Hai người đào tẩu đó im hơi lặng tiếng đến hai tháng. Trong suốt hai tháng này, cô chủ Catherine Linton đã phải đối phó và vượt qua được cơn sốc tồi tệ nhất mà người ta gọi đó là bệnh viêm não. Không ai khác lại có thể chăm sóc một người con độc nhất của mình một cách tận tụy bằng cậu chủ Linton chăm sóc vợ mình. Cậu ấy suốt ngày đêm túc trực theo dõi và kiên trì chịu đựng mọi sự khó chịu mà dây thần kinh dễ bị kích động và một lí trí lung lay có thể gây ra. Và dẫu cho bác sĩ Kenneth có nhận xét rằng những gì mà cậu chủ đã cứu vớt cô ấy khỏi cái chết bằng sự chăm sóc của mình dẫu cho cậu ấy phải hi sinh cả sức khỏe và sức lực để duy trì cái thân tàn ma dại đó, cũng chỉ được bù lại bằng cách tạo thành một nguồn lo lắng thường xuyên sau này mà thôi, thì cậu ấy vẫn tỏ lòng biết ơn vô hạn và một niềm vui không kể xiết khi sức khỏe của cô Catherine đã thoát khỏi vòng nguy hiểm. Cậu ấy đã ngồi lì hàng giờ liền bên cô chủ để theo dõi cô chủ phục hồi sức khỏe dần dần với một niềm hi vọng lạc quan đến mức ảo tưởng cho rằng đầu óc cô ấy cũng sẽ thăng bằng lại và cô ấy sẽ nhanh chóng trở lại như cô ấy ngày nào.
Lần đầu tiên cô chủ rời khỏi phòng của mình là vào đầu tháng ba sau. Buổi sáng cậu chủ Linton đặt trên gối cô chủ một bó hoa nghệ tây vàng, đôi mắt cô chủ bấy lâu nay cảm thấy xa lạ trước bất cứ thứ gì thì nay bắt gặp ngay những bông hóa đó, cô liền choàng dậy, những bông hoa như long lanh sung sướng khi cô háo hức vun chúng vào với nhau.
- Những bông hoa đầu mùa ở vùng Cao Nguyên này đấy, anh ạ - cô chủ thốt lên - chúng làm cho em nhớ lại những cơn gió êm ái làm tan giá lạnh và ánh nắng ấm áp làm tuyết tan. Anh Edgar phải chăng đó là cơn gió nam và hình như tuyết đã tan gần hết phải không anh?
- Tuyết nơi đây gần như đã tan hết rồi em ạ - chồng cô đáp lại - và trên toàn bộ khu đầm lầy anh chỉ còn nhìn thấy độc chỉ có hai mảng tuyết trắng. Bầu trời xanh, những con chim chiền chiện đang hót líu lo và những con suối lớn nhỏ đầy ắp nước. Catherine ơi, vào thời gian mùa xuân năm ngoái anh đã mong đưa em về sống dưới mái nhà này biết chừng nào không, giờ đây anh mong được đưa em đi xa độ hai ba dặm lên trên những ngọn đồi kia vì bầu không khí ở đó vô cùng ngọt ngào, và anh cảm thấy em sẽ lành bệnh mà.
- Trừ một lần này thôi đấy nhé, còn không bao giờ em lên đấy nữa đâu - cô chủ yếu ớt nói - rồi anh cứ để em ở trên đó vĩnh viễn. Đến mùa xuân sau anh lại mong em về sống với anh dưới mái nhà này và lúc ấy anh ngoảnh lại nghĩ rằng ngày hôm nay mình đã từng được sung sướng.
