QUẢN LÝ KHÁCH SẠN ĐÚNG LÀ MỘT GÃ quái gở.
Thời gian qua, nhờ lái xe quanh thành phố nên tôi mới biết khách sạn này là một trong những khách sạn tốt nhất ở Urumqi. Anh ta đồng ý cho chúng tôi mượn một phòng họp ở tầng dưới để thực hiện phỏng vấn và phóng sự trên đài truyền hình quốc gia. Cho nên, nếu tôi hỏi tử tế, có lẽ anh ta sẽ đồng ý. Nếu cho Gobi vào khách sạn là phá vỡ quy tắc thì tôi nghĩ anh ta sẽ linh hoạt một chút. Bởi, chắc chắn anh ta hiểu không phải lúc nào cũng có cơ hội kinh doanh tốt thế này.
“Không ,” anh ta nói.
Vốn tiếng Anh của anh ta tốt hơn đa số người tôi gặp, nhưng tôi vẫn gắng trình bày yêu cầu lần nữa, chậm rãi hơn.
“Gobi có thể ở cùng phòng với tôi không ? Gobi nhỏ lắm. Đây sẽ là cơ hội quảng cáo hình ảnh cho khách sạn anh.”
“Không ,” anh ta lặp lại. Anh ta hoàn toàn hiểu rõ tôi đang muốn gì. “Chúng tôi chưa từng có tiền lệ cho chó ở trong khách sạn.” Anh ta dừng một chút rồi hạ giọng nói tiếp, “Nhưng tôi có thể nghĩ cách giúp anh.”
Tôi lén đập tay ăn mừng trong lòng. Cho dù phải trả vài trăm đô la, tôi cũng không tiếc, miễn là Gobi bình an.
“Con chó có thể ở một trong số những phòng tập huấn.”
Không hợp ý lắm. Nhưng tôi không có nhiều sự lựa chọn. “Tôi có thể xem phòng trước được không ?”
“Tất nhiên rồi,” quản lý khách sạn đáp. “Mời đi lối này, ông Leonard.” Không dẫn tôi vào sâu trong khách sạn, anh ta đưa tôi ra khỏi cửa xoay, đi qua nhân viên bảo an mặc áo chống đạn và đeo súng trường theo quy định, băng qua bãi đỗ xe chật cứng , một loạt cửa ra vào không có khoá đu đưa theo gió giống như loại cửa quán rượu phương Tây thời xưa.
Thế nhưng chưa là gì. Căn phòng mới thực sự là thảm hoạ.
Bên trong không giống một phòng tập huấn mà giống một bãi rác hơn. Nước tẩy rửa và đồ nội thất hỏng chất đầy khắp phòng. Đến cả cánh cửa còn không khép vào được. Thấy tôi nhìn, viên quản lý cố gắng huých vai vào cánh cửa cho nó khép chặt lại, tuy vậy dưới chân cửa vẫn hổng , đủ cho Gobi dễ dàng chui tọt qua.
“Tôi không thể để Gobi ở đây được,” tôi lên tiếng. “Nó sẽ chạy mất.”
“Thì có sao?” Anh ta nói, quay đầu, bước trở lại bãi đậu xe.
Tôi bảo mà, anh ta đúng là một gã quái gở.
Trước khi gặp quản lý khách sạn, tôi và Richard ra khu chợ trước bãi đậu xe khách sạn mua một bộ đồ dùng thiết yếu cho Gobi. Không có nhiều sự lựa chọn. Cuối cùng , chúng tôi đã mua được vòng cổ, dây xích, hai cái bát và một ít thức ăn cho chó. Vừa dạo bước, chúng tôi vừa ấp ủ một kế hoạch trong trường hợp quản lý khách sạn từ chối. Và có lẽ đã đến lúc dùng kế hoạch B rồi.
Sáng hôm ấy, chúng tôi trở lại nhà ông Mã. Nhìn thấy tôi, Gobi vui tươi hớn hở, y như đêm hôm trước. Thấy vậy, tôi nhẹ nhõm hẳn. Rõ ràng là ông Mã đã chăm sóc cô nhóc tốt lắm. Trải qua hỗn loạn đêm hôm trước, tôi không quên Richard nghi ngờ trong chuyện này có hành vi gian trá. Nhưng càng nói chuyện với ông Mã, thấy ông thường ngày ăn mặc như thể chuẩn bị đi tập thể dục nhưng không làm việc gì cả, tôi càng tin tưởng ông hơn. Sau này biết ông Mã là một nhà buôn ngọc, tôi mới tin hẳn. Hiển nhiên, ông ấy không cần tiền. Chẳng có vụ tống tiền nào ở đây cả.
