Từ biểu diễn ở sân đình đến rạp hát là bước tiến quan trọng trong quá trình phát triển các hình thức nghệ thuật truyền thống của Việt Nam. Mặt khác việc ra đời rạp hát cũng làm thay đổi thói quen thưởng thức nghệ thuật của người dân, khi Hà Nội được đô thị hóa theo kiểu phương Tây vào đầu thế kỷ XX.
Theo các nhà nghiên cứu lịch sử nghệ thuật truyền thống Việt Nam, hát chèo xuất hiện vào thời Lý, tuồng ra đời vào triều Trần, ca trù thì có hai nhận định khác nhau. Một số cho rằng ca trù có từ thời Lý, số khác lại cho rằng loại hình nghệ thuật dân gian này bắt đầu từ thời Lê Sơ và phát triển đến đỉnh cao ở Thăng Long nhờ hát nói. Ban đầu, tuồng là nghệ thuật cung đình nên chỉ diễn ở trong triều cho vua quan thưởng thức nhưng sau đónhững tích tuồng cũng được diễn cho dân chúng xem và như ca trù, chèo, hát xoan... uồng được diễn tại miếu, đền hay hững bãi đất trống ở chợ, bến sông, những nơi có nhiều người qua lại. Do ca trù thường được hát tại cửa đền còn được gọi là hát cửa đền. Cho đến hôm nay, lễ hội phồn thực Trò Trám với các điệu hát xoan ở xã Tứ Xã, Lâm Thao, Phú Thọ vẫn diễn ra ở miếu.
Nhưng địa điểm công diễn bắt đầu thay đổi khi những quán nghỉ của làng dần biến thành đình. Rất khó xác định ngôi đình nào ra đời đầu tiên ở Việt Nam song hầu hết các nhà nghiên cứu lịch sử và kiến trúc đều thống nhất, đình làng xuất hiện vào thời Lê Sơ và định hình vào triều Mạc do sự ảnh hưởng của Nho giáo vốn phát triển mạnh trong giai đoạn này. Song dấu vết sớm nhất của việc thờ cúng thành hoàng ở đình làng chỉ thấy từ thế kỷ XVI. Từ khi có đình thì các trò diễn xướng,hát chèo, diễn tuồng,ca trù... chuyển từ đền, miếu sang đình. Thế nên ca trù mới sinh ra hát lễ với các điệu vẫn còn tồn tại đến ngày nay và người ta gọi là hát cửa đình. Việc chuyển từ hát ở miếu,đền những nơi có mặt bằng chật hẹp ra sân đình theo các nhà nghiên cứu nghệ thuật dân gian thì sân đình rộng rãi và ở vị trí thuận tiện hơn. Làng có nghèo nhưng do đình là bộ mặt nên sân bao giờ cũng được lát gạch Bát Tràng. Sau nhiều thế kỷ, đình làng tồn tại với ba chức năng:hành chính (nơi họp hội của các kỳ mục trong làng), tín ngưỡng ( thờ cúng thành hoàng) và sinh hoạt văn hóa văn nghệ (hội hè, các trò chơi dân gian, mời các gánh hát về biểu diễn). Và tất nhiên sân đình ở các làng trong 36 phường của kinh đô Thăng Long là nơi thuận tiện nhất cho các sinh hoạt nghệ thuật bởi Thăng Long không chỉ là nơi nghệ thuật phát triển mạnh mà dân cư còn đông đúc, đó là điều kiện tốt cho các phường hát thu hút người xem. Các phường ở Thăng Long không chỉ có đình thờ thành hoàng mà còn có đình để dán niêm yết các pháp lệnh, cáo thị của triều đình và dùng làm nơi yết bảng các vị tiến sĩ tân khoa trong một số khoa thi, đó là đình Quảng