thề của quân đội mà viết. Vũ đã lấy lời thề thứ 9 (Khi tiếp xúc với dân làm đúng ba điều: kính trọng dân, giúp đỡ dân, bảo vệ dân. Ba điều răn: Không lấy của dân, không dọa dân, không quấy nhiễu dân...) làm cơ sở cho kịch bản. Gần một tháng sau, Vũ thông báo là đã xong và hẹn một buổi đọc cho đoàn. Lời thề thứ 9 viết về người lính trên chốt với mối quan hệ địa phương. Đọc xong, ai cũng thích và công việc dàn dựng giao cho đạo diễn Xuân Huyền, người có cá tính và từng dựng rất nhiều vở thành công. Hai nghệ sỹ nổi tiếng của đoàn là Đoàn Bôn và Đức Long vào vai Quách Văn Tần, một cường hào mới ở nông thôn, Minh Hằng trong vai người mẹ, Tiến Mộc trong vai chủ tịch tỉnh, Tiến Quang trong vai Đôn Sứt. Cả đoàn đang dốc sức tập thì ngày 29-8-1988, tin xấu dội về: Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh và cháu Lưu Quỳnh Thơ bị tai nạn trên đường 5...
Đêm diễn đầu tiên là tại Hội trường Tổng cục Chính trị. Hội trường im phăng phắc nhưng trong lòng khán giả - những người lính ngồi xem có những suy nghĩ trái chiều. Và hôm sau, dư luận khác nhau về Lời thề thứ 9 loang ra theo chiều hướng tiêu cực, rất có thể vở diễn sẽ bị ách lại. Biết tin Kịch nói Quân đội ra vở mới, Đại hội Công đoàn Thành phố Hà Nội muốn mời đoàn diễn một đêm phục vụ đại biểu. Nhưng theo qui định của quân đội, muốn diễn đoàn phải báo cáo Tổng cục Chính trị. Ông Đặng Ngọc Tỉnh, khi đó là Thư ký của Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Hồng Cư (phụ trách khối tư tưởng - văn hóa quân đội) kể lại: "Giờ biểu diễn của đoàn gần kề mà anh Hồng Cư đi công tác vẫn chưa về. Tôi đến xin ý kiến thủ trưởng thường trực cơ quan là đồng chí Lê Khả Phiêu mới được bổ nhiệm làm Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Sau khi nghe tôi báo cáo, đồng chí hỏi rất kỹ về dư luận hai phía đánh giá vở kịch và chính kiến của tôi đối với vở kịch này. Tôi vừa báo cáo xong thì đồng chí nói ngay: Đây là một tác phẩm nghệ thuật, sự cảm thụ nghệ thuật của mỗi người khác nhau, công sức của Đoàn kịch bỏ ra là rất lớn, được diễn phục vụ Đại hội Công đoàn Thành phố là dịp tốt, khán giả là công nhân, lao động ưu tú của Thủ đô sẽ đánh giá, khen chê công bằng... Đồng chí còn bảo khi Đoàn diễn thì phải đi xem để nắm tình hình báo cáo với lãnh đạo Tổng cục Chính trị. Tôi thực sự bất ngờ trước quyết định của đồng chí...". Một bất ngờ khác là Thượng tướng Nguyễn Quyết, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị là khách mời của Đại hội cũng đi xem. Ông rất vui trước sự mếm mộ của của khán giả đối với kịch quân đội, ông góp ý một vài chỗ mà lời thoại chưa chỉnh trong vở rồi chỉ thị cho Đoàn đi diễn phục vụ bộ đội ngay. Lời thề thứ 9 đi diễn ở đâu cũng nhận được khán giả trong và ngoài quân đội đón nhận. Trong một bức thư gửi cho trưởng đoàn Quý Hải, đề 23 giờ 30 phút ngày 8-11-1988, cựu chiến binh Phan Huy Thuần ở Thành phố Hồ Chí Minh viết: "Tôi đi dạy thêm về trễ mệt và đói nhưng khi được anh bạn mời đi xem Đoàn kịch nói Quân đội diễn vở Lời thề thứ 9, tôi háo hức đi ngay. Không có chỗ ngồi nên phải ghé ở ghế hàng cuối cùng. Cả rạp hát chăm chú theo dõi màn diễn như đang lắng theo nhịp sống của người chiến sỹ ngày đêm trấn giữ biên cương với tinh thần hy sinh chịu đựng mọi hy sinh gian khổ sẵn sàng, xả thân vì độc lập tự do của Tổ quốc nhưng cũng trăn trở lo lắng với nỗi lo chung của gia đình và hậu phương, sẵn sàng giúp đỡ đồng đội, đấu tranh chống tiêu cực trong xã hội... Tôi chưa được chứng kiến đêm diễn kịch nói nào tại thành phố mà cứ sau mỗi màn diễn, thậm chí sau mỗi tình tiết hay lại rộ lên những tràng pháo tay kéo dài khắp các hàng ghế. Ngay như tôi, đã hơn 30 năm làm anh bộ đội cụ Hồ qua hai cuộc kháng chiến mà không khỏi bức bối trước những kẻ lạm dụng chức quyền...". Tối ngày 8-4-1989, trong lúc cùng Đoàn lưu diễn, Quý Hải nhận được thư của một phó đoàn: "Lúc này là 3 giờ 10 phút chiều ngày 8-4-1989, Đội 1 đang diễn đến cảnh C trưởng trao thư của Hiến cho lái xe, như vậy chỉ còn nửa vở nữa là kết thúc buổi diễn và cũng là buổi diễn cuối cùng của Lời thề thứ 9. Đã có lệnh chính thức của Thủ trưởng Tổng cục Lời thề thứ 9 không bỏ nhưng dừng lại, các đoàn ngoài ai diễn mặc họ". Cho đến khi có lệnh dừng diễn, Kịch nói Quân đội đã diễn 300 đêm, trong đó hơn 60 đêm diễn cho bộ đội còn lại là diễn cho nhân dân, một kỷ lục chưa từng có của Đoàn kịch này
Sau cuộc gặp gỡ giữa Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với các văn nghệ sỹ tháng 10-1987, hoạt động văn hóa văn nghệ như được cởi trói. Lưu Quang Vũ viết tiếp Quyền được hạnh phúc và Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Hồn Trương Ba là câu chuyện dân gian kể về Trương Ba rất giỏi cờ và tốt bụng. Khi chết, hồn ông nhập vào anh hàng thịt mới qua đời để rồi sau đó có những chuyện vô lý xảy ra. Câu chuyện dân gian này đã được các cụ chuyển thành tuồng hài. Còn cha ông, nhà viết kịch Lưu Quang Thuận viết thành kịch nói nhưng viết dở dang thì đột tử khi đang xem vở Ê-rốt-xtát tại Nhà hát lớn. Vũ chấp bút phần còn lại và đạo diễn Nguyễn Đình Nghi dàn dựng cho Nhà hát kịch Trung ương. Khi Hồn Trương Ba, da hàng thịt ra rạp, trong giới hoạt động sân khấu chia thành hai phe. Phe ủng hộ trong đó có khán giả cho rằng đó là vở diễn hay, việc lấy cái nọ ghép vào cái kia một cách phi lý là trái quy luật tự nhiên sẽ dẫn đến hậu quả tiêu cực. Phe phản đối lại lý sự đó là vở diễn mang tính thương mại. Song mặc các ý kiến tranh luận trên báo,vở diễn thu hút đông đảo khán giả, đặc biệt là giới trí thức. Ròng rã trong nhiều tháng liền, Hồn Trương Ba, da hàng thịt đứng vững tại Nhà hát lớn. Năm 1990, Hồn Trương Ba, da hàng thịt tham dự Liên hoan sân khấu các nước XHCN ở Liên Xô, nhận được sự tán đồng của các đoàn tham dự. Năm 1998, vở được công diễn tại nhiều thành phố ở Mỹ.
