VỚI TÔI, CON BẠC LÀ NGƯỜI CHƠI MÁY ĐÁNH BÀI. TÔI THÍCH SỞ HỮU NHỮNG CHIẾC MÁY ĐÓ HƠN. NHÀ CÁI LÀ MỘT HÌNH THỨC KINH DOANH RẤT TỐT.
- DONALD TRUMP
Trong thế giới của người thắng và kẻ thua, của người bị lừa và kẻ lừa gạt, sòng bạc tượng trưng cho một thiên đường hiểm ác. Được xây dựng trên quy mô vô cùng lớn, các sòng bài tỏa ra một sức hấp dẫn mạnh mẽ, thu hút những kẻ hiếu kỳ và ngây thơ. Trò lừa bịp bắt đầu với các chiến dịch tiếp thị mà không hề đưa ra hình ảnh những lão già về hưu chống gậy ngồi trước máy đánh bài, mà là các anh chàng điển trai ngồi trên bàn bọc nỉ hai bên là những cô nàng xinh đẹp trong những chiếc đầm khoét sâu, miệng hơi hé mở vì ngây ngất. Khi kẻ lữ hành đến mảnh đất này, anh ta phát hiện những công trình kiến trúc lố lăng – vùng Tuscany giả mạo, vùng Old West giả mạo và thành phố Havana giả mạo – khiến sòng bạc trông giống như một nhà hát cho người trưởng thành. Bên trong là sự cuồng nhiệt đến từ những ánh đèn nhấp nháy và âm thanh hội hè khiến cho nơi này tỏa ra bầu không khí “vui vẻ” và “giải trí”. Chẳng ai buồn che giấu sự thật rằng sòng bài tồn tại để thuyết phục những người dễ tin rằng mặc dù họ thua hết số tiền mà họ phải vất vả lắm mới kiếm được, điều đó vẫn mang lại cảm giác hào nhoáng và hứng khởi. Vì thế, việc Donald Trump, một người mặc Tuxedo rất đẹp, từ lâu đã mong muốn sở hữu một sòng bạc là điều hiển nhiên.
Những trò đánh bạc thắng lớn đến Bờ Tây sau khi các cử tri New Jersey tán thành việc chấp thuận cho phép các hoạt động cờ bạc ở Thành phố Atlantic đổ nát và đầy tội phạm trong cuộc trưng cầu dân ý năm 1976. Cuộc vận động cho đề nghị này được những người điều hành và phát triển sòng bài chống lưng. Việc thông qua này mở đầu cho cơn sốt đất đai khi những kẻ đầu cơ lẫn các nhà điều hành tương lai đổ xô tìm kiếm bất động sản cho các sòng bạc khổng lồ cùng bãi giữ xe khách. Sòng bài đầu tiên khai trương là Sòng bài - Khách sạn Resorts, mà trước đó là Khách sạn Chalfonte- Haddon. Chủ sở hữu của nơi này, có nguồn gốc từ Las Vegas, ngay lập tức thu được món lợi nhuận 4,2 triệu đô la mỗi tuần. Chẳng mấy chốc những cái tên Vegas khác cũng xuất hiện, như Caesars, Bally’s, Sands, Tropicana. Đến năm 1984, tiền thuế từ các sòng bạc cung cấp 7% thu nhập cho chính quyền bang. Cùng thời điểm đó, Gamblers Anonymous ở New Jersey lập kỷ lục với số thành viên tăng gấp ba lần, và một phòng khám sẽ được khai trương để chăm sóc sức khỏe 24/24 cho những con bạc.
Nhận thức rõ về lịch sử phát triển của tội phạm có tổ chức ở Las Vegas, các công chức New Jersey kiểm tra những người xin giấy phép kinh doanh sòng bạc để xem liệu họ có bất kỳ mối liên hệ nào với các nhân vật chướng tai gai mắt ấy hay không. Thế nhưng, quyết định của họ dường như không nhất quán. Resorts được cấp giấy phép mặc dù các bằng chứng cho thấy một trong những cố vấn của sòng bài này đã chuyển hơn 400 ngàn đô la cho Tổng thống nước Bahamas, nơi mà công ty đang kinh doanh một sòng bài khác. Sau khi chi 320 triệu đô la cho khu phức hợp khách sạn/sòng bài, tập đoàn danh tiếng Hilton đã không được cấp giấy phép khi các ủy viên phụ trách mảng cờ bạc xác định công ty vẫn chưa giải quyết thỏa đáng vấn đề liên quan đến lời cáo buộc rằng họ đã tiêu hủy những văn bản pháp lý và báo cáo nhạy cảm về hoạt động vi phạm pháp luật tại khách sạn ở San Francisco của công ty. (Nhiều quan sát viên tin rằng các ủy viên khó chịu nhiều hơn vì Hilton đã không khúm núm quỵ lụy trước họ.) Sự từ chối khiến cho người đứng đầu công ty – William Barron Hilton, người từ lâu đã xây dựng một hình ảnh đúng mực, tức điên người. Hilton đã tranh thủ được sự ủng hộ nhiệt tình của những công chức hàng đầu thuộc bang New Jersey, những người đã khuyến khích công ty đầu tư vào đây. Bally’s và Caesars cũng phải chịu một áp lực tương tự, nhưng đã nhận được giấy phép sau khi họ thay đổi đội ngũ quản lý.
Thách thức trong khâu xin giấy phép khiến sòng bài trở nên khó phát triển hơn dự án thông thường, và những ông chủ tương lai phải dựa vào sự hướng dẫn của các vị cố vấn và luật sư địa phương. Với sự giúp đỡ này, Donald Trump tìm đến một nhóm những vị chủ đất sẽ cho ông thuê khối bất động sản hàng đầu nằm gần hội trường Thành phố Atlantic thời kỳ suy thoái. Hội trường này, nhìn như một cái lều mái vòm khổng lồ bằng xi măng, nổi tiếng vì là nơi diễn ra cuộc thi Hoa hậu nước Mỹ hàng năm. Khu đất bao gồm cả một khoảnh đất nhỏ do người dân địa phương kiểm soát, những người bị nghi có mối liên hệ với các băng nhóm du thủ du thực. Mặc dù ban đầu Trump chỉ dự định thuê khu đất này, nhưng ông ta phải hối lộ ở những khu khác để làm vừa lòng các quan chức nhà nước bởi họ sẽ không cấp phép cho một sòng bạc phụ thuộc vào mối quan hệ với những nhân vật đáng ngờ như vậy. Ông ta cũng giành được quyền kiểm soát các khối bất động sản nhỏ liền kề nhưng không thể đi đến thỏa thuận với một chủ đất tên Vera Coking, người mà ngôi nhà khách ba tầng Sea Shell của bà nằm chễm chệ ngay giữa khu vực sắp thi công.