Văn. Theo sử liệu, vua Lê Thánh Tông cho xây dựng đình này vào năm 1491. Đình được xây ở mé ngoài cửa Đại Hưng (cửa phía Nam thành Thăng Long-nay là khu vực vườn hoa Cửa Nam) và theo mô tả của Bùi Xương Trạch trong Bài ký Quảng Văn đình soạn năm 1493 thì "lầu phượng cao ngất phía trước, thành rồng bao quanh ở ngoài, ngòi nước và đường dân vệ ở quanh tả hữu". Thời Nguyễn, đình Quảng Văn được đổi tên thành đình Minh Chiêu rồi Quảng Minh làm nơi niêm yết giấy tờ của bộ máy cai trị tỉnh Hà Nội. Dưới triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức các quan tỉnh hàng tháng thường họp các bô lão, hương chức trong tỉnh tại đây để nghe giảng thập điều (10 điều trung hiếu tiết nghĩa). Và để những niêm yết có nhiều người xem, các triều vua đã cho phép các phường hát biểu diễn ở Quảng Văn. Nhiều ngôi đình ở đất Thăng Long-Hà Nội còn tôn thờ những người có công lập ra nghiệp hát làm thành hoàng như đình thờ tổ ca trù ở Lỗ Khê (huyện Đông Anh), Mỹ Đình (huyện Từ Liêm). Đình Đông Ngạc (huyện Từ Liêm) còn dấu tích của Lê Đức Mao (sinh năm 1462) là người đầu tiên sáng tác ca trù bằng chữ Nôm và bài Bát giáp thưởng đào văn được hát tại đình làng này.Còn ở 17 phố Hàng Chai (quận Hoàn Kiếm) trước năm 1945 vần tồn tại một ngôi đình thờ tổ sư nghề hát ả đào. Đầu thế kỷ XX, ngôi đình này có mặt bằng khá rộng trước cổng có dòng chữ "Lạc thiên đình", hai bên có đôi câu đối. Vào ngày 13-1 âm lịch hàng năm, những người hát ả đào đất Thăng Long kéo nhau về đây, trước là làm lễ giỗ tổ sau là tổ chức thi hát. Cái hay của sân khấu sân đình chính là sân khấu bốn mặt, người xem quây xung quanh và giữa họ với các nghệ sỹ dân gian có sự giao lưu trực tiếp. Điều này dễ dàng làm cho người xem cảm nhận ngay được cái hay cái dở của đêm diễn và nó buộc các nghệ sỹ phải không ngừng tu luyện nghề nghiệp.
Khi thực dân Pháp đánh chiếm Đà Nẵng năm 1858 và sau đó chiếm các tỉnh Nam Bộ rồi đánh thành Hà Nội lần thứ nhất vào năm 1873 nhưng phải đến lần thứ 2 là năm 1882 thì mới chiếm được thành. Tiếp theo đó Pháp đánh chiếm các tỉnh Bắc Bộ, chiếm vùng trung du và miền núi phía Bắc làm xã hội Việt Nam có sự thay đổi lớn. Tại Hà Nội,thực dân Pháp bắt đầu qui hoạch và phát triển thành phố theo mô hình phương Tây, Pháp cho người đốt nhà lá ở quanh khu vực hồ Gươm rồi tung tin là hỏa hoạn rồi buộc họ phải xây nhà gạch. Hàng hóa của nước ngoài bắt đầu xuất hiện khiến việc buôn bán tấp nập hơn, điều này báo hiệu ra đời tầng lớp thị dân mới của Hà Nội. Một thay đổi lớn trong biểu diễn nghệ thuật là sự ra đời của rạp hát đầu tiên theo kiểu của phương Tây, nghĩa là có sàn diễn, có ghế ngồi xuất hiện ở phố Hàng Cót (nay là trường Tiểu học Thanh Quan). Rạp Hàng Cót xây năm 1887 do một công ty của Hoa kiều bỏ tiền nhưng đứng tên lại là Nico, viên bác sỹ người Pháp. Rạp Hàng Cót chuyên cho các gánh tuồng từ Tầu qua diễn, thỉnh thoảng ở rạp cũng có các nhóm nhạc từ Pháp sang biểu diễn. Ghế ngồi là ghế băng, ánh sáng ban đầu là nến sau đó chuyển sang đèn dầu. Tiếp theo rạp Hàng Cót là rạp của nhà Thông Sáng ở phố Lương Văn Can với cái tên Kinh Kỳ hý viện. Thông Sáng là rạp hát tuồng đầu tiên của người Việt Nam ở Hà Nội.