Đại Việt sử ký chép, không kể người Trung Quốc, thì người nước ngoài đầu tiên ở Hà Nội được ghi nhận là Nậu Lạt Đinh (Nurad-Din) sứ thần nhà Nguyên, một tín đồ Hồi giáo tới Hà Nội tháng 2-1266. Tiếp đến là người Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp, Nhật, Ấn... Phần lớn người nước ngoài đến Việt Nam đều sinh sống ở thị xã hay các thành phố những nơi thuận tiện cho công việc làm ăn và cũng văn minh hơn, cởi mở hơn so các vùng quê. Hà Nội là mảnh đất mà họ luôn nhắm đến, vì thế số người Việt lấy chồng hay vợ người nước ngoài nhiều hơn các tỉnh thành.
Trung Hoa có đường biên giới với Việt Nam nên việc qua lại giữa hai dân tộc, đặc biệt ở vùng giáp biên, diễn ra cách đây hàng nghìn năm. Trong lịch sử, có những giai đoạn một số triều đại phong kiến Việt Nam khá cởi mở với việc người Hoa nhập cư nên số lượng người Hoa nhiều hơn các dân tộc khác trên thế giới sinh sống ở Việt Nam. Điều đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến đàn ông người Hoa lấy vợ Việt khá nhiều, dù từ trước tới nay chưa có con số thống kê nào được công bố. Ngược lại, phụ nữ Hoa lấy chồng Việt ít hơn có lẽ do phong tục của họ. Thời kỳ thực dân Pháp đô hộ Việt Nam, người Hoa di cư sang Việt Nam cũng không ít. Trên tập san Revue Indo-Chinois số 11 ngày 15-6-1904, nhà nghiên cứu Henri Tirard viết: "Từ lâu hình như người ta muốn làm mọi người tin rằng người Trung Quốc ở các thuộc địa của chúng ta bị đối xử tệ hơn các xứ xung quanh hoặc thuộc địa của các nước khác. Tuy nhiên, bằng các sự kiện chúng tôi muốn chứng minh rằng không hề có chuyện như vậy, ngược lại những người nước ngoài khi tới Đông Dương được hưởng những quyền không nơi nào có. Muốn thấy sự thực chỉ cần nhìn lên biểu đồ nhập cư vào Nam kỳ trưng bầy ở triển lãm Hà Nội. Nếu chính sách nhập cư của chúng ta phiền nhiễu như nhiều người nói thì số nhập cư vào thuộc địa của chúng ta lẽ ra phải giảm thay cho gia tăng như hiện nay. Không những thế, khi người Trung Quốc rời thuộc địa của chúng ta về thăm nước họ sao họ không nói bị đối xử cứ cho là tệ đi như thế nào". Dân số Hà Nội tính đến tháng 2-1905 là 80.844, trong đó có 2.665 người Pháp dân sự, 2.289 người Trung Quốc, 37 người Ấn Độ kiều dân Pháp, 74 người Ấn kiều dân Anh và 65 người Nhật. Trong đó có 380 con lai nhưng chủ yếu là con lai Trung Quốc. Trong Một chiến dịch ờ Bắc kỳ (Un campagne au Tonkin-Paris 1896), bác sỹ Hocquard viết "Người ta gặp ở Hà Nội rất nhiều đứa trẻ là kết quả của cuộc hôn nhân giữa đàn ông Trung Hoa và phụ nữ An Nam. Những đứa trẻ lai này rất thông minh và rắn rỏi. Mỗi thương nhân người Hoa đến Bắc Kỳ, khi khả năng tài chính cho phép, anh ta vội vã lấy thêm một hoặc nhiều vợ bản xứ. Những người dân thiên triều này cưới bao nhiêu vợ tùy theo sự tính toán cũng như sở thích. Mỗi người phụ nữ mà họ lấy về sẽ giúp họ trong việc buôn bán. Rất thành thạo về nhu cầu và ngôn ngữ bản xứ, các bà vợ đã giúp họ duy trì hoặc trông coi một trong số những cửa hàng mà họ thiết lập giống như những chi nhánh khác trên xứ Bắc Kỳ. Họ sáng tạo ra điều này và chỉ tốn một ít phí tổn cho những người chung sức đã đem lại kết quả và giúp họ vượt qua mọi thử thách. Ngoài ra nhiều thương gia này ở Trung Quốc đã có vợ và con, họ sẽ để lại một cửa hàng buôn bán mà họ đã gây dựng cho những người bạn gái bản xứ như một món quà kỷ niệm".