Mảnh đất bên dưới ngôi nhà Sea Shell vô cùng hoàn hảo để làm bãi đỗ xe cho những chiếc Limo sang trọng mà sẽ đưa những con bạc lắm tiền đến với Trump Plaza trong kế hoạch. Luật sư của bà đặt giá trị khu đất trong khoảng trên dưới 2 triệu đô la. Coking thích cơ ngơi của mình và rất vui lòng ở lại đó cho đến khi nhận được tiền. (Trước Trump, Coking đã từng từ chối Bob Guccione, người xuất bản tạp chí Penthouse, ông này cũng ôm mộng mở một sòng bài ở Atlantic. Sự ngoan cố của bà là một trong những chướng ngại vật khiến cho dự án bất thành, để lại cho ông hoàng phim khiêu dâm bộ khung rỉ sét của một tòa nhà cùng với tài khoản ngân hàng tan hoang.) Trong những cuộc thương lượng kéo dài giữa Coking và Trump, báo chí đưa tin rằng bà đã từ chối một lời đề nghị trong hàng triệu lời đề nghị đi cùng với phòng khách sạn và dịch vụ phòng miễn phí suốt đời. Đây không phải là sự thật. Cũng như tin Vera Coking đã qua đời khi đang nói chuyện. Vào thời điểm năm 2015 bà vẫn khỏe. Điều thật sự đúng đó là Coking dường như đã cưỡng lại nghệ thuật bán hàng của Donald Trump một cách siêu phàm. Bà thậm chí còn gọi ông ta là “đồ con gián, hèn hạ, và đê tiện”.
Atlantic từng có nhiều đảo chắn, là nơi bùng nổ và lụi tàn của cơn sốt bất động sản kể từ khi thành phố thành lập vào năm 1853 khi những kẻ đầu cơ mua sạch các lô đất dọc bãi biển và sau đó bán nó với mức lợi nhuận lên đến 900% khi đường sắt được đưa vào thành phố. Sòng bài được cho là sẽ phục hồi lại nền kinh tế địa phương sau lần thất bại gần nhất, nhưng nó cũng mang đến những hoạt động đầu cơ y như vậy, thậm chí còn nhiều hơn. Một vài chủ sở hữu bất động sản quả thật trở nên giàu có, nhưng những kẻ thắng lớn đã dự đoán trước một cuộc trưng cầu dân ý về sòng bài và, trong một số trường hợp, đã sử dụng các mối quan hệ chính trị để kiếm lợi. Thị trưởng Thành phố Atlantic đã bị bắt giam sau khi bị bắt quả tang hỗ trợ những tên tội phạm có tổ chức chơi trò chơi này.
Ở một số khu vực phát triển quan trọng của Atlantic, có những lô nhà bị phá hủy toàn bộ, nhưng các dự án sòng bài bị đình trệ và khu đất trở nên hoang tàn và rậm rạp. Các khu dân cư khác vẫn trong tình trạng nguy hiểm và bị chèn ép khi giá đất leo thang khiến những nơi này trở nên quá đắt đỏ cho bất kỳ ai muốn tiến hành các dự án khôi phục hoặc xây dựng thông thường. Dường như tất cả đều trông chờ cơ hội thành công về mặt tài chính và sẵn sàng chờ đợi đến khi đạt được mức giá mong muốn. Khi 20% nhà cửa bị phá hủy, những người thuộc tầng lớp trung lưu không thể tìm được một ngôi nhà đàng hoàng tử tế, và khu vực trường học ở địa phương không đủ sức chi trả cho bất động sản để xây trường mới. Nhiều việc làm trong sòng bài về tay những người sống trong đất liền và thường xuyên phải di chuyển xa đến chỗ làm. Tóm lại, sau khi các hoạt động cờ bạc đến Thành phố Atlantic, cuộc sống của nhiều người dân nơi đây trở nên tồi tệ hơn. Họ vẫn là những người nghèo khổ, không bao giờ có thể chạm đến dòng tiền đã xây dựng nên sòng bài, trả công cho giám đốc, và tưởng thưởng cho các ông chủ sòng bạc.
Tháng 3 năm 1982, Trump có được giấy phép kinh doanh trong lĩnh vực cờ bạc. Vào tháng Năm ông ta bắt đầu quá trình xây dựng xung quanh Nhà khách Sea Shell. Số tiền cho công trình này đến từ cùng hạn mức tín dụng mà bố ông đã giúp thu xếp cho dự án Commodore. Mặc dù tạp chí People đã phong cho ông là tỷ phú, Bộ phận Thi hành Cờ bạc của bang kết luận rằng trong tài khoản ngân hàng của chính Trump có chưa tới 400 ngàn đô la.
Báo cáo của Bộ phận Thi hành Cờ bạc chỉ ra một trong những yếu tố cốt lõi trong chiến lược kinh doanh của Trump. Bất cứ khi nào thu được lợi nhuận với các dự án thành công như Khách sạn Hyatt hay Trump Tower, ông ta thường khởi động các hoạt động mới mà cần đến những khoản vay mượn khổng lồ. Trong những năm 90, nguyên giám đốc điều hành của Trump nói với nhà báo Harry Hurt III rằng “tất cả đều là chiêu trò” mà trong đó Trump xoay chuyển các khoản tiền nhỏ giữa các thực thể doanh nghiệp để đủ điều kiện vay tiền nhằm phát triển những doanh nghiệp mới. Người cho vay, nhất là những người đã từng làm ăn với bố của Donald suốt nhiều năm, cảm thấy tin tưởng thành tích của Fred Trump. Họ cũng hiểu được phương pháp của nhà Trump.
Donald cũng rất nỗ lực để thu mua bất động sản với giá thỏa thuận. Ví dụ, năm 1985, ông mua hai khối bất động sản ở Manhattan – Khách sạn St. Moritz và tòa nhà Trung tâm nuôi dưỡng trẻ bị bỏ rơi New York – với mức giá tổng cộng là 114 triệu đô la. Những người cho vay thế chấp nó với số tiền 134 triệu đô la, và 20 triệu đô la còn dư tùy Trump sử dụng sao cho phù hợp. Không như người chủ nhà mua nhà bằng tiền thế chấp, cá nhân Trump không chịu bất cứ trách nhiệm nào khi có điều gì không ổn trong những thỏa thuận này. Danh tiếng của Donald có thể bị tổn hại trong trường hợp thất bại tệ hại, nhưng tài sản cá nhân của ông ta hoàn toàn được bảo vệ.
Chiến lược thứ ba của Trump bao gồm việc tuyển dụng các đối tác có nguồn lực tài chính dồi dào, những người sẵn sàng hỗ trợ các dự án do ông nghĩ ra và đã qua được nhiều giai đoạn giấy phép và phát triển. Nghệ thuật bán hàng và khả năng tận dụng các mối quan hệ chính trị, thường rất bền vững vì Trump đã góp tiền thực hiện chiến dịch cho các ứng viên và người đương nhiệm, thật sự mang đến giá trị cho những mối quan hệ đối tác này. Quan hệ chính là “đồ nghề” của Trump, và ông ta biết cách biến nó thành lợi nhuận.
Ở Atlantic, nơi Trump không có những mối quan hệ sâu sắc như đã khai thác ở New York, ông phải chật vật để có chỗ đứng. Với mối liên hệ lịch sử với hoạt động phạm tội có tổ chức và việc bóc lột các con nghiện, cờ bạc được xem là một hoạt động kinh doanh mờ ám. Donald nhận thức được khía cạnh đen tối này của việc kinh doanh và cuối cùng nhận thấy rằng đối với “4 hoặc 5 phần trăm” khách hàng, chi tiêu quá mức là một vấn đề. “Không nghi ngờ gì nữa”. Trump, người chấp nhận những rủi ro lớn trong kinh doanh cũng như cuộc sống cá nhân, đã đặt ra giới hạn khi nói đến việc đặt cược vào một sòng bạc: “Trong đời mình tôi chưa bao giờ đánh bạc”.