Đối diện với Thông Sáng là rạp Năm Chăn, gọi là nhà hát nhưng thực ra chỉ là nhà mấy ngôi nhà dài và rộng. Mỗi khi diễn tuồng người ta dẹp bỏ đồ đạc, khán giả quây quanh chiếc đèn treo ba dây. Về sau Năm Chăn được cải tạo thành rạp chiếu bóng Tonkinois (nay là trụ sở của Nhà hát ca múa nhạc Hà Nội). Chủ của Tonkinois là một anh Tây lai lấy vợ Việt. Rạp chuyên chiếu phim trinh thám và phiêu lưu nhiều tập. Năm 1928, lần đầu tiên Tonkinnoi chiếu phim có tiếng. Sau Thông Sáng và Năm Chăn là Quảng Lạc (nay là số 8 Tạ Hiện do Nhà hát kịch Hà Nội quản lý). Quảng Lạc xây vào năm 1900 có chiều rộng khoảng 15 mét,chiều dài khoảng 29 mét,vì rạp nằm giữa khu phố có rất nhiều người Hoa mở hiệu ăn nên vào mùa hè, mùi thức ăn gây khó chịu cho khán giả nên chủ rạp đã cho mắc hai dãy quạt kéo (hình chữ nhật, dán giấy dó loại giầy và dai). Khi có xuất diễn, chủ rạp cho mấy thằng nhỏ kéo quạt để xua bớt mùi thức ăn và cái nóng. Có chuyện vui là một diễn viên tuồng do khan giọng mất tiếng hát không thành lời nên cậu bé kéo quạt hát nốt câu còn lại. Sở dĩ nó thuộc vì ngày nào cũng được nghe hát. Tuồng vắng dần khán giả, Quảng Lạc chuyển sang diễn cải lương vào những năm 1930 và diễn ở đây phần lớn là các ban từ Nam ra. Tới năm 1940 rạp chuyển thành nơi diễn chính của Nhật Tân ban . Nhật Tân ban do các ông Doãn Bá Chính, Trần Quang Cầu lập khoảng năm 1935. Diễn tại Quảng Lạc còn có Quốc Hoa ban với những diễn viên: Tư Ban, Bá Quyền, Hải Tý, Bích Lộc, Phước Thọ,Tuấn Sửu, Bích Hợp, Mộng Dần, Lệ Thanh, Ngọc Dư, Bích Được (sau năm 1954, Tuấn Sửu, Mộng Dần, Lệ Thanh, Ngọc Dư... tiếp tục hát và trở thành các nghệ sỹ cải lương nổi tiếng cả nước). Khoảng năm 1920, Hà Nội có thêm rạp Thăng Long (số 72-74 phố Hàng Bạc) là nơi diễn tuồng và chèo. Năm 1925 rạp chuyển sang diễn cải lương và đổi tên là Cải lương hí viện rồi Tố Như (nay là rạp Chuông Vàng).
Cũng thời gian này, cạnh Quảng Lạc có rạp Phúc Thắng của ông chủ gánh Phúc Thắng chuyên diễn tuồng. Sau rạp bị đổ, gánh Phúc Thắng ra diễn ở Chợ Gạo, rồi chuyển sang Khâm Thiên ở chỗ nay là rạp chiếu bóng Dân Chủ. Phố Hàng Buồm có rạp xi nê Family (thời bao cấp là Nhà văn hóa trung tâm Thành phố) thông thường vẫn diễn tuồng và chủ yếu là các gánh tuồng Tầu sang biểu diễn cho Hoa kiều.Trước đó Family có gánh tuồng của Mai Trọng Cát và Lê Trung Ngọc diễn thường trực ở đây.