Người phương Tây đến Việt Nam đầu tiên là buôn bán, sau đó các nhà truyền giáo theo chân các nhà buôn và cuối cùng là xâm lược. Trong cuốn Lịch sử Hà Nội, nhà sử học người Pháp Philippe Papin viết: "Ít lâu sau khi đặt chân đến Macao vào năm 1557, người Bồ Đào Nha đến mở thương điếm buôn bán tại Việt Nam và sau họ là người Hà Lan và người Anh. Nhờ sự can thiệp của Công ty Đông Ấn Hà Lan, người Hà Lan đã đặt được hai chi nhánh tại Việt Nam, một tại Faifo (Hội An) và một tại phố Hiến (nay thuộc Hưng Yên). Nhưng do thái độ thiếu thiện chí của nhà Nguyễn, bốn năm sau, người Hà Lan đã buộc phải chuyển toàn bộ ra hoạt động ở Đàng ngoài". Cũng như công ty Đông Ấn Anh, công ty Đông Ấn Hà Lan mở thương điếm để bán thuộc súng, vũ khí, đồ dùng kim loại... và thu mua tơ, quế và các đồ thủ công mỹ nghệ. Việc công ty Đông Ấn Hà Lan phải chuyển ra đàng ngoài có lý do, trong cuốn sách Tường trình về Đàng ngoài, linh mục Alexandre de Rodes viết: "Chúa Đàng ngoài đã cầu cứu các thương gia người Hà Lan khi ấy đã chiếm đóng Java (Indonesia), xin cung cấp cho một số tàu và người Hà Lan đã đồng ý vì biết vua chúa Đàng ngoài cần những tàu đó để tiến đánh chúa Đàng trong". Được người Hà Lan giúp đỡ nên năm 1645, họ được chúa Trịnh đồng ý cho mở một cơ sở thương mại ở Thăng Long, cơ sở này do Hendrick Baron làm giám đốc vào năm 1663. Baron lấy vợ người Kẻ chợ và bà này đã đẻ cho Baron một đứa con trai tên là Samuel Baron. Như vậy người phương Tây đầu tiên lấy vợ Việt Nam là Baron. Samuel Baron lớn lên ở Thăng Long rồi làm việc cho công ty Đông Ấn Hà Lan nhưng không hiểu vì lý do gì đã chuyển sang làm cho công ty Đông Ấn Anh quốc và nhập quốc tịch Anh. Bực bội trước việc này, người Hà Lan thời kỳ đó gọi Samuel Baron là kẻ phản quốc. Samuel thông minh, mấy chục năm sống và làm việc ở Đàng ngoài đã giúp anh ta hiểu biết kỹ càng xứ này. Nhờ hiểu biết sâu sắc cùng những trải nghiệm nên Samuel đã viết cuốn A Description of the Kingdom of Tonqueen (Mô tả vương quốc xứ Đàng ngoài). Đây là một cuốn sách mà cho đến bây giờ vẫn còn nguyên giá trị. Không những thế, Samuel còn bác bỏ những điều chưa đúng của J.B. Taverniere, tác giả cuốn Du ký mới và kỳ thú về vương quốc Đàng ngoài (xuất bản năm 1681-Paris). Ông nhìn quê mẹ của mình theo tư duy của người phương Tây nhưng không có sự khinh miệt người Việt .