Cậu chủ Linton vuốt ve vồ vập vợ mình, cố làm cho cô ấy vui lên bằng những lời nói ngọt ngào nhất, vậy mà cô chủ cũng chỉ hờ hững nhìn những bông hoa nước mắt đọng lại trên mi mắt, rồi chảy ròng ròng xuống hai má lúc nào không ai hay. Chúng tôi biết là cô ấy đã khỏe hẳn và vì thế mới quyết định rằng, phải thay đổi khung cảnh cho cô chủ bớt đi phần nào phiền muộn do chôn mình quá lâu trong một nơi đã gây nên cảnh chán chường này. Cậu chủ bảo tôi nhóm bếp sưởi lên trong căn phòng khách đã bỏ không hàng bao tuần nay và đặt một chiếc ghế bành bên cửa sổ để đón nắng, rồi cậu dìu cô chủ xuống, cô chủ ngồi đó một hồi lâu, người thấy sảng khoái trước hơi ấm dễ chịu và đúng như chúng tôi mong, cô chủ đã tươi tỉnh hẳn lên trước những đồ vật quanh mình, dẫu cho cảnh đó có quá quen thuộc, nhưng cũng giúp làm cho cô chủ bứt ra khỏi cảnh nhàm chán trong căn buồng buồn tẻ và đáng ghét của cô. Đến tối, cô chủ dường như quá mệt mỏi, song không ai có thể khuyên cô trở về căn phòng được nữa, tôi đành phải sắp xếp một chiếc ghế tràng kỉ ở trong phòng khách để cô ấy dùng làm giường nằm, chờ cho đến khi dọn dẹp một phòng khác cho cô. Để tránh phải đi lên xuống gác cho mệt người, chúng tôi mới sắp xếp căn buồng này, chính là phòng ông đang ở lúc này đấy, cùng một tầng với phòng khách. Chẳng mấy chốc cô chủ đã khỏe người ra, tựa người vào cánh tay của cậu Edgar mà đi lại từ phòng này sang phòng khác. Tôi thì nghĩ chắc được chăm sóc chiều chuộng thế này, cô chủ có thể phục hồi được sức khỏe. Có hai nguyên nhân để mong như vậy: Vì sự tồn tại của cô ấy phụ thuộc vào sự sống của người khác, nên chúng tôi cứ nuôi hi vọng là chẳng bao lâu, nếu cậu chủ mà sinh được một người con thừa kế thì chắc cậu ấy sung sướng trong lòng vì đất đai của cậu cũng sẽ được giữ gìn không để rơi vào tay một kẻ xa lạ.
Tôi thấy cần phải nói điều này để ông biết. Độ khoảng sáu tuần sau khi cô Isabella bỏ nhà đi, cô ấy có gửi cho anh mình một bức thư ngắn báo tin cô ấy đã kết hôn với Heathcliff. Hình như lời lẽ trong thư khô khan và lạnh lùng, như ở cuối thư có viết bằng bút chì tỏ lời xin lỗi mập mờ và van vỉ anh mình hãy chín bỏ làm mười dẫu cho việc làm của cô ấy có làm anh phật lòng mong sao anh mình vẫn nhớ đến mình. Cô ấy lại khăng khăng cho rằng cô ấy không thể làm khác được. Tôi tin chắc cậu chủ Linton không đáp lại bức thư đó. Rồi nửa tháng sau, tôi nhận được một lá thư dài mà theo tôi điều đó thật là kì quái do cô dâu vừa mới đi hưởng tuần trăng mật về viết cho. Những gì thuộc về di vật của người chết đều quý giá nếu như lúc sống họ được quý trọng.
Ellen thân mến, bức thư bắt đầu như thế.
Đêm qua tôi có đến khu Cao Nguyên Lộng Gió và lần đầu tiên được tin là chị Catherine vẫn đang bị ốm nặng. Tôi nghĩ mình không được viết cho chị ấy, mà anh trai tôi thì không biết là quá tức giận hay quá buồn phiền nên mới không trả lời thư của tôi chứ. Song tôi vẫn phải viết cho ai đó và chị là sự lựa chọn duy nhất của tôi đấy.
Chị hãy thông báo cho anh Edgar là tôi vô cùng khao khát được gặp mặt anh ấy và anh ấy phải biết rằng hai mươi bốn tiếng sau khi rời khỏi ấp Thrushcross, trái tim tôi thuộc về nó và đến lúc này đây trái tim tôi vẫn ở đó, tràn đầy tình cảm nồng ấm dành cho anh ấy và cho cả Catherine! Song tôi không thể nào đi cùng nó được nên anh chị ấy đừng mong mỏi gì ở tôi, mà nếu có tôi là ý chí yếu đuối hoặc thiếu tình yêu thương.
Phần còn lại của bức thư chỉ dành cho chị thôi. Tôi muốn hỏi chị hai câu: Trước tiên chị làm thế nào có thể duy trì được tình cảm chung mang tính tự nhiên của con người khi chị ở đằng đó. Tôi không sao nhận ra được tình cảm mà những người xung quanh dành cho tôi?
Câu hỏi thứ hai: Tôi rất quan tâm đến điều này, “có phải Heathciff là người không?” Nếu đúng thế có phải anh ta điên không? Nếu không phải thế, có phải anh ta là con quỷ không? Tôi sẽ không nói lí do tại sao tôi lại hỏi như vậy, nhưng tôi xin chị hãy giải thích theo khả năng của chị là tôi đã chung đụng với hạng người nào đây mà chỉ nói điều đó với tôi khi nào chị gặp tôi thôi, chị phải đến sớm vào chị Ellen ạ. Đừng có viết gì nhé, mà phải đến đấy, và mang cho tôi cái gì đó Edgar gửi cho tôi đấy.