Rạp dành cho chèo là Sán Nhiên Đài ở giữa phố Đào Duy Từ (sau đổi thành Lạc Việt rồi Hiệp Thành và bị cháy trụi vào năm 1989). Ghế dành cho người ngồi làm bằng tre không có tựa lưng. Ban đầu rạp này chuyên diễn chèo cổ nhưng do thưa khách nên trùm chèo xứ Đông là Nguyễn Đình Nghị khi thâu tóm rạp thì mọi chuyện bắt đầu khác. Nguyễn Đình Nghị thay đổi phong cách diễn, có thêm phông màn, cảnh trí đồng thời ông soạn lại các tích chèo cổ thành vở với lớp lang và gọi là chèo văn minh. Chính ông là người đưa chèo từ sân đình ra diễn ở rạp. Nói theo từ ngữ chuyên môn, từ sân khấu bốn mặt, Nguyễn Đình Nghị đưa chèo vào diễn sân khấu ba mặt. Nửa đầu những năm 30, chèo văn minh không còn thu hút khán giả. Một lần nữa Nguyễn Đình Nghị lại chuyển sang chèo cải lương. Nghĩa là hát chèo theo giai điệu của cải lương và sự đổi thay này khiến Sán Nhiên Đài lại trở thành tâm điểm của khán giả yêu thích chèo. Và khán giả đi xem nhiều đã tổng kết đào, kép thành danh với các vai nhưng nghe mà tội nghiệp vì toàn thằng với con.
Tẩu mã Tư Long
Hồi hùng Ba Tý
Hát ý con Liên
Đóng điên con Chín
Thằng Tín pha trò
Thằng Giò Tào Tháo
Tính từ năm 1915-1948 Nguyễn Đình Nghị đã soạn lại và viết mới tới 60 vở chèo, đó là một con số kỷ lục. Có một rạp cũng diễn chèo là Tam Kỳ (sau đổi thành Lạc Thiện, nay là Nhà hát chèo) ở Kim Mã thiết kế theo kiến trúc Pháp. Hà Nội cũng có 1 rạp dành riêng để biểu diễn ca nhạc đó là Philharmonique (nay là rạp rối nước phố Đinh Tiên Hoàng). Sự ra đời rạp này có công lớn của Hội Âm nhạc (Société Philharmonique) vì nhiều lần kiến nghị Hội đồng thành phố. Hội này thành lập năm 1885 do sáng kiến của một thầy thuốc, trụ sở ban đầu đặt ở phố Tràng Thi nhưng họ không có rạp và mỗi lần muốn biểu diễn, họ phải mượn đền Bà Kiệu hay trước cửa đền Ngọc Sơn. Sau khi Công sứ Bonnal quyết định xây rạp hát để phục vụ binh lính, người Pháp sinh sống ở Hà Nội thì người ta tiến hành ngay và Philharmonique hoàn thành vào năm 1889. Từ khi có rạp, đây là nơi để chủ yếu dành cho chơi nhạc, ngoài ra còn khiêu vũ, tổ chức liên hoan hoặc cho các gánh hát. Khoảng năm 1939, rạp vừa cho thuê biểu diễn ca nhạc đồng thời cũng tổ chức chiếu phim. Vì các hàng ghế phía cuối là băng nên giá vé thuộc loại rẻ nhất trong các rạp thời đó. Năm 1932 gánh cải lương Phước Cương đi hát ở Paris về ra Hà Nội đã thuê Philharmonique để diễn. Người ta đổ xô đi mua vé xem cô Năm Phỉ mặc váy nhẩy Vals đóng vai Bàng Quý Phi.