Mặc cho tiềm năng lợi nhuận vốn có trong một ngành kinh doanh dựa trên cơ hội một cách hợp pháp, nhìn chung những người cho vay truyền thống không sẵn sàng hậu thuẫn cho các dự án xây dựng sòng bài. Một mặt, rất ít chuyên gia tài chính hiểu được công việc kinh doanh. Mặt khác, ngành công nghiệp cạnh tranh gay gắt này phụ thuộc vào những mốt nhất thời không thể dự đoán. Khi tìm kiếm tiền tài trợ, Trump nhận được rất ít sự ủng hộ từ những người cho vay ở New York và bắt đầu lùng sục khắp nước Mỹ để có tiền xây dựng. Tại Los Angeles, ông đến thăm Michael Milken. Trước khi vào tù vì vi phạm luật an ninh, Milken là người đi đầu trong phương pháp tiếp cận tài chính mới mà theo đó sẽ khuyến khích các nhà đầu tư chấp nhận rủi ro lớn hơn để thu về các khoản thanh toán lãi suất cao đối với những trái phiếu được mô tả công khai là “thứ bỏ đi”. Trump đến gặp Milken sau khi ông này mới bán được 160 triệu đô la trái phiếu nhằm giúp ông trùm cờ bạc Steve Wynn của Las Vegas xây dựng khách sạn và sòng bài Golden Nugget ở New Jersey.
Milken đưa ra đề nghị giúp đỡ Trump, nhưng hai người không bao giờ đi đến thỏa thuận. Một số ngân hàng nhỏ hơn tìm đến cho vay, nhưng ngay cả khi góp chung với nhau, họ vẫn không đáp ứng được nhu cầu của Trump. Khi đó, các giám đốc điều hành của chuỗi Khách sạn Holiday Inn đến gặp ông với lời đề nghị điều hành một trong các sòng bài Harrah’s của họ trong dự án phát triển Thành phố Atlantic của ông. Harrah’s, phân nhánh kinh doanh cờ bạc của chuỗi khách sạn, đã đi vào hoạt động ở Atlantic, nhưng tại một địa điểm gần bến thuyền thua xa vị trí đáng mơ ước của Trump ngay cạnh Trung tâm Hội nghị. Các cuộc thương lượng đã đi đến một đề nghị đầu tư 50 triệu đô la của Holiday Inn, một khoản tiền sẽ giúp thu xếp vấn đề tài chính cho quá trình xây dựng cũng như điều hành sòng bài sau khi Trump xây nó. Vì không có tiền đầu tư vào, Donald sẽ phải chia 50% lợi nhuận.
Hội đồng quản trị của Holiday Inn tập hợp lại ở Atlantic để kiểm tra địa điểm phát triển và đối tác tương lai của mình. Donald đã sắp xếp thêm các trang thiết bị bổ sung có mặt ở công trường trong một chuyến đến thăm khu đất, và có vẻ như chỉ có duy nhất một vị khách nhận thấy rằng những chiếc máy ủi đất đi tới đi lui trong cát dường như đang vận chuyển cùng một ụ đất từ chỗ này qua chỗ khác. Trump đưa ra lời giải thích vừa đủ nhằm tránh né mối bận tâm thật sự, và cuối cùng các thành viên hội đồng cũng chấp thuận quan hệ đối tác với ông.
Nghệ thuật quảng cáo và lấy lòng hội đồng quản trị của Holiday Inn là ví dụ hoàn hảo về phong cách của Trump, một phong cách chủ yếu dựa vào thiện ý của phần lớn mọi người, kể cả những doanh nhân giàu kinh nghiệm, khi gặp gỡ với các đối tác tiềm năng. Là động vật xã hội, con người luôn tìm kiếm sự đồng tình và phụ thuộc vào người khác để hành động với ý tốt. Hầu hết chúng ta đều thiên về thái độ này, bao gồm khuynh hướng lấp vào chỗ trống kiến thức của mình bằng những giả định tử tế. Đây là thái độ mà các ảo thuật gia và những tay nghệ sĩ lừa đảo dựa vào khi thực hiện mánh khóe lừa bịp của mình. Trump có một lối nói chuyện – chia sẻ những điều tưởng như là bí quyết, đưa ra lời khen, bày tỏ sự cảm thông – vốn tạo ra một kiểu hữu nghị giả tạo. Dưới những điều kiện này, người ta cảm thấy khó lòng đặt ra những câu hỏi gây khó dễ. Nếu Trump nói một câu như “Anh và tôi đều biết chúng ta đang nói về vấn đề gì”, họ sẽ gật đầu và để cho cuộc trò chuyện tiếp tục vì sợ mình sẽ có vẻ khiếm nhã hoặc ngu ngốc. Theo cách này, ông ta được người khác tin tưởng.
Khi sòng bài gần hoàn thành, Donald giao cho vợ mình, Ivana, chịu trách nhiệm về không gian nội thất bên trong, và bà đã dành nhiều thời gian hết mức có thể cho việc tạo ra một môi trường sẽ làm lóa mắt những kẻ nhẹ dạ. Đầu năm 1984, Ivana hiện là mẹ của ba người con – Donald Jr., cô con gái tên Ivanka và một bé trai mới sinh tên Eric – và bà rất bận rộn ở nhà. Mặc dù vậy, bà vẫn thường xuyên đến khu vực xây dựng sòng bài và lựa chọn tỉ mỉ mọi chi tiết trang trí.
Sòng bài Harrah’s trong Trump Plaza khai trương vào cuối mùa xuân 1984, với quầy bar tên là Trumps và nhà hàng tên Ivana’s. Sự cố kỹ thuật xảy đến với các máy đánh bài trong nhiều ngày, tước đi hàng triệu đô la doanh thu khỏi tay các đối tác. Việc kinh doanh càng gặp trở ngại hơn khi chuông báo cháy reo lên một cách bí ẩn “hàng chục triệu lận”, theo lời một trong các giám đốc điều hành của Harrah’s nói với tờ Wall Street Journal. Sau khi những hỗn loạn này được điều chỉnh, sòng bài vẫn hoạt động rất kém, thu về chưa tới phân nửa lợi nhuận dự kiến cho năm đầu tiên. Kết quả này đặc biệt đáng thất vọng so với thành tích năm 1984 của chín sòng bài còn lại trong thành phố, mà theo báo cáo là thu được nhiều hơn 8,4% so với năm trước.
Các bên đối tác không đồng tình với nhau về nguồn gốc gây ra những rắc rối ở sòng bài. Phía Trump cho rằng quản lý của Harrah’s đã đặt mục tiêu thấp và gạt đi những con bạc lắm tiền mà ông muốn thu hút. Nhóm quản lý của Harrah’s thì tin rằng họ am hiểu hơn một nhà phát triển đến từ New York, người chưa bao giờ điều hành một sòng bạc. Họ cũng cảm thấy thất vọng khi Trump không xây dựng được một khu vực đỗ xe cần thiết nhằm phục vụ những con bạc lái xe từ Philadelphia và thành phố New York đến Atlantic. Một nhà phân tích ngoài cuộc kết luận rằng những người đánh bài cảm thấy bối rối với sự liên kết thương hiệu ở nơi này, với những chữ Trump và Harrah’s xuất hiện cùng nhau và riêng rẽ trên nhiều bảng hiệu quảng cáo. Với Donald, người thích biến cái tên Trump thành một thương hiệu nhằm tăng giá trị cho mọi thứ ông ta đảm trách, sự lẫn lộn này còn tệ hơn cả việc phản tác dụng. Đó là mối đe dọa với kế hoạch tương lai của ông.