Bây giờ tôi kể chị nghe là tôi đã được đón tiếp như thế nào tại ngôi nhà mới của tôi nhé, vì tôi buộc phải mường tượng ra khu Cao Nguyên sẽ như thế nào. Thật cũng buồn cười khi tôi đi bàn đến những chuyện như là thiếu những tiện nghi mang tính hình thức đó, vì tôi có bao giờ để ý đến nó đâu trừ phi lúc tôi thấy thiếu chúng. Giá như tôi mà thấy mình khổ sở thế này chỉ vì thiếu những thứ đó, chắc tôi phải cười nói và nhảy múa vì sung sướng và những gì còn lại chỉ là một giấc mơ kì quái!
Mặt trời lặn phía sau khu ấp khi chúng tôi rẽ về lối đầm lầy. Lúc đó tôi nghĩ là phải sáu giờ và người bạn đồng hành của tôi dừng lại độ nửa tiếng, xem xét kĩ càng khu thảo viên, vườn và có lẽ cả chính khu nhà nữa, nên lúc chúng tôi xuống ngựa trong cái sân lát của nông trại thì trời đã tối. Lão gia nhân nhà chị là Joseph ấy chạy vội ra, tay cầm cây đèn bấc. Cử chỉ hòa nhã đó của lão ta lại càng nâng uy tín của lão lên. Hành động đầu tiên của lão là nâng cây đèn lên ngang mặt tôi, nheo mắt một cách nham hiểm, trề môi dưới ra và quay mặt đi. Sau đó lão ta dắt hai con ngựa vào chuồng, và quay lại để đóng cổng ngoài cứ như chúng tôi sống ở trong một tòa lâu đài cổ ấy.
Heathcliff đứng lại nói chuyện với lão, còn tôi đi vào nhà bếp, đúng là một ổ chuột bừa bộn, dơ dáy. Tôi dám chắc là chị chưa thấy nó, vì từ ngày chị còn cai quản đến giờ, nó đã thay đổi quá nhiều, bên bếp lửa là một thằng bé trông côn đồ, chân tay thì gân guốc, quần áo thì bẩn thỉu, mắt và miệng nó mang dáng vẻ của Catherine.
“Hẳn đây là cháu đằng vợ của anh Edgar” tôi nghĩ thế “vậy đằng nào cũng là cháu của mình rồi; thế thì mình phải bắt tay nó, mà đúng rồi phải hôn nó chứ. Ngay từ đầu mình phải thiết lập một mối hiểu biết tốt là đúng.”
Tôi tiến lại và định cầm lấy tay nó và nói:
“Chào cháu?”
Nó trả lời bằng một biệt ngữ tôi không sao hiểu nổi.
“Chúng ta là bạn của nhau nhé, cháu Hareton?” Tôi nói tiếp.
Nó liền đền bù cho sự kiên nhẫn của tôi bằng một câu văng tục và còn dọa xuỵt chó Throttler cắn tôi nếu tôi không “cuốn xéo” ngay.
“Ê, Throttler!” Thằng nhóc liền xuỵt con chó Bun lai chồm dậy khỏi ổ ở góc bếp. “Bây giờ ngươi có xéo đi không thì bảo?” Nó nói như ra lệnh.
Tôi đành phục tùng để thoát thân, bước vội qua ngưỡng cửa đứng đợi những người kia đi vào. Không thấy bóng dáng Heathcliff đâu, còn tôi thì lẽo đẽo sau Joseph đang đi về phía chuồng ngựa để yêu cầu lão đưa tôi vào nhà, lão ta liền nhìn chằm chằm vào tôi và lẩm bẩm một mình, rồi nheo mũi lại trả lời:
“Chà, chà! Không hiểu nói thế này thì có tín đồ Cơ Đốc nào nghe được không? Cái dân phương nam các người uốn éo, rau ráu lên như thế thì làm sao tôi đoán được cô nói gì cơ chứ?
“Tôi nói là nhờ ông đưa tôi vào trong nhà!” Tôi nói thật to, cứ nghĩ là lão ta điếc, dẫu có thấy ghê tởm trước sự thô lỗ của lão.
“Sao lại tôi! Tôi còn phải làm việc khác” - lão ta trả lời và tiếp tục công việc của mình, đồng thời lão vừa mấp máy cái má hóp vừa quan sát với một vẻ khinh bỉ ghê gớm hết quần áo lại đến vẻ mặt của tôi (quần áo của tôi thì đẹp khỏi nói, nhưng bộ mặt của tôi thì theo lão là ngán đến thế là cùng).
Tôi đi quanh quẩn trong sân, rồi qua một cái cổng con đến một cửa ra vào khác, tôi liền tự tiện gõ với hi vọng có một gia nhân nào đó tử tế hơn xuất hiện. Sau một lát chờ đợi hồi hộp, có một người cao lớn, hốc hác ra mở, ông ta không đeo khăn quàng cổ nên trông lại càng nhếch nhác. Cả khuôn mặt ông ta bị mớ tóc rậm rạp dài chấm vai nuốt chửng, còn đôi mắt ma quái như đôi mắt của Catherine, mọi vẻ đẹp đã bị xóa sạch.