Trong bài Eurasien đăng trên Tạp chí Indochine hebdomadaire illustre năm 1943, hai tác giả, một người Pháp là H.Huard và một là người Việt - bác sỹ Đỗ Xuân Hợp viết: "Những người lai Âu - Á xuất hiện từng đợt liên tiếp nhau. Từ thế kỷ 16 đến 18 chỉ có vài người mà chỉ các chuyên gia mới biết tên tuổi, cha của họ hầu như là người Bồ Đào Nha, Anh, Hà Lan. Trong trường hợp ngược lại thì có Lê Thần Tông (1607 - 1662) là vị vua hiếm có trong lịch sử 108 vua chúa Việt Nam, có sáu vợ thì bốn bà là người ngoại quốc". Người vợ đầu tiên của Lê Thần Tông là người Việt, bà tên là Trịnh Thị Ngọc Trúc, vợ thứ hai là người Thái, vợ thứ ba là người Mường (ở đây, H.Huard và bác sỹ Đỗ Xuân Hợp coi bà vợ người Mường của vua Lê Thần Tông là "người ngoại quốc" là không chính xác), vợ thứ tư là người Hán, vợ thứ năm người Lào và vợ thứ sáu là người Hà Lan tên là Onrona nhưng đẻ ở Triều Tiên. Trong chuyến cùng thương đoàn Hà Lan sang Việt Nam vào năm 1630, Onrona gặp vua Lê Thần Tông ở kinh thành Thăng Long. Có lẽ vì lợi ích quốc gia nên cha Onrona đã khuyên con ở lại làm phi vua Thần Tông. Tương truyền, sáu pho tượng nhập thần của sáu bà vợ vua Lê Thần Tông ở chùa Mật Sơn (Thanh Hóa) là do sáu bà cùng lòng cùng sức bỏ tiền công đức ra làm, với nguyện ước mãi mãi bên nhau. Trong đó, tượng hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc ngự trên tòa sen, các bà khác đội vương miện trong tư thế tọa thiền. Mỗi pho tượng thể hiển một nét khác nhau và trang phục của mỗi người là y phục của dân tộc mình. Đặc biệt, váy áo của tượng thứ phi Onrona mang dấu ấn phương Tây bởi cổ áo trễ xuống để lộ một mảng ngực. Năm 1959, năm pho tượng vợ vua Lê Thần Tông đã được rước về đền nhà Lê - di tích lịch sử được xếp hạng cấp Quốc gia chỉ cách chùa Mật Sơn (phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa) chừng hơn cây số. Riêng tượng bà Trịnh Thị Ngọc Trúc được đưa về Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Đến triều Nguyễn,có ba ông vua lấy vợ "đầm" là Hàm Nghi (1884-1888), Duy Tân (1907-1916) và Bảo Đại (1926-1945).
Cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19 những người bạn của giám mục Pigneau de Béhaine (người Việt Nam gọi là Bá Đa Lộc) là cha của lớp thứ hai mà rõ nhất là hậu duệ Chaigneu và Vanier (hai người này tình nguyện giúp Nguyễn Ánh chống nhà Tây Sơn). Trong những cuộc hôn nhân với người Âu lớp thứ ba phải kể đến cô Tư Hồng có chồng là viên quan tư Croibies trong quân đội Pháp.
Cô Tư Hồng tên thật là Trần Thị Lan quê làng Thành Thị huyện Bình Lục thời đó thuộc Hà Nội (nay thuộc tỉnh Hà Nam). 17 tuổi bị ép làm nàng hầu chánh tổng, do chênh lệch tuổi tác, cô bỏ trốn sang Nam Định rồi ra Hải Phòng đi ở cho một mụ chủ khách. Sau đó lấy chủ hiệu buôn người Hoa tên là Hồng nên người ta gọi là thím Hồng. Ít lâu sau chú Hồng vỡ nợ phải trốn về Trung Quốc bỏ cô bơ vơ một mình ở Hải Phòng. Thím gặp bạn gái là me Tây tên nôm là cô Ba La-vích, cô này khuyên thím nên lấy chồng Tây và dạy thím nói tiếng tây theo lối diễn ca thực hành.
Tôi đi là Moa a lê (Moi aller)
Rê vây (Ré veille ) thức dậy, cu sê (Coucher) đi nằm
Toa (Trols) 3, cát (Quatre) 4, sanh (Cinq) 5
Sa loong (Salon) phòng khách, la săm (La chambre) cái buồng
Rồi thím lên Hà Nội giao du với đám me Tây và làm nghề tú bà. Tết chính trung 1892, trong một bữa tiệc nhà quan ba La-vích, cô Ba đã giới thiệu thím với với quan tư Croibies. Thế rồi chỉ sau một thời gian ngắn, hai người lấy nhau. Từ gái nhà quê, cô trở thành bà quan tư. Lẽ ra theo tục của người Việt, người ta phải gọi là cô Tư Lan mới đúng nhưng có lẽ do thâm ý muốn moi đòi tư không mấy đẹp đẽ nên thiên hạ lại gọi là cô Tư Hồng.