Trước và sau Đại hội Đảng VI, tại Hà Nội, rất nhiều vở diễn có giá trị nội dung và nghệ thuật ra đời, cuốn hút đông đảo khán giả trong đó phải kể đến vở chèo Lý Nhân Tông kế nghiệp (tác giả Tào Mạt, Đoàn chèo Tổng cục Hậu cần). Tham dự hội diễn ở Vinh và dù Vinh không phải là đất chèo nhưng khán giả đã dỡ cả ngói ở rạp chui xuống xem. Lại có người từ đất chèo Thái Bình đi xe khách vào Vinh vật nài ban tổ chức cho xin chiếc vé. Khi đến đoạn Lê Văn Thịnh chôn sống hề hoạn, từ ban giám khảo đến khán giả đã khóc, rồi lại bật cười khi hề con xuất hiện và nói rằng hề này chết có hề khác mọc lên. Lý Nhân Tông kế nghiệp không đơn thuần diễn tả một ông vua mới chớm tuổi vị thành niên đã phải vượt qua nhiều thử thách mà thử thách lớn nhất về sự phản nghịch ngay trong triều đình của những kẻ vừa là thầy vừa là cận thần của mình. Vở chèo cũng là lời cảnh tỉnh đối với một số cán bộ tha hóa mất phẩm chất. Năm 1986, Nhà hát chèo Trung ương diễn Tô Hiến Thành xử án (tác giả Hà Văn Cầu), không đơn giản chỉ dẫn đến câu cuối cùng của người anh hùng trước khi chết: Hãy lấy dân làm gốc, Tô Hiến Thành xử án còn muốn nói làm cán bộ phải công bằng và vì dân. Cũng như Lý Nhân Tông kế nghiệp, Tô Hiến thành xử án, diễn liên tục mấy tháng trời ở Hà Nội. Thậm chí khi diễn ở Nam Định, có khán giả không có tiền mua vé đã mang hàng chục cây bắp cải cho đoàn làm thực phẩm, đổi lại được vào xem. Ngoài ra còn phải kể đến Nếu anh không đốt lửa (Nhà hát Kịch), tên vở kịch lấy từ thơ của Nazim Hecmet:
Nếu anh không đốt lửa
Nếu tôi không đốt lửa
Thì làm sao
Bóng tối có thể trở thành ánh sáng
Chỉ riêng tên vở cũng đã cho thấy cái cũ, cái lạc hậu vẫn còn thường trực trong suy nghĩ của không ít cán bộ và cũng từ cái tên ấy cho thấy Lưu Quang Vũ cổ súy cho đổi mới thế nào. Nếu anh không đốt lửa là câu chuyện về một thanh niên trước làm thủy thủ sau lên bờ làm công nhân ở xí nghiệp đóng tầu. Sau cuộc gặp bất ngờ với một cô gái có tính cách "nam nhiều hơn nữ", anh bị kích động và nảy ra ý định ứng cử vào ban lãnh đạo đúng lúc nhà máy đang thực hiện bầu cử tự do để thay thế lãnh đạo cũ. Cuối cũng, anh được công nhân ủng hộ. Vở kịch khiến khán giả suy nghĩ về lựa chọn những người lãnh đạo quản lý, những người có tư tưởng đổi mới và vì tương lai của đất nước.
PGS Tất Thắng, một nhà lý luận - phê bình sân khấu hàng đầu Việt Nam, lý giải về sân khấu thời kỳ này: "Sân khấu đã làm đúng chức năng khi đưa những vấn đề nóng bỏng trong cuộc sống lên sàn diễn, điều mà trước đó người ta chỉ dám nghĩ trong đầu hoặc thì thầm của nhóm người tin nhau". Còn nhà thơ, họa sỹ NSND Lê Huy Quang, người tham gia thiết kế mỹ thuật cho nhiều vở diễn trong mấy chục năm qua: "Khán giả không chỉ đến xem vở diễn mà còn xem đổi mới trong sân khấu thế nào".