Tôi ngỏ lời mời ông đến dự bữa liên hoan đặc biệt của đội tìm kiếm vào tối hôm sau và trao tiền thưởng. Ông Mã vui vẻ đồng ý, nhưng kiên quyết không nhận tiền thưởng. Đúng lúc Richard, Lu Xin, Gobi và tôi chuẩn bị ra về, một người đàn ông - cười giả lả - bước vào nhà. Trông anh ta quen lắm, nhưng tôi chắc chắn chưa từng gặp anh ta trước đây.
“Tôi là chồng của Nurali,” anh ta tự giới thiệu, và bắt tay tôi chặt như gọng kìm bằng sắt. Chắc anh ta muốn bắt tay xã giao thôi.
À, tôi biết mình gặp anh ta ở đâu rồi. Anh ta là một trong những tài xế lái xe trong cuộc đua. Gobi đang nằm phủ phục dưới nền nhà, nên anh ta phải quỳ gối xuống mới túm được cô nhóc lên.
“Ồ,” anh ta vừa nhìn trước ngó sau như thể đang cân nhắc có nên mua một chiếc bình cổ hay không “Đúng là Gobi rồi.” Nói rồi, anh ta đưa Gobi cho tôi. “Chúng tôi đã cố hết sức giúp anh chăm sóc Gobi, nhưng cô nhóc đã bỏ nhà đi.
Có lẽ anh phải dựng một hàng rào chắc chắn khi đón Gobi về nhà.”
Kế hoạch đưa Gobi vào khách sạn khá đơn giản. Chúng tôi sẽ để Gobi vào trong một cái túi và mang vào khách sạn. Rắc rối ở chỗ, tương tự nhiều khách sạn và tòa nhà hành chính công ở Urumqi, ngoại trừ một anh lính canh trang bị áo chống đạn và khẩu AK-47, chúng tôi còn phải đi qua máy quét tia X và máy dò kim loại.
Nhiệm vụ của tôi là đánh lạc hướng đống máy móc này. Tôi phải giả vờ đánh rơi một cái túi đựng đầy áp phích và đồ ăn vặt không kéo khóa xuống sàn nhà, gần máy quét. Sau đó làm ầm lên, vừa rối rít xin lỗi vừa cúi xuống gom đồ vào túi. Nhân cơ hội đó, Richard - mang Gobi trong một chiếc túi bằng vải bông chéo, bề ngoài trông như một chiếc áo khoác - đi qua máy dò kim loại. Mong là Richard nhớ không đem theo bất cứ thứ gì có khả năng làm chuông báo động reo.
Trở về phòng , tôi mới có thời gian kiểm tra vết thương của Gobi. Vết sẹo trên đỉnh đầu cho thấy cô nhóc bị thương không hề nhẹ. Tôi băn khoăn không biết vết thương này do con chó khác gây ra hay do người. Vết thương khá sâu, nhưng đã lên sẹo, nên tôi nghĩ không cần bận tâm nhiều về nó nữa.
Hông cô nhóc mới thực sự là vấn đề. Hẳn nó đau lắm lúc “thầy thuốc” lúng túng bế nó lên tối hôm trước. Thậm chí, lúc tôi ấn nhẹ vào chỗ đó, cô nhóc cũng giật nảy mình. Khi tôi đặt Gobi xuống đất cho nó tự đi, hậu quả chấn thương mới lộ rõ. Nó gần như không chịu được bất kì áp lực nào.
Một lần nữa, tôi tự hỏi chuyện gì đã xảy ra với Gobi.
Cũng trong buổi sáng hôm ấy, tôi đã nói chuyện với Kiki xem bước tiếp theo nên làm gì. Chúng tôi đều rõ, Nurali vẫn chưa đưa Gobi đi làm kiểm tra y tế theo yêu cầu xuất cảnh. Vì vậy, nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu lúc này là đưa Gobi đi khám bác sĩ thú y. Tiếp đó là chờ thủ tục giấy tờ hoàn tất và bay đến Bắc Kinh để được cấp quyền.