Thành phố Hà Nội được lập nên thành nhượng địa Pháp theo đạo dụ ngày 1-10-1888 vì thế các quy định của nhà Nguyễn không có giá trị với thành phố này. Để xóa văn hóa Việt ở Hà Nội nhưng núp dưới chiêu bài mở mang, xây dựng thành phố, Hội đồng thị chính đã họp và đi đến quyết định đập bỏ Bắc Thành để xây trại lính và ngày 28-7-1893, đã ra quyết định chính thức. Việc phá dỡ thành được mang ra đấu thầu, và dù nhiều thầu khoán có tiềm lực kinh tế lại quen việc tham gia nhưng nhờ thế lực chồng cùng với mẹo bỏ giá thấp nhất nên Tư Hồng trúng thầu. Cô cho người về các vùng quê nghèo khó mộ phu, ai tuyển được nhiều cô thưởng, vì thế chỉ trong một thời gian ngắn cô đã có trong tay cả đội quân hùng hậu chấp nhận tiền công bèo bọt. Lúc cao điểm, có trên 1000 người ở công trường, nhờ đó mà cô đảm bảo cam kết về thời gian với Hội đồng thị chính. Đến hết năm 1896, bốn bức tường quanh thành đã phá dỡ xong chỉ còn trơ lại cửa Bắc và kỳ đài. Hào nước cũng đã lấp kín. Sẵn vôi, gỗ, đá, gạch... Tư Hồng lại chuyển sang nhận thầu xây nhà cho nhiều người. Cô dành nguyên liệu tốt nhất xây cho mình một biệt thự có vườn hoa, lầu vọng nguyệt ở giữa làng Hội Vũ (nay là ngõ Hội Vũ). Một nhà Nho đi qua thấy thành tan hoang mà nhà cô Tư Hồng cao ngất đã ngậm ngùi
Than ôi! Đệ nhất cảnh Thăng Long
Vượng khí nghìn năm có nữa không?
Hai cửa còn trơ hai thánh miếu
Một thành sót lại một hoàng cung
Nhường ngao ngán nỗi công ông Bạch
Cũng ghê gớm cho của chị Hồng
Còn biết đây là nền đế bá
Than ôi! Đệ nhất cảnh Thăng Long
Giầu có nhưng Cô Tư Hồng có lòng thương người, nơi nào trên cõi Việt Nam bị mất mùa, bão lụt, cô đều cho chở gạo đến cứu tế. Không thấy tài liệu nào nói về con cái và cuối đời cô ra sao.
Vợ Tây giỏi làm ăn phải kể đến cô Thành Thị Thảo (còn gọi là Laoa) , người làng Bạch Mai có chồng là Leroy, một viên sỹ quan trong thành có thế lực với chính quyền vì thế Laoa trở thành thấu khoán. Khi đê Cơ Xá (khu vực phường Tứ Liên hiện nay) bị nước sông Hồng phá vỡ, Laoa trúng thầu đắp đoạn này còn đoạn đê An Dương là Bạch Thái Bưởi. Laoa còn mua đất ở các vùng xa trung tâm như Bạch Mai, Đại La, sau đó xây nhà cho thuê. Khi trúng thầu xây dựng bãi Quần Ngựa, phu đào đất phát hiện ra nhiều đồ gốm cổ, gạch cũ và đồ đồng, Laoa đã mang đi giấu hết.