Nói đến rạp ở Hà Nội không thể không nói đến rạp diễn kịch nói. Đêm 16-3-1885, lần đầu tiên người Pháp đã tổ chức diễn kịch nói ở Hà Nội, sân khấu là nền đất trước cửa đền Ngọc Sơn, ba phía che bằng liếp. Nhóm diễn viên chỉ có hai diễn viên chuyên nghiệp là vợ chồng Deschamps từ Pháp sang, còn lại là diễn viên nghiệp dư. Đêm diễn này là gợi ý cho việc ra đời một nhà hát ở Hà Nội. 4 năm sau, năm 1889, hội đồng thành phố đã họp và quyết định xây dựng nhà hát. Vị trí được chọn là đầm thuộc đất của 2 làng Thạch Tần và Tây Luông giáp gianh với làng Cựu Lâu, thuộc Tổng Phúc Lân, huyện Thọ Xương. Thiết kế nhà hát là của hai kiến trúc sư Voyer và Harley người Pháp. Công trình được khởi công vào ngày 7-6-1901 và khánh thành vào ngày 9-12- 1911 với vở hài kịch Chuyến đi của ông Perrichon (Le voyage de M.Perrichon) do nhóm kịch nghiệp dư gồm những người Pháp đang sống và làm việc ở Hà Nội diễn. Dù đã hoàn thành nhưng sân khấu trống trơn không có màn kéo cũng như bất cứ thiết bị nào phục vụ cho trang trí phông cảnh. Để khắc phục, một diễn viên vốn là bác sỹ thú y đã nghĩ ra cách mua vải thô may lại đủ rộng rồi cho vẽ cảnh Hồ Gươm có Tháp rùa làm màn kéo. 16 năm sau, tấm màn kéo bằng vải thô có hình Tháp rùa được thay thế bằng vải sa tanh và đến năm 1932 mới thay bằng nhung theo kiểu của sân khấu Italia. Đêm ngày 22-10-1921,một sự kiện quan trọng diễn ra tại Nhà hát lớn, đó là ra mắt vở kịch Chén thuốc độc của Vũ Đình Long. Chén thuốc độc là vở diễn đầu tiên "trong văn học sử nước ta về việc diễn kịch theo lối mới và thuần nhiên dùng văn ta tả những cảnh xã hội ta". Vở kịch do diễn viên Việt Nam thủ vai lần đầu là vở Bệnh tưởng (tác giả Molière), do Nguyễn Văn Vĩnh dịch diễn tại Nhà hát lớn vào đêm 20- 4-1920. Nhà hát không còn một chỗ trống và sau đó nhận được lời khen của các báo. Rạp Quảng Lạc sau này cũng diễn cả kịch nói. Nhìn chung hầu hết các rạp sử dụng điện phục vụ ánh sáng cho sân khấu sau khi Nhà máy điện Yên Phụ hoàn thành. Để thu hút khán giả, các chủ rạp cho lắp quạt trần và quảng bá vở diễn cũng như rạp hát của mình bằng băng rôn căng trên các phố, đồng thời quảng cáo trên các báo lớn với nhiều chiêu trò gây tò mò cho dân chúng.
Hầu hết các vở cải lương đều khai thác các đề tài có nội dung éo le, bi thảm, khốn khổ của phụ nữ nên thu hút rất đông phụ nữ. Họ xem để chia sẻ và cảm thông với số phận của đàn bà. Có loại khán giả cũng rất đắm đuối với cải lương đó là các cô làm nghề mại dâm hay cô đầu cứ như cải lương sinh ra cứ như dàng riêng cho họ. Vì thế chỗ nào có nhiều nhà hát cô đầu, nhà săm thì thế nào cũng có rạp cải lương… Đối diện với ngõ Vạn Thái, ngõ nổi tiếng về hát cô đầu ở phố Bạch Mai có rạp Lý Vịt, thực ra tên rạp là Lạc Thành nhưng vì ông chủ họ Thành này là Lý trưởng ở đất này lại có lò ấp vịt giống nên người ta mới gọi như vậy. Vào năm 1938, xuất hiện một rạp cải lương nằm ở cuối phố Đại La gần ngã tư Trung Hiền (nay là ngã tư Mơ) vì khu vực này có vài chục nhà hát với hơn 200 cô đầu. Ông Nguyễn Văn Thái nhà kể rằng, khi đó tôi đã 12 tuổi, nhà lại ở gần rạp nên tối nào cũng chui vào xem, có hôm Thái thấy các cô ăn mặc tân thời nức nở khi nhân vật nữ bị mẹ chồng đánh đuổi ra khỏi nhà. Còn gần Cầu Mới (ngã tư Sở), năm 1941 đã xuất hiện rạp Thiên Xuân Đài, chuyên diễn cải lương, năm 1946 thì rạp đóng cửa vì chiến tranh.