“Sẽ mất bao lâu?” Tôi hỏi.
“Có thể là một tuần, cũng có thể là một tháng.”
Cảm giác chán nản của ngày hôm qua lại quay trở lại. “Chúng tôi nhất định phải bay đến đó à? Sao không lái xe?”
“Chạy xe sẽ mất ba mươi tiếng đấy. Hơn nữa, chẳng có khách sạn nào cho anh mang Gobi vào trong đâu. Hay anh muốn để cô nhóc trong xe?”
Không đời nào. Chúng tôi đồng tình rằng lái xe đến Bắc Kinh chỉ là phương án dự phòng.
“Mặt khác,” Kiki nói tiếp, “tôi đã liên lạc với một hãng hàng không. Bên đó nói họ có thể cho Gobi lên máy bay mà không ai hay biết.”
Từ đó đến hết ngày, tôi chỉ làm duy nhất một việc là chăm Gobi. Cho Gobi ăn khi nó đói, cho Gobi vật lộn với bít tất của tôi khi nó buồn chán, và chộp cô nhóc vào thang máy xuống bãi đậu xe dưới tầng hầm khi nó cần giải quyết nhu cầu. Gobi là một cô chó đáng mơ ước; cô nhóc không sủa trong phòng , cũng ngoan ngoãn chui vào trong túi để tôi đưa ra khỏi phòng.
Lạ thật, Gobi lúc này nhắc tôi nhớ lại thuở thiếu thời, khi tôi vẫn còn bám mẹ. Ngày đó, tôi bị ốm, cần chăm sóc, và trong một khoảng thời gian, tất cả oán hận giữa chúng tôi tan biến.
Cơn bạo bệnh ập đến năm tôi mười ba tuổi, lúc nằm trên thảm ở nhà, chờ chương trình truyền hình lớn nhất trong cuộc đời tôi lên sóng. Một cô gái đáng yêu và một cậu chàng điển trai trong bộ phim truyền hình dài tập nổi tiếng của Úc mang tên Neighbors (Những người hàng xóm) sắp bước vào lễ đường. Ai ai cũng bàn tán về họ - khoa trương hơn cả vụ Cliff Young vô địch giải đua từ Sydney đến Melbourne. Charlene đáng yêu của tôi bon chen lên ngồi trước khi âm nhạc nổi lên. “Neighbors, everybody needs good neighbors...” (Những người hàng xóm, ai ai cũng cần những người hàng xóm tốt)
Đúng lúc Scott và Charlene chuẩn bị nói “Tôi cũng thế”, tôi lịm đi. Đó là tất cả những gì tôi nhớ được.
Lúc tỉnh lại, tôi thấy mình ở trong bệnh viện. Thật khủng khiếp, như thể mọi thứ trong tôi bị đặt nhầm chỗ hết cả. Tôi không hiểu các bác sĩ đang nói gì, và không nắm bắt được một ý nghĩ trọn vẹn nào. Cơn buồn nôn chực trào trong tôi. Hàng giờ liền, tôi cảm thấy như thể mình sắp nổ tung , cho đến khi thiếp đi và ngủ liền một mạch mười hai tiếng.
Thì ra, tôi bị động kinh. Mẹ phải giải thích động kinh là gì cho tôi.
Có mấy lần, tôi lên cơn co giật. Đến tận một, hai ngày sau, tôi vẫn cảm thấy hãi hùng. Tôi phải nghỉ học, đi gặp các chuyên gia và trù bị cho các tình huống vị-khách-không-mời quay trở lại bất cứ lúc nào, làm nhiễu loạn cuộc sống của tôi.
Gần một năm sau lần phát bệnh đầu tiên, tôi mới nhận ra lần phát bệnh cuối cùng đã qua vài tháng rồi. Các cuộc hẹn gặp bác sĩ thưa dần, và cuộc sống trở lại bình thường.
Điều đáng cười là, tôi gần như nhớ những cơn động kinh kia. Không phải thực sự nhớ cảm giác bị động kinh, mà là cách chúng quay ngược thời gian đưa tôi về những tháng ngày yên bình với mẹ. Mỗi lần tôi lên cơn động kinh, mẹ càng ngày càng mềm lòng , ấm áp đến lạ. Không còn những từ ngữ mắng mỏ, mẹ nấu những món tôi thích, và cho tôi những cái ôm âu yếm. Dù bố Garry đã rời xa mẹ, dù khó chịu khi nhìn tôi lên cơn động kinh, nhưng cái tôi nhận được từ bà vẫn là tình yêu và sự săn sóc. Quãng thời gian đó thật đáng quý biết nhường nào. Buồn thay, chẳng được bao lâu.