Số nhà 74 phố Hàng Bạc là một ngôi nhà khá đặc biệt. Đó là nhà cô Bé Tí. Sở dĩ người ta gọi như vậy không phải vì cô tên là Bé Tí hay người cô quá nhỏ mà ông chồng người Pháp tên là Petit nên thiên hạ gọi theo phiên âm nửa Pháp nửa Việt là Bé Tí. Cô Bé Tý tên thật là Vũ Thị Tý sinh ra trong gia đình nông dân, năm 13 tuổi cô bị thất lạc và được vợ chồng viên công sứ Hưng Yên cưu mang, cho ăn học. Càng lớn cô càng mơn mởn, tuy không đẹp nhưng cô có thân hình rất gợi cảm vì thế cô luôn cuốn hút cánh đàn ông. Với hơn 20 chục người tình và chồng, cô không làm cho ai thất vọng, và đổi lại họ cũng chu cấp cho cô tiền bạc và những đồ vật mà cô muốn. Mối bận tâm lớn nhất mỗi ngày của cô là làm sao để những người tình vẫn gặp cô mà không chạm mặt nhau. Bé Tí chuyên nghề mối lái tìm vợ cho Tây, nhưng cô được biết đến nhiều do nhà cô có điện thờ lộng lẫy, lại có cả một chuồng thú lạ: Gà bốn chân, lợn hai mõm, chim một chân, tức là toàn những thứ lạ trên đời. Gác cửa nhà cô là hai vợ chồng anh lùn tịt. Nhạc sỹ Phạm Duy kể rằng hồi bé ông cũng hay sang đây xem các con thú vì nhà ông cũng gần. Ngày ấy về Hà Nội đi xem nhà Gordar (Bách hóa Tổng hợp sau này và nay là Trung tâm Thương mại Tràng Tiền), chợ Đồng Xuân, mà chưa đến nhà "cô" thì chưa gọi là xem đủ kỳ quan của Hà Nội. Cô Bé Tí mất năm 1941.
Hiệu bán đồ trang sức giả vàng Mỹ Ký 118 Hàng Bông nổi tiếng gần xa. Không chỉ bán tại các chợ Hà Nội, đồ Mỹ Ký còn lan về các tỉnh, làm ra không đủ bán. Cho đến bây giờ, Mỹ Ký trở thành danh từ chỉ đồ trang sức làm giả vàng bạc. Chủ Mỹ Ký tên là Khang, cô Khang lấy chồng Pháp, anh này là kỹ sư hóa đã nghĩ ra cách chế hợp kim giả vàng. Khi chồng về nước, cô Khang lấy một người Tầu, cả hai hùn vốn cùng làm ăn. Không biết thực hư thế nào nhưng hồi đó lan truyền khắp Hà Nội, Khải Định lúc vi hành đã từng làm công cho Mỹ Ký.
Theo thống kê, viện binh Pháp đến Bắc Kỳ tháng 12-1883 là 9000 người, đầu 1884 là 15000 và 7-1885 là 40.000 trong đó ở Hà Nội suốt gần nửa thế kỷ luôn có 1500 lính. Trong tổng số lính đóng ở Bắc Kỳ và Hà Nội phần lớn là thanh niên độc thân. Đám lính Tây thì hừng hực trong khi đó không ít các cô khó khăn về kinh tế vì thế nhà thổ xuất hiện ở các phố nhỏ: Đình Ngang, Yên Thái, Ngọc Hà, Yên Ninh, Gầm Cầu… Đồng thời các cô lấy Tây cũng túm lại ở một chỗ và người ta gọi là xóm me Tây. Một số ít lấy được sỹ quan nên không vất vả, các cô lấy lính lương thấp phải làm thêm nghề dắt gái hay mối lái lấy Tây. Ở phố Ngọc Hà có trên 30 nóc nhà (từ số 44 đến 110) và ba ngõ nhỏ có xóm me Tây, họ sống dựa vào lính tráng người Âu - Phi đóng ở trong thành và thay đổi chồng theo thời hạn đóng quân của những người lính ngoại quốc này. Năm 1930, toàn quyền Pháp cho mở trường Sarrau ở Hà Nội dành cho con cái người Pháp, con nhà giầu người Việt có 841 học sinh trong đó có 68 con lai. Trẻ con lai mồ côi cha và không có người Pháp đỡ đầu cũng được học trường riêng, trường Riquier (đầu phố Nguyễn Du) dành riêng cho con gái, còn con trai học ở Sergent Larrivee’ (đầu phố Nguyễn Công Trứ hiện nay). Năm 1943, chính quyền đưa ra số con lai Âu - Á trên toàn cõi Đông Dương là vào khoảng 6000, nhưng thực tế chắc chắn cao hơn nhiều, trong đó số con lai tại Hà Nội ước chừng 170. Nhiều lính Tây giải ngũ không về nước ở lại Hà Nội lấy vợ Việt rồi buôn bán sinh sống. Có vợ Tây là nặc nô, ví như vợ Đội Chóp cứ rượu say là ra quán cơm phố Hàng Hài (nay là đầu phố Hàng Bông) biểu diễn các lối khóc và các kiểu chửi nhau với con nợ.