“Cô làm gì ở đây thế?” Ông ta nghiêm nghị hỏi “cô là ai?”
“Em là Isabella Linton ngày xưa đây mà anh” tôi đáp “trước đây anh chẳng thường trông thấy em là gì. Em vừa mới lấy Heathcliff và anh ấy đã mang em về đây, chắc cũng được sự cho phép của anh rồi”.
“Thế hắn cũng về chứ?” Con người ẩn dật đó hỏi, chừng chừng nhìn như một con chó sói đói.
“Có ạ… chúng em cũng vừa mới về đến” tôi nói; “nhưng anh ấy bỏ em ở bên cửa nhà bếp và nhẽ ra em cũng đã vào đến trong nhà rồi nếu như cậu bé nhà anh không đứng chặn lối ngăn em, lại còn xuỵt con chó Bun dọa em sợ hết cả hồn”.
“Vậy là thằng cha khốn kiếp đó cũng đã giữ lời hứa!” Ông chủ tương lai của tôi gầm gừ, mắt hướng về bóng tối phía sau tôi những mong phát hiện ra Heathcliff; rồi ông ta cứ lẩm bẩm những câu chửi thề và dọa “thằng quỷ” đó mà lừa ông ta thì ông ta đã cho nó biết tay rồi.
Tôi thấy hối hận khi đi vào cái cổng phụ này, nên định đánh bài chuồn trước khi ông ta chửi bới xong nhưng tôi chưa kịp thực hiện ý đồ đó thì ông ta đã ra lệnh cho tôi vào, đóng cửa và cài then lại. Một bếp lửa lớn kia là ánh sáng cho cả ngôi nhà đồ sộ với sàn nhà toàn màu xám, những cái đĩa bằng thiếc đã từng bóng loáng ngày nào khiến cho tôi lúc còn là cô bé đến đây cũng phải thấy choáng ngợp nay cũng mang một màu xám xịt như vậy do bụi bặm làm xỉn đi. Tôi hỏi liệu tôi có được gọi gia nhân đưa vào phòng ngủ không thì Earnshaw cũng không thèm trả lời. Ông ta đi đi lại lại, tay đút túi quần rõ ràng là đã quên rằng tôi đang có mặt ở đó, mà hình như ông ta lơ đễnh và tỏ ra khinh khỉnh đến mức tôi đành phải lủi đi, không dám làm phiền ông ta nữa.
Chị Elle ơi, ngồi bên cái lò sưởi không đáng ngồi này thì còn tồi tệ hơn cả nỗi cô đơn, khiến tôi chẳng thấy vui chút nào, nhớ ra rằng cách đây bốn dặm đường là ngôi nhà ăm ắp niềm vui của mình với những người duy nhất mà tôi yêu mến trên trái đất này, tôi cứ cảm thấy không phải chỉ bốn dặm đường kia, mà có đến cả một đại dương chia cắt chúng tôi, vậy làm sao mà tôi vượt qua được! Tôi tự hỏi mình sẽ quay về đâu để có niềm an ủi? Nhưng chị đừng có nói gì với Edgar hay Catherine điều này nhé; ngoài việc tôi buồn phiền là thế, tôi còn tuyệt vọng khi không thấy có ai có thể hay sẽ là đồng minh của mình để chống lại Heathcliff! Tôi hầu như vui sướng vì đã kiếm được nơi nương náu ở Cao Nguyên Lộng Gió, không còn phải sống lùi lũi với anh ta, nhưng anh ta lại quen những người mà chúng tôi sẽ sống cùng nên anh ta chẳng sợ có ai can thiệp.
Tôi ngồi, nghĩ mà thấy buồn đồng hồ điểm tám giờ rồi chín giờ vậy mà người bạn của tôi vẫn cứ đi đi lại lại, đầu gục xuống ngực, câm như hến, trừ chốc chốc lại phát ra tiếng rền rĩ nghe chua chát.
Tôi nghe ngóng xem có tiếng đàn bà trong nhà, và trong lúc còn đang ngồi đợi, lòng tràn đầy nuối tiếc ghê ghớm và những dự đoán buồn thảm, thì cuối cùng không nín được, tiếng nói đó cũng phát ra nghe rõ bằng tiếng thở dài và thút thít. Tôi không biết là làm sao mình lại bộc lộ rõ nỗi buồn đến thế cho đến lúc Earnshaw còn đang đi lại đều bước liền dừng ngay trước mặt tôi, nhìn chằm chằm vào tôi, ngạc nhiên như vừa bừng tỉnh. Tranh thủ lúc ông ta còn đang chú ý trở lại, tôi kêu lên:
“Đi đường mệt lắm, tôi muốn đi nằm! Hầu gái đâu rồi? Nếu cô ta không đến đây thì dẫn tôi đến chỗ cô ta vậy!”