Tôi cố gắng chăm Gobi như lúc trước mẹ chăm tôi. Tôi cố gắng buông bỏ căng thẳng tích tụ mấy tuần trước và hưởng thụ quãng thời gian bên cạnh cô nhóc. Vụ mất tích khiến cả hai chúng tôi đều kiệt sức, nên chúng tôi dành cả ngày hôm đó để cùng nhau đi dạo.
Sáng hôm sau, vấn đề nảy sinh. Gobi đã có đủ thức ăn ngay trong phòng , nhưng bữa sáng của tôi không thể là bánh quy cho chó và thịt hộp được. Nhân lúc Gobi đang ngủ, tôi rón rén xuống giường và xuống tầng trệt ăn chút gì đó.
Tôi nhẹ tay khép cửa lại, treo biển Đừng Làm Phiền lên tay nắm cửa, và rón rén đi ra thang máy. Khi cửa đóng lại trước mắt, hình như tôi nghe thấy tiếng chó sủa.
Chưa đầy mười lăm phút sau, tôi vào thang máy đi lên. Bước ra khỏi thang máy, sượt qua một chiếc xe đẩy dịch vụ, vừa đến lối rẽ, tôi đã thấy cửa phòng mở toang. Tôi chạy vào. Gobi đã biến mất, không ở dưới gầm giường , không có trong tủ quần áo, hay sau rèm cửa,
“Gobi!” Tôi vừa gọi vừa cố kìm nén cơn hoảng sợ. Bộ não điểm qua những tình huống có khả năng xảy ra. Rất có thể chính quản lý khách sạn đã dàn xếp vụ này. Chạy ra khỏi phòng , vừa chuẩn bị bước vào thang máy thì tôi để ý thấy cửa phòng tắm đang đóng. Tôi mở cửa ra. Gobi đây rồi. Nó đang ngồi bệt trong bồn tắm, ngoẹo đầu sang một bên, tò mò nhìn cô nhân viên vệ sinh lau dọn bồn rửa tay. Thấy tôi, Gobi liếc mắt nhìn như thể muốn nói: “Chuyện gì thế, bố?”
Cô nhân viên vệ sinh không có vẻ gì là bận tâm, vừa câu được câu chăng vừa tiếp tục công việc. Không nghĩ được gì nhiều, tôi rút ví ra và đưa cho cô một tờ 100 tệ - khoảng 15 đô la, ra dấu cho cô đừng tiết lộ bất cứ điều gì về Gobi. Cô kia gật đầu, nhét tiền vào túi và quay lại dọn dẹp.
Dường như cô không hề ngạc nhiên khi nhìn thấy Gobi ở đó. Chắc cô nghĩ khách cho tiền bo để mình lau dọn nhà tắm sạch bong. Tôi làm sao mà biết được. Cô nhân viên vệ sinh ở trong nhà tắm một hồi lâu, lau sạch mọi ngóc ngách mà mắt thường có thể nhìn thấy. Vì cửa phòng vẫn mở nên tôi vẫn ngồi trong nhà tắm, ôm Gobi vào lòng và tránh đường cho cô, chứ không ra khỏi phòng. Mỗi khi cô sang dọn chỗ khác, tôi và Gobi lại phải tìm một chỗ dừng chân mới.
“Cám ơn,” tôi nói mỗi lần chuyển chỗ, hi vọng cô hiểu ý của tôi. “Tạm biệt. Chị đi được rồi.”
Cô nhân viên vệ sinh vẫn không hiểu. Cô chỉ gật đầu, xua tôi và Gobi đang đứng ở mép bồn tắm ra nhà vệ sinh, hay từ nhà vệ sinh ra sau cửa, để cô lau dọn.
Gobi thì lấy làm thích thú lắm. Cô nhóc hí hửng ngồi vẫy đuôi, mắt liếc tới liếc lui giữa tôi và cô nhân viên vệ sinh.
Đúng là cảnh lạ nhất trần đời, tôi nghĩ.