Phụ nữ lấy Tây trắng hay Tây đen không phải tất cả vì tiền, mà còn do nguyên nhân khác. Báo Tri tân năm 1942, có bài viết của Doãn Kế Thiện thuật lại chuyện một cô gái Việt ở Ngọc Hà lấy chồng Tây để báo thù một cường hào đã bức tử người cha của mình. Trong nhà cô có điện thờ Phật và một nhà Nho đã tặng đôi câu đối khá hay:
Túc đế vãn cung như ý Phật.
Kỳ duyên tiểu ngộ cập bì tiên
(cập bì tiên là phiên âm từ Capitaine - Đại úy).
Lại có nhưng ông Tây rất chiều vợ như Phó Đốc lý bầu Lagisquet,ông này là kiến trúc sư.Cô vợ người Việt đòi chồng xây cho biệt thư kiểu Trung Hoa ở phố Hòe Nhai,Lagisquet kỳ công nhập khẩu đồ sứ,đồ đồng và gỗ điêu khắc,tự thiết kế và giám sát xây dựng.Cổng chính kiểu Á đông có hình người và hoa lá rất cầu kỳ.Thời kỳ tạm chiếm,biệt thự này là dinh của đại diện cho chính phủ Tầu Tưởng.Nó được bảo quản tốt cho đến năm 1954 nhưng sau đó thì tan hoang khi người dân vào ở. Có một câu chuyện cảm động về một người con lai ở Bờ Biển Ngà tên là Jansen Moutti nhiều năm cất công đi tìm người mẹ Việt Nam, nữ quân báo Nguyễn Thị Loan. Từ thời niên thiếu, Nguyễn Thị Loan đã tham gia đội du kích của làng Phương Liệt (nay là phường Phương Liệt, quận Thanh Xuân), sau đó biên chế vào trung đội Nguyễn Huệ thuộc Đại đội 298, Tiểu đoàn 250A, Trung đoàn 35. Do có nhan sắc nên Loan được chọn vào tiểu đội quân báo, với nhiệm vụ đưa tin tức kháng chiến từ Phương Liệt vào nội thành và lấy thông tin từ đồn, bốt địch đóng ở nội thành. Cuối tháng 1-1950, giặc càn, phần lớn chiến sỹ của trung đội Nguyễn Huệ bị sa vào tay giặc, trong đó có Nguyễn Thị Loan. Dùng tất cả những hình thức tra tấn dã man nhưng quân Pháp không khai thác được gì. Chính bởi sự gan dạ ấy mà từ trong chốn lao ngục, Loan được một người lính da đen vô cùng ngưỡng mộ, cảm kích. Biết không moi được thông tin gì từ Loan, quân Pháp định đem cô ra hành quyết trước đình làng để thị uy. Thế nhưng, việc xử bắn bị bãi bỏ vì người lính da đen kia nằng nặc xin với chỉ huy để anh ta có cách khuất phục Loan. Và, cũng chính nhờ sự bảo lãnh của người lính da đen ấy, Loan được thả tự do. Thoát khỏi chốn lao tù được ít lâu, Loan nhận được lời đề nghị cầu hôn từ người cứu mạng mình. Cảm kích vì nghĩa, lại thêm suy nghĩ đây sẽ là cơ hội tốt cho công việc và được sự đồng ý của tổ chức, Loan đã nhận lời. Làm "me Tây", Loan phải chịu rất nhiều điều tiếng. Thế nhưng, cũng chính từ những ngày "theo chồng" ấy, những thông tin về hàng ngũ địch được cô chuyển cho cơ sở. Hai người sinh được một con trai, và vào ngày những người lính lê dương rút khỏi Việt Nam, chồng cô đã mang theo đứa bé về Bờ Biển Ngà. Còn cô không thể theo chồng bởi còn là chiến sỹ quân báo. Dù hoàn thành nhiệm xuất sắc nhiệm vụ nhưng Loan vẫn không cách nào "gột rửa" được những tiếng "xấu". Cuối năm 1954, cô ra quân và đầu năm 1955 xuống Hải Phòng lên tầu vào Nam, từ đó người Phương Liệt không biết cô ở đâu, sống chết ra sao. Thậm chí khi biết tin con trai từ Bờ Biển Ngà sang thăm, cô Loan nay thành bà Loan cũng bối rối vì sợ chồng sau và cô con gái biết... Ngày 7-5-2002, sau 50 năm xa cách, Jansen Moutti đã gặp lại mẹ và cũng biết mình có một người em gái khác cha. Jansen đưa mẹ và em đến Bờ Biển Ngà, ngày 15-5-2002, người chiến sỹ quân báo năm xưa đã gặp lại người cứu tinh cũng là người chồng sau 48 năm. Cuộc nội chiến xảy ra ở Bờ Biển Ngà khiến họ phải xa nhau. Người mẹ quay trở lại Việt Nam.