Không vui với các đối tác của mình ở Atlantic, Trump tìm đến Barron Hilton để thảo luận về sòng bài cực kỳ đắt đỏ và không có giấy phép mà Hilton đã xây ở khu vực bến du thuyền, gần như sát địa điểm ban đầu của Harrah’s ở Thành phố Altantic. Theo đánh giá của Trump, Hilton là thành viên của “Câu lạc bộ con Nhà đại gia. Ông ấy sinh ra trong nhung lụa và được dạy dỗ để trở thành quý tộc”. Trump đưa ra nhận định này vào năm 1987 mà không hề có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy ông ta nhận ra chính bản thân mình cũng đã nhận được rất nhiều sự chú ý và hưởng lợi từ khối tài sản nhỏ đầu tư vào giáo dục tư nhân, với tư cách là con trai của một trong những người đàn ông giàu nhất nước Mỹ. Có rất người được may mắn như vậy.
Trong cuộc trò chuyện đầu tiên với Hilton, Trump chẳng đi được đến đâu. Sau đó Steve Wynn đưa ra đề nghị mua 25% của Hilton và gây xôn xao dư luận về việc nắm quyền kiểm soát công ty. Cũng như Trump, Wynn là một doanh nhân táo bạo và hung hăng. Một trong những thỏa thuận lớn đầu tiên của ông này là mua một lô đất sát bên Caesars Palace ở Las Vegas với giá một triệu đô la và nhanh chóng bán nó cho Caesars với giá hai triệu đô. Nhưng không như Trump, Wynn không sinh ra trong gia đình giàu có. Bố mẹ ông làm chủ dịch vụ kinh doanh trò chơi bingo ở Maryland, và đóng góp chủ yếu của họ vào thành công của Wynn là 25 ngàn đô la trong lần thử sức kinh doanh đầu tiên của ông. Ông này cũng xây dựng một hình ảnh thân thiện với công chúng như ông miêu tả là “dịu dàng và dễ chịu”. Donald Trump có thể dịu dàng, nhưng không hề dễ chịu.
Với việc Wynn ngấm ngầm săn đuổi công ty của mình, Barron Hilton bắt đầu quyên tiền để đề phòng ông ta. Hilton không thể biết được liệu Wynn có ý định giành quyền kiểm soát công ty hay chỉ đang thực hiện chiến lược “thư xanh” mà theo chiến lược này, để ngăn chặn sự theo đuổi của Wynn, Hilton sẽ phải bỏ ra một khoản tiền chuộc. Một trong những luật sư lỗi lạc nhất nước Mỹ, Edward Bennett Williams, so sánh hành động này như những thủ đoạn “bảo kê” của giới xã hội đen, chúng sẽ đe dọa gây hại đến nạn nhân nếu họ không trả tiền định kỳ. “Anh biết đấy, bọn chúng sẽ nói, ‘Đã đến lúc có người nên tiếp quản anh.’ Đó là cách bọn xã hội đen làm”, Williams cho biết. Chiến lược thư xanh cũng hỗ trợ cho hoạt động giao dịch nội gián bởi vì một khi lời đe dọa được đưa ra, giá cổ phiếu của công ty nằm trong tầm ngắm sẽ luôn tăng lên. Những người bạn được tiết lộ trước thông tin có thể mua lúc giá còn thấp, chờ đến khi người gửi thư xanh thực hiện nước cờ của mình, và rồi sau đó bán ra khi cổ phiếu của công ty đạt đỉnh điểm.
Thư xanh chỉ là một trong nhiều chiến lược khác nhau mà bọn tư bản trấn lột đã sử dụng trong những năm kinh tế Hoa Kỳ tăng trưởng mạnh dưới thời Tổng thống Reagan. Những “kẻ cướp” doanh nghiệp này, trong đó có Carl Icahn và T. Boone Pickens, đã thu vào những khoản tiền khổng lồ để mua cổ phiếu của những công ty mà họ nhận thấy là quản lý yếu kém và bị đánh giá thấp. Nếu họ thành công, khoản nợ có thể được chuyển sang công ty được tiếp quản. Trong một số trường hợp, gánh nặng này dẫn đến việc công ty đó bị phá sản. Trong những trường hợp khác, một công ty sẽ bị chia nhỏ ra và bán lại cho người khác. “Kẻ cướp” cũng có thể gây áp lực để lấy tiền khỏi tay công ty mới vừa mua lại bằng cách bán thêm cổ phiếu chứng khoán. Mặc dù những tên cướp có thể phá hủy một phần trong toàn bộ công ty, lấy đi việc làm và cộng đồng kinh doanh nền tảng của người lao động, chúng gần như luôn tự mình làm ra tiền.
Trong trường hợp của Hilton, các nhà phân tích tài chính nghĩ rằng Wynn có thể mua cả công ty và bán tháo tất cả mọi thứ trừ sòng bài. Bán ra từng thứ một, hoặc bán với số lượng lớn, những khách sạn thông thường có thể thu hút đủ tiền để bù vào khoản chi phí khi mua lại toàn bộ. Theo cách đó, Wynn sẽ có được các sòng bài của Hilton mà không tốn một xu. Thực chất, ông ấy thậm chí có thể kiếm được nhiều hơn khoản tiền bỏ ra cho cổ phiếu của Hilton. Bởi vì gần như toàn bộ số tiền liên quan đến quá trình này đều được vay mượn, rủi ro là hoàn toàn không có. Dĩ nhiên, nếu ông ta thành công, Barron Hilton và các cổ đông khác sẽ mất quyền điều hành công ty, và các khối bất động sản chắc chắn sẽ phải chịu thêm món nợ mới. Nhưng chi phí hoạt động bên ngoài luôn có thể bù đắp bằng cách vắt kiệt người lao động và tăng phí thuê phòng. Và nếu một số khách sạn mà từng một lần có khả năng trả nợ của Hilton bị thất bại, đó là vấn đề của người khác.
Là người đàn ông mà tên tuổi đã ghi lại dấu ấn cho đế chế Hilton, Barron Hilton là người quan tâm nhất đến việc chống lại lời đề nghị của Wynn. Ông nhanh chóng xem xét lại quan điểm của mình về Donald Trump, đổi lại cho ông ta vào vai một vị cứu tinh. Trump từ bỏ chính sách mua rẻ thông thường của mình và đồng ý trả đủ cho Hilton 320 triệu đô la để mua lại khối bất động sản ở Thành phố Atlantic. Hoạt động tài chính cuối cùng cũng trở nên ổn định thông qua công ty đầu tư Bear Stearns, với trái phiếu được phát hành ở mức lãi suất 14% hàng năm. Khối bất động sản sẽ được đổi tên thành Lâu đài Trump. Chẳng ai bất ngờ khi Holiday Inn đưa đơn kiện Trump vì dùng tên mình cho một sòng bài mà sẽ cạnh tranh trực tiếp với sòng bài Harrah’s đang hoạt động tại Trump Plaza.