“Nhà này không có hầu gái”- ông ta trả lời - “cô phải tự hầu lấy mình thôi!”
“Thế tôi phải ngủ ở đâu?” - Tôi khóc nức nở chẳng còn biết hổ thẹn là gì vì người đã không những mệt mỏi mà còn buồn chán nữa.
“Joseph sẽ chỉ buồng của Heathcliff cho cô” - ông ta nói - cứ mở cửa ra, ông ta ở trong đó đấy”.
Tôi đang định làm theo thì ông ta vội ngăn tôi lại và nói thêm bằng một giọng đến là rất kì lạ:
“Này, nhớ phải khóa cửa và cài then lại, đừng có quên đấy!”
“Được thôi!” - Tôi nói - “Nhưng sao lại phải thế hả ông Earnshaw?” - Tôi không thích mình lại tự đi khóa trái mình lại với Heathcliff.
“Trông đây!” - Ông ta đáp, rút từ trong áo gile ra một khẩu súng trông đến lạ, lại còn gắn thêm một con dao nhíp hai lưỡi có lò so. “Kẻ tuyệt vọng nào trông thấy mà không thèm nhỏ rãi ra phải không? Đêm nào lên gác thử mở cửa phòng của hắn, tôi không thể không mang theo khẩu súng này. Tôi mà thấy cửa mở là hắn đi tong ngay! Tôi luôn phải làm vậy thậm chí ngay thời điểm trước khi mình nhớ ra hàng biết bao lí do làm tôi phải dừng tay lại: Chính một con quỷ nào đó nó đã thúc giục tôi là chỉ bằng cách khử hắn đi, tôi mới hủy bỏ được kế hoạch của chính mình… chừng nào ta còn phải chiến đấu chống lại con quỷ đó vì lòng yêu thương thì còn phải chiến đấu, cơ hội mà đến thì cứ gọi là tất cả thiên thần trên trời cũng không cứu nổi hắn!”
Tôi quan sát kĩ khẩu súng, vội nảy ra một ý nghĩ khủng khiếp, nếu mình mà có được nó chắc mình sẽ vô cùng mạnh mẽ! Tôi đón lấy nó từ tay Earnshaw và chạm vào lưỡi dao. Ông ta ngạc nhiên khi thấy nét mặt tôi thoáng hiện lên, vì nó không tỏ ra sợ hãi, mà lại có vẻ thèm muốn có khẩu súng đó. Ông ta vội giật khẩu súng lại một cách ghen tức, rồi ông ta gập lưỡi dao lại và giấu vào chỗ cũ.
“Cô nói cho hắn biết cũng chẳng sao” - ông ta nói - “Bảo hắn phải cẩn thận đấy; mà cô cũng phải canh chừng hắn. Cô biết chúng tôi ăn ở với nhau như thế nào rồi, tôi biết hắn có làm sao cũng không làm cô sửng sốt mà”.
“Thế Heathcliff đã gây gì cho ông?” - Tôi hỏi - “Anh ta đã gây hại gì cho ông để đến nỗi có mối hiểm thù khủng khiếp thế này? Thà ông đuổi anh ta ra khỏi nhà có khôn hơn không?”
“Không được!” - Earnshaw gầm lên - “Hắn mà cất miệng xin đi khỏi đây thì lúc ấy hắn chỉ còn là cái xác không hồn. Cô mà thuyết phục hắn làm thế, thì cô sẽ trở thành kẻ sát nhân! Liệu tôi có mất tất cả mà không thu lại được gì không? Liệu Hareton có trở thành kẻ ăn mày không? Ôi mẹ kiếp! Tôi sẽ giành lại tất cả, tôi sẽ giành lại cả vàng của hắn nữa, rồi sau đó lấy máu hắn, và linh hồn hắn phải xuống địa ngục! Mà đối với hắn, địa ngục còn tăm tối gấp mười lần ấy chứ!”
Chị Ellen ơi, chị có kể cho tôi nghe về những thói quen của ông chủ cũ của chị. Ông ấy lúc này đang trên bờ vực của sự điên cuồng, mà ít ra ông ta cũng đã thế vào đêm hôm qua. Ở gần bên ông ta mà tôi cứ run bắn người lên, cho nên tôi nghĩ cái lão gia nhân xấu tính, mặt mũi lúc nào cũng ủ dột kia còn thú vị chán. Lúc này ông ta lại bắt đầu đi đi lại lại đầy suy tư, nên tôi nhấc then cửa và lẻn vào trong nhà bếp. Joseph đang cúi gằm người xuống bên bếp lửa, nhìn chăm chú vào cái chảo to đang đung đưa ở phía trên, và một cái bát bằng gỗ đầy đại mạch đặt trên cái ghế bên cạnh đó. Chảo bắt đầu sôi, lão ta quay người lại vục tay vào bát, tôi đoán chắc lão đang chuẩn bị bữa ăn tối, nên do bụng đói tôi quyết định cái này chắc là ăn được. Thế là tôi cất tiếng nói to “Tôi sẽ nấu cháo ăn!” Tôi chuyển cái bát ra khỏi tầm với của lão, rồi bỏ mũ và cởi bộ đồ cưỡi ngựa ra. “Ông Earsnshaw” - tôi nói tiếp - “Bảo tôi phải tự làm lấy thì tôi làm vậy. Tôi không tỏ ra ta đây với các người đâu vì sợ đói”.