Những cuộc tình chóng vánh đã để lại hậu quả mà nhà văn Nguyễn Công Hoan đã viết trong truyện ngắn Oẳn tà oằn. Truyện đăng trên Phổ thông bán nguyệt san số 13, ra ngày 1-12-1937, có đoạn kết như sau "Nguyệt nhắm nghiền đôi mắt lại, vắt tay lên trán để che mặt. Bắc nhìn kỹ cái tóc, cái mặt, cái mũi con... Rồi giở bọc ra ngắm cả người thằng bé... Ngắm xong, bọc cẩn thận trả lại, chàng từ từ lui ra, thở dài một cái rõ dài, nét mặt thất vọng. Té ra thằng bé con chàng mà nước da lại đen như cột nhà cháy! Vậy nó không phải con Rồng cháu Tiên. Nó là giống "Oẳn tà roằn" không biết chống gậy". Vũ Trọng Phụng thì có Kỹ nghệ lấy Tây. Cuốn tiểu thuyết 10 chương này làm sống dậy cả lịch sử hình thành và phát triển của nghề lấy Tây. Hơn 70 năm trước, lấy Tây là chuyện động trời bởi lấy Tây là đồng nghĩa với thực dân, kẻ cướp nước. Phụ nữ lấy Tây bị khinh miệt bị xếp vào hàng đĩ điếm vì ngoài chạy theo đồng tiền và nhục dục, lấy Tây là lấy"giặc". Ngày nay nhìn lại, phần lớn trong số họ đáng thương hơn đáng trách bởi xã hội nửa Tây, nửa ta xô đẩy họ.
Thời bao cấp, từng có chuyện lấy vợ đầm mà người đứng đầu chính phủ phải viết thư tay can thiệp. Đó là chuyện của anh Đô và một cô gái Thụy Điển. Khi còn là sinh viên, chị đã xuống đường biểu tình phản đối cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Tốt nghiệp đại học cũng là lúc chính phủ Thụy Điển giúp đỡ Việt Nam xây dựng Nhà máy giấy Bãi Bằng ở Phú Thọ, chị đăng ký làm việc cho dự án này. Việt Nam hấp dẫn chị ngay từ ngày đầu bởi phong cảnh và cuộc sống khá thanh bình. Người dân chị gặp ngoài đường tuy tò mò nhưng thân thiện hay cười. Song chị nhận ra rằng, nếu gần họ hơn thì nụ cười trên môi lập tức biến mất và có thái độ lảng tránh. Những câu hỏi xuất hiện trong đầu nhưng chị chưa tìm được lời giải thích thuyết phục. Còn anh Đô học đại học ở Tiệp Khắc, về nước làm việc ở Bộ Ngoại giao. Đẹp trai, dáng vẻ rất đàn ông nên anh dễ dàng quen với một số giáo viên người Tiệp đang dạy ở Đại học Ngoại ngữ. Anh thường xuyên cùng đám bạn Tây uống bia và trong một lần tụ tập, anh gặp chị. Từ quý mến dẫn đến tình yêu, nhưng thời điểm năm 1980, chuyện yêu người nước ngoài là không dễ, lại càng khó với một công chức ngoại giao. Nhưng với tình yêu, dù ở đâu trên trái đất này cũng giống nhau và "Chỉ có cái chết mới chia lìa lứa đôi". Ở khách sạn Thống Nhất (nay là khách sạn Metropole phố Ngô Quyền), tối tối chị đứng bên cửa sổ nhìn xuống đường Ngô Quyền như nàng Juliett ngóng chờ Romeo trong vở bi kịch nổi tiếng mọi thời đại "Romeo và Juliett" của Shakespear, quan sát xem người yêu có đi qua hay không. Muốn rủ chị đi chơi, anh đạp xe đạp qua khách sạn, từ cửa sổ, chị nhìn thấy sẽ lặng lẽ đạp xe theo sau. Hai người thường xuyên ra quán cà phê ở góc ngã tư phố Hàng Dầu - Lò Sũ. Ngồi chung bàn và