Đầu năm 1947, Pháp tái chiếm Hà Nội, dân phố tản cư về các vùng quê, nhiều nghệ sỹ cũng theo gia đình, một số gánh hát về diễn ở nông thôn cầm cự chờ ngày trở lại Hà Nội nên các rạp phải đóng cửa. Đầu năm 1948, dân lác đác về và Hà Nội đông đúc trở lại. Các rạp lại sáng đèn. Nhật Tân ban vẫn diễn ở Quảng Lạc, Tố Như ban diễn ở Văn Lang, Đại Quốc Hoa diễn ở rạp Olympia (nay là rạp Hồng Hà ở phố Hàng Da), Ái Liên diễn ở rạp Hiệp Thành, chèo Quảng Tâm ban diễn ở rạp Lạc Thiện, cải lương Đan Thanh diễn ở rạp Lạc Thành (phố Bạch Mai, sau rạp này chuyển thành rạp chiếu bóng). Các chủ rạp tuy kinh doanh nhưng từ năm 1945 đến ngày 19-12-1946, họ đã cho các ban vào diễn kịch đề tài cách mạng (tổng cộng diễn 25 vở) không hề lấy tiền mà còn bỏ tiền quảng bá cho vở diễn. Không tính các rạp chiếu phim, tính riêng các rạp hát đến năm 1954, Hà Nội có tới ngót nghét hai chục rạp trong khi dân số khu vực nội đô năm 1930 là 15 vạn, năm 1936 là 20 vạn, năm 1942 là 30 vạn và năm 1954 là 53 vạn, chứng tỏ nhu cầu thưởng thức sân khấu, ca nhạc của người Hà Nội là rất lớn.
Vào những năm 1960, khu đấu xảo (nơi tổ chức triển lãm thuộc địa đầu tiên vào năm 1902) được cải tạo thành Nhà hát nhân dân, một sân khấu biểu diễn ngoài trời vào loại lớn nhất Thủ đô lúc bấy giờ. Sau này Công đoàn Liên Xô xây tặng cho nhân dân Hà Nội một cung văn hóa làm nơi sinh hoạt, giải trí, vị trí được chọn chính là Nhà hát nhân dân. Công trình do kiến trúc sư Ixakôvich thiết kế, nó là bản sao của nhà văn hóa Tibibixi (nay thuộc cộng hòa Gruria) được khởi công vào ngày 1-1-1978, khánh thành 1-9-1985. Cung Văn hóa Lao động Hữu nghị Việt – Xô là công trình quy mô gồm tòa nhà lớn 4 tầng cao 33 m, dài 96 m, rộng 60 m, một tòa nhà 3 tầng song song với ngôi nhà lớn, nối liền với nhau bằng một nhà mái bằng có sân thượng. Có nhiều phòng lớn, nhỏ khác nhau thích hợp với các hoạt động biểu diễn nghệ thuật, chiếu phim, tổ chức hội nghị, hội thảo. Phòng lớn nhất có 1.194 chỗ ngồi. Một công trình lớn, tốn nhiều tiền bạc nhưng rất tiếc không có giá trị nhiều về kiến trúc, không ra cổ điển mà cũng không ra hiện đại.
Hiện tại nhiều rạp cũ đã xuống cấp và chuyển đổi mục đích sử dụng thì nhiều rạp mới cũng được xây dựng ở Hà Nội như: Nhà hát ca múa nhạc,Nhà hát kịch nói Trung ươngNhà hát kịch Hà Nội... với trang thiết bị hiện đại đáp ứng cho hoạt động nghệ thuật trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên với dân số gần 7 triệu người, Hà Nội còn quá ít rạp. Nhiều khu đô thị mới hình thành với hàng chục vạn dân nhưng không hề có rạp hát hay chiếu phim. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của người dân Thủ đô mà còn kéo dài mong muốn phát triển Hà Nội là thành phố văn hóa.