“Ôi, lạy Chúa!” - Lão ta lẩm bẩm, ngồi xuống, vuốt đôi tất nhung kẻ sọc dài từ đầu gối đến mắt cá chân. “Tôi chưa kịp làm quen với hai ông chủ thì bây giờ lại có thêm những lời huấn lệnh mới, lại thêm một bà chủ nữa cưỡi đầu cưỡi cổ thế này, chắc đã đến lúc tôi phải đánh bài chuồn thôi. Tôi chưa bao giờ nghĩ đến chuyện phải rời bỏ nơi này, nhưng giờ đây tôi ngỡ là đã đến lúc rồi”.
Tôi chẳng để ý gì đến lời than vãn đó. Tôi nhanh tay nấu nướng, thở dài nhớ lại thời gian mà nhẽ ra phải vui lắm, nhưng rồi buộc lòng phải gác lại kỉ niệm xưa. Nghĩ đến hạnh phúc đã qua làm cho tôi thêm đau đớn. Và khi thấy nguy cơ kỉ niệm có thể lại xuất hiện, tôi càng khuấy cháo thật nhanh và càng nhanh tay ném những nắm bột vào nước. Joseph đứng nhìn tôi nấu, mỗi lúc thấy bực mình.
“Hừm, thấy chưa!” - Lão ta thốt lên - Hareton thế là tối nay mày đừng hòng mà có món cháo nhé, cháo gì mà chẳng khác những cục bột bị vón, to bằng nắm tay tao thế kia cơ chứ. Ôi lại thế nữa! Tôi mà là cô, tôi đã ném cả cái bát vào rồi! Thà cứ lôi cả cái nồi ra khỏi bếp còn hơn, chứ đừng đứng mà hớt lớp bọt váng đi thế kia. Rầm rầm. Gớm, thật phúc, không thì lủng cả đáy nồi ra chứ lị”.
Thú thật lúc đổ chỗ cháo ra mấy cái liễn, đúng là trông thật lổn nhổn. Cháo được múc vào bốn cái liễn, còn một bình đựng hơn bốn lít sữa tươi được mang từ dưới trại sữa lên, Hareton trông thấy liền giật lấy, uống lấy uống để, trào cả ra cái miệng đang bạnh ra của nó. Tôi ngăn nó lại và bảo với nó là phải đổ sữa ra cốc mà uống. Tôi còn khẳng định với nó là tôi sẽ không đụng lấy một ngụm cái thứ sữa chưa được xử lí vệ sinh ấy đâu. Lão già ích kỉ thấy tôi cặn kẽ như thế thì lại lên mặt kiêu kì thế. Trong khi đó tên nhóc côn đồ ấy vẫn cứ tu lấy tu để chỗ sữa, rồi quắc mắt nhìn tôi một cách coi thường khi nó nhỏ nước dãi vào bình sữa.
“Tôi sẽ ăn ở phòng khác,” - tôi nói - “Mọi người không còn chỗ nào gọi là phòng khách nữa à?”
Phòng khách! - Lão nhại lại một cách giễu cợt - “Phòng khách! Không có, chúng tôi không có phòng khách. Nếu cô không muốn ngồi với chúng tôi thì lên phòng ông chủ, còn nếu cô không thích ông chủ thì cô lại xuống ngồi với chúng tôi”.
“Thế thì tôi lên gác vậy” - tôi đáp lại - “Chỉ cho tôi một buồng”.
Tôi đặt liễn cháo của tôi lên khay và đi lấy một ít sữa. Lão ta đứng dậy, miệng vừa làu bàu vừa dẫn tôi lên. Chúng tôi leo lên một cái gác xép; chốc chốc lão lại mở cửa những phòng mà chúng tôi đi qua và ngó vào.
“Đây, cái kho chứa ngô này là được rồi” - cuối cùng lão ta cũng mở miệng, mở toang một cánh cửa có bản lề lắp xộc xệch - “Đấy vào đây mà ăn hết chỗ cháo đi cũng tốt chán. Có một bao ngô để ở trong góc nhà ấy, cũng khá sạch, nếu cô sợ cái bộ cánh lụa của cô bị vấy bẩn thì lấy chiếc khăn phủ lên trên mà ngồi ăn”.