Mặc dù một doanh nhân khác có thể phải điêu đứng với tất cả những món nợ, và vụ kiện Holiday Inn, Donald đã hành động dứt khoát. Ông ta bỏ ra 73 triệu đô la để mua lại phần hợp tác của Harrah’s trong Trump Plaza, điều này đã chấm dứt mối quan hệ giữa hai bên lẫn vụ kiện tụng đang chờ xét xử. Trump có lý của mình khi tin rằng bản thân có thể cải thiện tình hình ở khu vực sòng bài đầu tiên mà ông đầu tư. Theo báo cáo quý của Ủy ban giám sát sòng bài ở New Jersey, Harrah’s chưa bao giờ thật sự thành công ở địa điểm này. Năm 1985, sòng bạc Trump đã thua lỗ trong khi sòng bài Harrah’s ở bến du thuyền thu về hơn 10 triệu đô la lợi nhuận. Trong quý đầu tiên của năm 1986, mọi việc ở cơ sở Trump có tiến triển chút đỉnh, nhưng Harrah’s ở bến du thuyền vẫn làm tốt hơn, thu về gần sáu triệu đô la so với lợi nhuận chưa tới một triệu đô la của cơ sở Trump.
Với việc củng cố vị thế ở Atlantic, Trump bước vào một giai đoạn mới trong cuộc đời làm tài chính của mình. Cảm thấy kích thích trước cảnh tiếp quản một doanh nghiệp, Trump đảo ngược tình thế trước Holiday Inn bằng cách mua lại hơn 2,5% cổ phần công ty và sau đó thông báo về việc đó. Khi ông ta mua, mỗi cổ phiếu được bán ra với giá 62 đô la, nhưng các chuyên gia phân tích Phố Wall tin rằng khối tài sản này, nếu có bị phân tán và bán lại, cũng có thể đáng giá đến 100 đô la mỗi cổ phiếu. Sự chênh lệch đó cho thấy bất kỳ ai muốn giành được quyền kiểm soát công ty và giải thể nó phải bỏ ra 500 triệu đô la. Trump đã thông báo công khai rằng mình đã mua lại Holiday Inn rất lâu trước khi mua đủ số cổ phiếu được yêu cầu trong quy định chứng khoán. Điều này, cùng với các nhân tố khác, khiến người ta thấy rằng việc Trump thật sự muốn mua lại công ty là điều không thể. “Ông ấy không phải là một tên cướp doanh nghiệp”, một viên chức ở Bear Stearns giải thích.
Tuy nhiên, lời ám chỉ về sự tiếp quản công ty đã giúp đẩy giá cổ phiếu của Holiday Inn vượt qua con số 71 đô la. Điều này cũng dẫn đến việc các giám đốc điều hành ở Holiday Inn thế chấp công ty với mức giá hai tỷ đô la. Bằng cách bắt công ty gánh thêm nợ, hội đồng quản trị của Holiday Inn đang thực hiện chiến lược “viên thuốc độc”, một chiến lược hủy hoại phần lớn giá trị mà “kẻ cướp” có thể thu về bằng cách bán đi tài sản công ty. Trump bán số cổ phiếu của mình và khoe rằng ông ta kiếm được 35 triệu đô la trong cuộc chạy đua về giá cả. Về sau, Trump được yêu cầu phải thực hiện một báo cáo cho chính quyền bang New Jersey, trong đó ông ta ghi nhận khoản tiền lời thật sự chưa đến 13 triệu đô la, mặc dù vậy, đây vẫn là một số tiền đáng kể.
Trump, người mà sau đó đã tuyên bố, “Sàn giao dịch chứng khoán New York vô tình cũng chính là sòng bạc lớn nhất thế giới”, bắt đầu trò chơi “cướp doanh nghiệp” bằng cách nhắm vào sòng bài/nhà máy sản xuất Bally’s với âm mưu mà tờ Wall Street Journal gọi là “thư xanh” qua việc ông ta mua lại 9,9% cổ phần công ty. Trong chiến lược phòng thủ “viên thuốc độc” của mình, Bally’s mua lại sòng bài Golden Nugget ở Thành phố Atlantic với 440 triệu đô la. Sau khi khiến cho Bally’s “nhiễm độc” trước nỗ lực tiếp quản của Trump, công ty trả 84 triệu đô la để mua lại số cổ phiếu của ông ta. Thỏa thuận giúp ông thu được 24 triệu đô la. Bally’s phải gánh một món nợ khổng lồ còn Trump thì chuyển sang mục tiêu tiếp theo, Resorts International, công ty sở hữu sòng bài Resorts đang hoạt động và một sòng bài sắp hoàn thành ở Atlantic là Taj Mahal.
Người sáng lập Resorts International đã qua đời vào tháng 4 năm 1986. Tháng 3 năm 1987, Trump đưa ra lời đề nghị “bổn cũ soạn lại” cho công ty và cam kết hoàn thành dự án xây dựng ở thành phố Atlantic. Chi phí ước tính của sòng bài Taj, như người ta hay gọi, ban đầu là 185 triệu đô la, đã tăng vọt lên đến hơn 500 triệu đô la. Khi đi nước cờ với Resorts, Trump tập trung vào những cổ phiếu loại B của công ty, vốn cao xấp xỉ bốn lần so với giá cổ phiếu loại A, nhưng mỗi cổ phiếu phải đi kèm với một trăm phiếu bầu. Cấp bậc đặc biệt của những cổ phiếu cho phép Trump nắm 88% số phiếu bầu của các cổ đông trong khi chỉ phải trả 12% giá trị công ty. Thảo nào ông ta xem thị trường chứng khoán như một sòng bạc.
Khi các cổ đông hạng A của Resorts biết được thủ đoạn của Trump, một số người lên tiếng cảnh báo. Những người chỉ trích ông ta dữ dội nhất đã nổi giận trước cái giá 22 đô la cho mỗi cổ phiếu Trump đưa ra. (Với con số này Trump sẽ phải trả tổng cộng 125 triệu đô la để tiếp quản hoàn toàn.) Sau đó, chỉ vài ngày trước khi Trump hoàn thành thỏa thuận mua lại Resorts và biến nó thành công ty tư nhân, Merv Griffin thông báo rằng ông sẽ trả 35 đô la cho mỗi cổ phiếu loại A còn lại. Hai người đàn ông đưa đơn kiện lẫn nhau.
Không ai ngờ Griffin lại là người thách thức quyền sở hữu của Trump đối với Resorts. Ông này lớn hơn Trump 19 tuổi và nổi tiếng là một người trong giới giải trí chứ không phải doanh nhân. Sau hơn một thập kỷ thành công với sự nghiệp ca hát trong một ban nhạc lớn, Griffin đã dẫn các chương trình game show và thay thế Jack Paar trên chương trình Tonight. Năm 1965, chương trình trò chuyện giữa nhiều người – The Merv Griffin Show – bắt đầu đi vào hoạt động và kéo dài đến năm 1986. Dù nói năng nhẹ nhàng, Griffin không hề ngại tranh luận. Khi chàng Donald Trump trẻ tuổi vẫn còn học việc trong văn phòng của bố mình, Griffin đã đứng trên bục lên tiếng phản đối việc Mỹ nhúng tay vào chiến tranh Việt Nam. Bằng giọng nói thành khẩn, ông đã thuyết phục Abbie Hoffman – người hay kích động chính trị – và Bertrand Russel – một triết gia/người theo chủ nghĩa hòa bình – cùng chia sẻ quan điểm nghi ngờ những giả định phổ biến về chính sách Hoa Kỳ. Nhờ vào các chương trình phát sóng vào buổi chiều của Griffin, lần đầu tiên hàng triệu người nội trợ và con cái họ được thoáng nhìn thấy những nhà kích động xã hội như Dick Gregory và Geogre Carlin.