đối diện nhau nhưng không nói chuyện bằng lời mà chỉ bằng ánh mắt. Nếu trao đổi bằng tiếng Anh thì sau đó thế nào anh cũng bị ai đó "hỏi thăm". Trước lúc chia tay, cả hai bí mật luồn tay xuống gầm bàn trao thư. Có lần hẹn nhau ở Bờ Hồ, chị phải ăn mặc như phụ nữ Việt Nam, để che bộ tóc bạch kim, phải đội nón dù trời không mưa. Lén lút trao nụ hôn mà mắt vẫn phải liếc xung quanh. Tình yêu kiểu như vậy kéo dài gần hai năm. Khi chị đặt vấn đề cưới, anh lảng tránh. Chị không hiểu còn anh lại không thể giải thích cho chị là công chức ngoại giao không được lấy vợ hay lấy chồng người nước ngoài. Chị tìm đến chỗ mẹ anh (mẹ anh là nhân viên văn phòng của ông Nguyễn Cơ Thạch - thời kỳ này ông Nguyễn Cơ Thạch là Thứ trưởng Bộ Ngoại Giao) để hỏi cho ra nhẽ, song bị bà lờ tảng. Khi đã hiểu được vấn đề, chị quyết định viết thư cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Người dịch bức thư sang tiếng Việt tên là Thắng. Bức thư khá dài với nội dung chủ yếu là hai người cùng yêu đất nước Việt Nam, và một cô gái Thụy Điển yêu rồi muốn lấy một chàng trai người Việt đâu có gì là tội lỗi. Đọc thư, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có ý kiến với cơ quan anh để hai người lấy nhau. Tuy nhiên lại có rắc rối, cơ quan yêu cầu anh làm đơn tự nguyện xin ra khỏi ngành nhưng anh từ chối với lý do yêu người nước ngoài không phải là khuyết điểm. Cuối cùng anh cũng ra khỏi ngành sang dạy tiếng Tiệp hợp đồng ở một trường đại học. Báo chí Thụy Điển khi biết chuyện tình này rất muốn khai thác nhưng anh từ chối cung cấp thông tin. Họ cưới nhau vào năm 1982. Lễ cưới được tổ chức tại hội trường Ủy ban nhân dân quận Ba Đình (phố Nguyễn Thái Học - nay là Đại sứ quán Isarael). Đám cưới thu hút khá đông những người đi đường khi họ thấy cô dâu Tây mặc áo dài. Cưới xong anh chị về Thụy Điển. Năm 1985, chị lại ký hợp đồng làm việc cho Nhà máy giấy Bãi Bằng, cả hai lại về Việt Nam. Khi ấy đất nước đã vào thời mở cửa, mọi chuyện dễ dàng hơn. Anh chị lúc ở Thụy Điển, lúc Việt Nam. Khi Chính phủ Thụy Điển mở văn phòng Tổ chức cứu trợ trẻ em tại Hà Nội, anh Đô làm việc cho tổ chức này. Cả gia đình lại sinh sống ở Hà Nội. Đầu năm 2007, chủ quán cà phê ở góc Hàng Dầu - Lò Sũ, trong một lần dạo chơi nhận ra anh, đã nói đùa: "Hồi đó tôi biết ông bà ngấm ngầm trao thư, tôi mà báo công an thì ông toi!".
Bây giờ chuyện lấy chồng nước ngoài dễ dàng và ngày càng nhiều. Ông Nguyễn Việt Hùng, hiện là giám đốc công ty truyền thông VietGate, người từng làm báo sau đó làm cho rất nhiều các công ty nước ngoài kể rằng, ông được nghe những câu chuyện tuy khác nhau nhưng nội dung khá giống nhau: phụ nữ Việt Nam cũng như Colombia rất hấp dẫn, và đàn ông phương Tây chưa vợ thường chọn phụ nữ Việt Nam, nếu đã có vợ rồi cũng rất dễ chia tay để đến với các cô gái Việt Nam