“Cái kho” ấy chẳng qua chỉ là một cái phòng để các đồ tập tàng sặc mùi mạch nha và lúa mì, có rất nhiều những cái bị đựng hàng chồng thành đống, để chừa ra một khoảng trống rộng ở giữa.
“Sao thế này, hả lão!” - Tôi kêu lên, nhìn thẳng vào mặt lão một cách tức giận, - đây có phải là chỗ ngủ đâu. Tôi muốn biết phòng ngủ của tôi ở đâu.”
“Phòng ngủ à!” Lão ta nhắc lại giọng chế nhạo - “Cô chẳng xem hết các phòng ngủ rồi còn gì… phòng ngủ đằng kia là của tôi”
Lão ta chỉ tay về phía gác thượng thứ hai, trông khác với gác thượng thứ nhất chỉ ở chỗ tường để thô và có một cái giường to, thấp lè tè, không có màn che, ở cuối giường có để một cái chăn bông trần.
“Thế tôi cần gì đến cái buồng của lão hả?” - Tôi hỏi lại - tôi cho rằng ông Heathcliff không ở trên tầng thượng như thế này, có phải không?
“Ồ, ra là cô cần cái buồng của ông Heathcliff chứ gì?” - Lão ta kêu lên như phát hiện ra điều gì mới mẻ - “Thế mà cô không nói ngay, có phải là tôi đã chỉ cho cô, chứ đâu phải chật vật thế này. Mà cái buồng đó có ai được vào đâu, ông ta cứ khóa trái lại, chẳng ai thò mũi vào làm gì, trừ ông ấy ra”.
“Lão có cái nhà hay nhỉ, Joseph” - tôi không thể nào không nhận xét - “Mà lại gồm toàn những người ở cùng nhà thú vị nữa chứ; chắc tất cả những gì rồ rại trên đời này đều tụ hội trong đầu tôi vào cái hôm gắn số phận của mình vào với những con người đó! Tuy nhiên, lúc này không phải mục đích là bàn chuyện đó. Còn những căn phòng khác cơ mà. Thôi nhanh lên, lạy Chúa, để tôi còn ổn định ở chỗ nào đó chứ”.
Tôi có khẩn nài lão cũng mặc kệ, cứ lụi hụi đâm đầu đi xuống những bậc thang gỗ, rồi dừng ngay trước căn phòng. Qua cung cách lão dừng lại và qua những đồ đạc trông thật quý kia, tôi đoán có lẽ đấy là phòng tốt nhất. Tấm thảm trông còn tốt nhưng bụi phủ mất hết cả hoa văn, trên lò sưởi có treo một bức tranh cắt giấy đã rách tơi tả; một chiếc giường khung bằng gỗ sồi đẹp được che bằng những tấm màn đỏ rực khá đắt tiền và trông mộ điệu, nhưng có vẻ đã được dùng suồng sã lắm; riềm màn trang trí hình hoa lá bị giật khỏi những vòng treo còn cái thanh sắt để đỡ cái màn thì cong queo thành hình cung, xệ về một phía, rơi lòng thòng trên sàn nhà. Những chiếc ghế cũng bị hỏng, có nhiều cái hỏng nặng và những vết lõm làm cho những tấm ván ốp tường trông méo mó. Tôi cố thu hết sức bình sinh để đi vào và chiếm lấy chỗ thì lão già ngớ ngẩn kia tuyên bố, “Đây là chỗ của ông chủ”. Bữa ăn tối của tôi lúc này đã nguội ngắt, tôi chẳng còn thấy ngon nữa, ngoài ra tôi cũng hết kiên nhẫn. Tôi khăng khăng đòi phải cung cấp cho một nơi chui ra chui vào ngay và phương tiện để nằm nghỉ.
“Thế còn chỗ quỷ quái nào nữa đâu” - lão mộ đạo cất tiếng - ôi, lạy Chúa phù hộ cho chúng con! Lạy Chúa tha tội cho chúng con! Còn có chỗ cóc khô nào mà cô cứ đòi mãi hả? Thật chán và mệt mỏi với cô lắm rồi! Cô đã xem hết các phòng rồi, trừ cái phòng bé như lỗ mũi của thằng Hareton. Trong nhà này chẳng có cái lỗ nào nữa để mà đặt lưng cả.”
Tôi bực mình quá, đến nỗi quẳng cả khay xuống đất, thức ăn vãi lung tung rồi ngồi xuống đầu cầu thang, hai tay ôm mặt khóc.