Khi một người dịu dàng như Griffin âm thầm gây tranh cãi, ông cũng chứng tỏ bản thân là một doanh nhân sắc sảo. Khi phát triển ý tưởng cho trò chơi truyền hình Jeopardy, ông đảm bảo mình giữ lại quyền sở hữu và thành lập một công ty sản xuất chương trình để kiểm soát. Ông tiếp nối sự thành công của Jeopardy với những trò chơi truyền hình khác, như Wheel of Fortune, đã được nhượng quyền cho các đài truyền hình trên khắp thế giới. Năm 1986, Griffin bán công ty sản xuất chương trình của mình với giá 250 triệu đô la. Ông mang số tiền này tham gia vào cuộc chiến tranh giành Resorts International.
Với việc Donald Trump tuyên bố mình là tỷ phú, 250 triệu đô la khiến Griffin chỉ là “tôm tép” trong cuộc chiến giành Resorts. Nhưng như vậy là quá đủ để ông chi trả cho luật sư giải quyết các vụ kiện tụng và hồ sơ chứng khoán phát sinh trong cuộc cạnh tranh với Trump. Khi phân tích tình hình, Griffin tin rằng ông và đối thủ của mình mong muốn những điều hoàn toàn khác nhau. Rõ ràng Trump rất khao khát sòng bạc Taj, vì nó sẽ giúp ông ta có đủ số lượng tối đa cho mỗi giấy phép kinh doanh sòng bài của bang New Jersey (tối đa là ba) và Taj cũng là sảnh cờ bạc lớn nhất Atlantic và có lẽ là cả thế giới. Griffin, với bản chất là người làm giải trí chứ không phải nhà phát triển, lại thích những phần còn nguyên vẹn và đang hoạt động của Resorts, cụ thể là sòng bài hiện tại nằm trên lối đi lót ván dọc bờ biển của Atlantic và bốn khách sạn cộng thêm sòng bài ở quần đảo Bahamas.
Với việc hai người đàn ông mong muốn những điều khác nhau từ Resorts, cơ sở cho sự thỏa hiệp dường như khá rõ ràng. Mặc dù vậy, Trump đã lựa chọn tiến hành một cuộc chiến pháp lý lẫn cuộc chiến ngôn từ. Ông ta mở màn bằng cách buộc tội Griffin vì đã đưa ra một lời đề nghị “hoàn toàn viển vông” nhằm tạo ra sự náo động liên quan đến cổ phiếu của Resorts và khiến giá cổ phiếu tăng đột biến. (Đây chính xác là những gì đã xảy ra với cổ phiếu của Holiday Inn khi Trump thông báo rằng mình đã mua cổ phiếu của công ty này.) Sau đó khi Griffin trình lên Ủy ban Chứng khoán và Hối đoái(1) các văn bản chính thức để hợp lý hóa cái giá mà ông sẽ trả, Trump gọi đó là một nước đi “yếu” và “vô ích”. Ngôn ngữ của Trump, rõ ràng nhằm vào việc hạ thấp giá trị đối thủ của mình, cũng phần nào tiết lộ thái độ bực tức của ông. Mặc dù nắm trong tay 88% phiếu bầu, quyết định bán cuối cùng lại thuộc về ban giám đốc công ty, và ông ta có thể bị dồn vào thế bí nếu ba thành viên độc lập cảm thấy có nghĩa vụ phải chấp nhận mức giá mà Griffin đưa ra cho số cổ phiếu loại A. Bởi vì mức giá đó cao hơn 50% so với đề nghị của Trump, với tư cách là những người được ủy thác, có thể họ không còn lựa chọn nào khác.
(1) Securities and Exchange Commission (ND).
Về phần mình, Griffin không nói bất cứ điều gì về Trump, nhưng sau khi xem qua đánh giá mới về Resorts, ông đã nâng mức giá của mình lên hơn 45 đô la mỗi cổ phiếu, tức 295 triệu đô la. Như một người chơi bài poker đẩy chồng tiền xu ra giữa bàn, Griffin trả giá cao đến mức người ta không thể làm ngơ. Trump không phản ứng ngay, nhưng cuối cùng ra hiệu rằng có thể ông ta không sẵn sàng chạy đua với Griffin từng đồng một. Ngày 26 tháng 3 năm 1988, Trump thông báo đã mua lại Khách sạn Plaza thiêng liêng, nằm trên Đại lộ 5, ở Phố 59, với mức giá theo báo cáo là 407 triệu đô la. Như một thói quen, ông ta bổ sung thêm con số này khi đến gặp những người cho vay để vay tổng cộng 425 triệu đô la, số tiền này cho ông ta có thêm vài triệu đô tiêu xài sau khi đã chi trả cho người bán là Robert M. Bass.
Sau khi có được Khách sạn Plaza cùng với toàn bộ phần còn lại của chuỗi Khách sạn Westin, Bass và các đối tác của ông nghi ngờ không biết liệu khách sạn có thể sinh lời hay không, sau khi trả món nợ 300 triệu đô la. Họ lấy lại được gần một phần ba số tiền đã trả cho toàn bộ chuỗi Westin bằng cách bán đi một khách sạn cho Donald Trump. Ở Khách sạn Plaza, khả năng thành công của Trump không thể nào tốt hơn, xét việc ông đã chồng thêm món nợ xấp xỉ 125 triệu đô la lên trên gánh nặng trước đó của Plaza. Tuy nhiên, Trump nhanh chóng bán tháo các khối tài sản khác để thu về khoảng 100 triệu đô la, giúp ông có thể nghỉ xả hơi một chút.(2)
(2) O’Brien, 100 – 102.
Khách sạn Plaza mang đến cho Donald Trump không chỉ là một khách sạn với những đường nét cung điện kiểu Pháp. Tòa nhà này chính là điển hình cho New York. Chào đón du khách hơn 80 năm, khách sạn này được người dân địa phương cũng như khách du lịch yêu thích không kém gì Nhà ga Grand Central và thư viện công cộng chính được xây dựng cùng thời. Bài đầu tiên trong quyển sổ lưu bút của khách sạn viết, “Ông bà Alfred G. Vanderbilt cùng người hầu”. Là nhà của nhân vật hư cấu Eloise trong loạt sách thiếu nhi nổi tiếng của Kay Thompson, Khách sạn Plaza được tuyên bố là Điểm mốc Lịch sử Quốc gia vào năm 1986. Khách sạn đã xuất hiện trong phông nền của vô số phim ảnh và chương trình truyền hình. Căn phòng Ba Tư nổi tiếng của Khách sạn Plaza đã được nhiều diva như Eartha Kitt, Liza Minnelli và Peggy Lee đến biểu diễn, và phòng khiêu vũ của khách sạn chính là nơi diễn ra Vũ hội Black and White nổi tiếng của Truman Capote năm 1966.
Trump dường như nhận thức rất rõ về tầm quan trọng của tòa nhà, nhưng ông ta lại đề cập đến nó bằng những từ ngữ liên hệ đến bản thân. Trong một quảng cáo có trả phí, ông dùng rất nhiều chữ Tôi để công bố thỏa thuận về Khách sạn Plaza: “Tôi không mua một tòa nhà, mà mua một kiệt tác – là Nàng Mona Lisa. Lần đầu tiên trong đời, tôi đã chủ ý thực hiện một thỏa thuận không liên quan đến kinh tế – vì tôi không bao giờ có thể biện minh cho cái giá mà mình đã bỏ ra dẫu Khách sạn Plaza có thành công đến mức nào. Tuy nhiên, điều tôi đã làm là mang đến cho New York cơ hội sở hữu một khách sạn vượt qua tất cả những khách sạn khác! Tôi quyết tâm làm cho Khách sạn Plaza trở thành khách sạn lớn có một không hai ở New York, và có thể là khách sạn tuyệt vời nhất thế giới”.
Trong bốn câu nói này – chưa tới một trăm chữ – như là một hành động hào phóng với thành phố, Trump đã dàn xếp một thương vụ được thúc đẩy bởi tham vọng và khát vọng thương mại. Ông đang trao cho New York “cơ hội” trở thành địa điểm cho một khách sạn xa hoa. Được xây dựng cẩn thận như bất kỳ tòa nhà nào khác của ông, quảng cáo cũng đặt ra những điều kiện theo đó thương vụ này có thể được đánh giá, theo cách khiến cho việc Trump thất bại là điều không thể xảy ra. Ông ta đã “chủ ý” trả một cái giá không hề hợp lý nếu nhìn từ quan điểm kinh doanh. Tuy nhiên, Khách sạn Plaza là nàng Mona Lisa của các khách sạn, và vì thế ông được ngưỡng mộ vì sự hào phóng của mình. Và nếu ngẫu nhiên, Khách sạn Plaza chứng tỏ nó có thể tạo ra lợi nhuận, khi đó người đàn ông đã vượt qua những bất lợi vô cùng to lớn và tạo ra một phép màu về mặt tài chính.
Trong những ngày mua lại Khách sạn Plaza, Trump cũng đồng ý thương lượng với đối thủ trong cuộc tranh chấp Resorts International. Bỏ qua kiểu cách doanh nhân thông thường về địa điểm và các nguyên tắc cơ bản, Griffin sẵn lòng đến New York và gặp ông ta tại Trump Tower. Ông đến vào một chiều xuân và trong phút chốc đã được thang máy đưa lên đến tầng 26. Trump đưa Griffin vào văn phòng riêng, nơi mà từ cửa sổ có thể nhìn xuống toàn cảnh Công viên Trung tâm. Trump chỉ tay về phía Khách sạn Plaza và nhắc Griffin nhớ rằng mình vừa hoàn tất thủ tục mua lại biểu tượng gồm 800 phòng này. Griffin dí dỏm đáp lại, “Anh sẽ cần đến bấy nhiêu phòng cho toàn đội luật sư trong cuộc chiến với tôi đấy”.
Về sau Nina Easton kể lại chi tiết trong tờ Los Angeles Times, Griffin hỏi Trump ông ta muốn gì từ Resorts International. Trump trả lời rằng mình muốn sòng bài Taj, và cầu cảng bằng thép, vốn là một phần của công trình. Griffin hỏi tiếp, “Chỉ vậy thôi à?”. Trump đáp, “Đúng vậy”. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi này, căng thẳng được giải tỏa và những phác thảo cơ bản của một thỏa thuận được thu xếp. Cuối cùng, luật sư của cả hai đã nghĩ ra những chi tiết tốt hơn cho thỏa thuận tại một quầy bar của Khách sạn Helmsley, nơi Griffin lưu lại lúc bấy giờ. Theo thỏa thuận, Griffin sẽ nắm quyền kiểm soát Resorts International, giải tán nó, và bán cho Trump phần ông ta muốn theo giá cả đã thương lượng ở trên. Trong thỏa thuận công bố ngày 15 tháng 4 năm 1988, Trump nhận được thêm vài chiếc máy bay trực thăng nằm trong danh mục vốn đầu tư của Resorts. Griffin thì có vài chiếc thủy phi cơ – Grumman Mallards – mà Resorts vận hành dưới tên gọi Chalk’s International Airlines để đưa du khách đến quần đảo Bahamas. (Được thành lập năm 1917, Chalk’s là dịch vụ hàng không hoạt động lâu đời nhất Hoa Kỳ.)
Cả Griffin và Trump đều tin rằng tên tuổi mình rất có sức nặng đối với công chúng, và vì thế càng khiến cho sự nghiệp kinh doanh của họ trở nên có giá trị. Griffin, nổi tiếng vui vẻ và biết hưởng thụ, là người có tiếng tăm hơn, nhưng ông ít có khuynh hướng lạm dụng điều đó. Trump thì đặt tên họ của mình lên gần như tất cả mọi thứ ông ta chạm vào, ngoại trừ Khách sạn Plaza đáng kính. Mùa hè năm 1988, danh sách này bao gồm các sòng bài Trump ở Atlantic cũng như những tòa nhà quan trọng ở New York, gồm Trump Tower, Trump Plaza và Công viên Trump. Tuy nhiên, cái tên bắt đầu biểu thị sự giàu có, sang trọng và phấn khởi. Nó còn tượng trưng cho mức độ tự tôn và phóng đại khó coi.
Danh tiếng của Trump bị tổn hại lần đầu vào năm 1980, khi ông ta phá hủy công trình nghệ thuật Bonwit, nhưng sự chú ý tiêu cực của dư luận chỉ diễn ra trong thời gian ngắn. Mâu thuẫn nổ ra xung quanh kế hoạch xây dựng khu chung cư 15 tầng ở số 100 Central Park South (Công viên Trung tâm phía Nam) kéo dài suốt nhiều năm, và trong phần lớn thời gian đó Trump dường như hành xử như một tên côn đồ. Một vị thẩm phán thấy rằng Trump đã gửi “đơn kiện giả mạo và vô cớ” nhằm “quấy phá” và ép buộc một người thuê nhà phải rời đi. Trump được lệnh phải hoàn lại một phần tiền thuê nhà cho người đàn ông. Trong vài trường hợp khác, người ta thấy Trump có mưu toan “hăm dọa” và hành xử “gian trá”. Trong ba năm liền, những quản lý của ông đã không cho đặt cây thông Giáng sinh trong sảnh tòa nhà. Điều này khiến cho người phụ trách chuyên mục của tờ Times – Sidney H. Schanburg – gọi ông ta là “Donald Bịp Bợm”. Tony Schwartz của tạp chí New York mô tả hành vi lố bịch của Trump trong dự án là “tẩu pháp(3) của sự thất bại”.
(3) Tẩu pháp (fugue): Một loại nhạc (tương tự như Sonata). Xem thêm: https://vi.wikipedia. org/wiki/Tẩu_pháp (ND).
Những người thuê nhà ở số 100 Central Park South đã chứng tỏ họ là kẻ thù xứng tầm với Trump. Họ tập hợp lại thành một đoàn thể, thuê một luật sư gan lì, và trói buộc người đàn ông với những vụ kiện tụng pháp lý cho đến khi ông ta rơi vào cảnh giống như Gulliver, phó mặc tất cả cho người tí hon. Bằng chứng đưa ra ở vụ kiện cấp nhà nước tiết lộ rằng những người quản lý mà Trump thuê làm việc trong tòa nhà đã hứa sẽ đuổi người thuê nhà ra khỏi nơi đó trong vòng một năm. Khi các hoạt động sửa chữa và vệ sinh bị ngừng lại, mái nhà bắt đầu có lỗ thủng và trần nhà trong các căn hộ thì bị sập. Khu vực chung trở nên bẩn thỉu. Nhân viên ở sảnh không nhận bưu phẩm nữa. Người gác cổng ngừng mở cửa và gọi xe taxi. Một người bảo trì tòa nhà khai rằng ông ta được yêu cầu trình bày cho quản lý những gì mình biết về điều kiện tài chính và thói quen sinh hoạt tình dục của những người sống trong tòa nhà. Theo báo cáo của phóng viên Wayne Barrett, Trump kháng lại lời khai của nhân viên bảo trì. Hơn nữa, đại diện của Trump phát biểu trước giới báo chí rằng “những cáo buộc quấy rối là bịa đặt và là một nỗ lực có tổ chức của những người thuê nhà nhằm lợi dụng sự nổi bật của ông ấy”.