“Chà! Chà!” Joseph kêu lên - “Được lắm cô Cathy ạ! (lão Joseph nhầm Isabella với Catherine ), được lắm! Ông chủ sẽ vấp vào những cái liễn vỡ thôi, rồi ở đây mà nghe mắng. Thật rồ rại! Cô đáng phải nhịn đói từ nay cho đến lễ Giáng Sinh. Ai lại đi vứt của Chúa ban cho xuống ngay dưới chân mình chỉ vì cơn giận mất khôn kia! Nhưng tôi không cho rằng cô có thể kéo dài thói hung hăng ấy được lâu đâu.
Cô có cho là ông Heathcliff sẽ dung tha không? Ông ấy không ưa cái thói hờn dỗi đó đâu. Tôi mong sao ông ta có lòng lượng thứ thôi.”
Và cứ thế lão vừa đi xuống phòng của lão ở dưới nhà, miệng vừa lẩm bẩm chửi, tay cầm ngọn nến, bỏ tôi ngồi lại trong bóng tối. Giây phút ngồi suy nghĩ sau hành động ngốc nghếch đó tôi buộc phải nhận ra là mình cần bớt thói ngạo mạn và kiềm chế cơn giận dữ, đứng dậy mà dọn hậu quả do mình gây ra. Bỗng có bóng người xuất hiện đến giúp tôi một tay dưới hình thù con chó Throttler, con vật mà đến lúc này tôi mới nhận ra đó là con của con chó Skulker già nua nhà tôi. Con chó đã ở từ lúc mới đẻ tại ấp do cha tôi cho ông Hindley. Tôi nghĩ nó nhận ra tôi, nên nó dí mũi vào mũi tôi như chào đón, rồi nhanh chóng ăn ngấu nghiến chỗ cháo, trong lúc đó tôi mò mẫm nhặt nhạnh những mảnh sành vỡ và lấy chiếc khăn tay của mình để lau sạch chỗ sữa đổ tung tóe vào tay vịn cầu thang. Cả hai chúng tôi vừa mới dọn dẹp xong thì tôi nghe thấy tiếng chân Earshaw ngoài hành lang. Con chó cụp đuôi lại và nép mình vào tường, còn tôi lẻn đến lối cửa gần nhất. Con chó có cố mấy để tránh mặt ông chủ cũng không xong, là tôi đoán thế khi nghe thấy tiếng chân chạy thoăn thoắt xuống cầu thang và tiếng kêu ăng ẳng kéo dài, nghe đến thương. Cũng may cho tôi là ông chủ lại đi qua và vào phòng của ông ấy, rồi đóng cửa lại. Ngay lúc ấy, Joseph đưa Hareton lên đi ngủ. Tôi đã trốn trong phòng Hareton nên ngay khi nhìn thấy tôi, lão ta liền nói:
“Thế là cái nhà này từ nay đã có chỗ để chứa được cả cô và cái thói kiêu kì nữa đấy, ấy là tôi nghĩ vậy. Buồng trống không, chỉ có mình cô với Chúa, thật là một sự kết giao đến ớn!”
Tôi vui mừng chộp ngay lấy thông báo đó, và vừa lúc tôi bổ nhào cả người xuống ghế bành, bên bếp lửa, tôi đã gật lia lịa và ngủ liền. Giấc ngủ ngon lành và sâu mặc dù chẳng được bao lâu. Ông Heathcliff đã đến đánh thức tôi dậy, vừa vào đến phòng ông ta đã hỏi theo cung cách rất trìu mến của mình là tôi làm gì ở đây. Tôi nói nguyên nhân tại sao tôi lại ngủ muộn làm vậy, vì ông ấy đã để chìa khóa buồng chúng tôi trong túi của ông ấy. Tính từ sở hữu chúng tôi làm cho ông ta vô cùng tự ái. Ông ta thề là không có chuyện đó và cũng không bao giờ buồng đó là của tôi cả; nhưng tôi cũng chẳng nhắc lại lời nói của ông ấy, mà cũng chẳng cần tả thái độ của ông ấy làm gì. Ông ta đã cố gắng không mệt mỏi và thật khéo léo để gây cho tôi phải căm ghét ông ấy! Đôi lúc tôi ngỡ ngàng về ông ta tới mức tôi không còn biết sợ, vậy mà chị biết không, ông ta còn gây nỗi kinh hoàng cho tôi bằng mấy con hổ hay con rắn độc nào đó đấy. Ông ấy kể cho tôi nghe chị Catherine bị ốm và lên án anh trai tôi đã gây ra chuyện đó, thề rằng tôi phải là vật thế mạng cho Edgar cho đến khi ông ấy tóm được anh ấy.
Tôi căm ghét ông ấy, mà khổ một nỗi, tôi ngu quá cơ! Hãy dè chừng, đừng có hé miệng về chuyện đó với ai ở ấp. Ngày nào tôi cũng mong chị, chị đừng làm tôi thất vọng nhé!
ISABELLA