Gần như bất lực, những người thuê nhà tìm đến kênh truyền thông địa phương với những mẩu chuyện về 15 bà cụ sống trong tòa nhà và những cư dân nghèo khổ nhất, những người sẽ gặp khó khăn khi phải tìm kiếm một căn hộ có giá phải chăng ở Manhattan. Người thuê nhà cũng nhận được sự giúp đỡ từ chính quyền của Koch, đã đến tòa án cáo buộc Trump với “nỗ lực nghiêm trọng nhằm quấy phá và đuổi người khác mà không thông qua thủ tục pháp lý đúng đắn”. Vụ kiện cho phép ngài thị trưởng, người đang cố gắng để được tái đắc cử, vào vai người bảo vệ cho những người thuê nhà thấp cổ bé họng chống lại một người mà Koch miêu tả là nhẫn tâm và tham lam. Nhiều năm trời tranh đấu đã dồn Trump vào thế bí và cản trở nỗ lực biến tòa nhà thành khu chung cư cao tầng. Cuộc chiến kết thúc khi ông ta đồng ý giữ lại khu căn hộ số 100 Central Park South và sửa chữa những phần quan trọng trong khi người thuê nhà rút toàn bộ các đơn kiện chống lại ông.
Với Trump, là kẻ tìm kiếm chiến thắng trong mọi bước đi, sự việc xảy ra với 100 Central Park South là một thất bại để đời đồng thời nó gây ra một tình trạng lộn xộn trong quan hệ với công chúng. Thậm chí còn đau đớn hơn khi vụ việc này xảy ra sau một thất bại nặng nề khác – sự sụp đổ của USFL. USFL đã luôn chật vật ngay từ những ngày đầu thành lập. Trump đã thuyết phục bạn bè đồng sở hữu chuyển từ mùa giải xuân/hạ sang giải mùa thu, khi ấy họ sẽ tranh giành sự quan tâm của công chúng chống lại NFL(4) vững mạnh và các đội bóng đại học. Ông ta cũng thúc ép liên đoàn gửi đơn kiện NFL, cáo buộc NFL đã vi phạm luật chống độc quyền. Vụ kiện được cho là đã gây ra mức thiệt hại 567 triệu đô la và đã tạo ra một bản án với những khoản phạt lên đến con số 1,7 tỷ đô la. Mùa hè năm 1986, một bồi thẩm đoàn phát hiện ra NFL đã tìm cách giành độc quyền bất hợp pháp nhưng các chủ sở hữu USFL không bị thiệt hại quá nhiều. Bồi thẩm đoàn đã bồi thường thiệt hại cho nguyên đơn với một đô la tượng trưng. Khi đó, liên đoàn đã không còn hoạt động.
(4) National Football League (NFL): Liên đoàn Bóng bầu dục Quốc gia (ND).
Tại một thời điểm khác, có lẽ Donald Trump đã thu được kết quả tốt hơn trong những cuộc xung đột này với sự giúp đỡ của Roy Cohn, một “chiến binh pháp lý”có sức sáng tạo khác thường. Tuy nhiên, vào năm 1986, Cohn bị vây hãm đến mức chẳng thể giúp đỡ bất kỳ ai. Thứ nhất, ông bị hội đồng luật sư tấn công, cũng chính hội đồng này đã tước đi quyền hành nghề luật sư của Cohn. Không chỉ kiệt sức với việc kháng cáo, mà sau nhiều lần thoát thân trong gang tấc, dường như Cohn không còn đường nào để đi. Mọi việc thậm chí còn tệ hơn khi bệnh tình của ông đã kéo dài hơn một năm, và đơn thuốc bác sĩ cho không có tác dụng lâu dài.
Phải che giấu thiên hướng tình dục của mình quá lâu, Cohn không thể tâm sự với bạn bè rằng mình đã bị nhiễm HIV/AIDS, căn bệnh lúc bấy giờ đang lan truyền như một dịch bệnh trong cộng đồng người đồng tính ở New York. Trong thời kỳ này, khi thành kiến với người đồng tính đang cực kỳ phổ biến, nhiều người đàn ông phải sống khép kín như vậy. Thế nhưng, cuộc khủng hoảng HIV/AIDS cũng đã khiến nhiều người phải “lộ diện”, như một hành vi tự xác định mình và thể hiện tinh thần đoàn kết. Ở độ tuổi 59, Cohn quyết tâm với mưu mẹo của mình đến mức ông vẫn duy trì mối quan hệ với những người như Thượng nghị sĩ Jesse Helms, một kẻ phân biệt chủng tộc và kỳ thị người đồng tính, người đã phản đối nghiên cứu về dịch AIDS.
Roy Cohn đã lừa rất nhiều người, bao gồm cả một người bạn là Barbara Walters, khi nói rằng mình bị ung thư gan. Những khi cảm thấy khỏe hơn, ông trò chuyện với lối nói khoa trương và cay độc đặc trưng của mình. Khi Donald Trump tìm đến các công ty luật khác để giải quyết những vấn đề kinh doanh, Cohn có cảm giác như người mà ông giám hộ đã bỏ rơi ông vào lúc khó khăn hoạn nạn. Cây bút Wayne Barrett đưa tin lời phát biểu của Cohn, “Không thể tin là cậu ta lại làm điều này với tôi. Donald thật lạnh lùng hời hợt”.
Một vài người bạn thân của Cohn không bao giờ tha thứ cho Trump, họ tin rằng ông ta đã bỏ rơi người cố vấn của mình, người đã dạy dỗ ông ta thành công. Về phần mình, hai người đàn ông đã làm hòa với nhau vào năm cuối đời của Cohn. Cohn là người chủ động gọi điện cho Trump để hỏi xem liệu ông ta có thể thu xếp chỗ ở cho người yêu cũ của Cohn, Russell Eldridge, người cũng đang chết dần chết mòn vì căn bệnh AIDS. Theo lời Barrett và cây bút Nicholas von Hoffman, Cohn sẵn sàng gác máy nếu Trump hỏi về bệnh tình của bạn mình. Trump không hỏi gì cả. Thay vào đó, ông ta thu xếp cho Eldridge một căn phòng ở Khách sạn Barbizon mà ông đã mua lại trước đó. Khi hóa đơn khách sạn được gửi đến Cohn, ông đã vứt hết tất cả. Cuối cùng, nhân viên khách sạn cảm thấy đau buồn vì có một người sắp chết đang sống ngay giữa nơi mình làm việc, và thế là họ gọi điện cho Cohn, yêu cầu ông chuyển Eldridge ra khỏi nơi đó. Cohn không làm theo lời thỉnh cầu của họ, và dường như điều này không khiến Donald bận tâm mấy. Ông đã nhiều lần gọi điện động viên Cohn và mời ông đến dự bữa yến tiệc tại bãi biển Palm vào đầu tháng 3 năm 1986. Sự kiện được tổ chức tại Mar-a-Lago, trước đây là tài sản thuộc sở hữu của Bưu điện Marjorie Merriweather, mà gần đây Trump đã mua lại. Lần đó Cohn đã đến tham dự.
Sự tận tụy của Cohn đối với thực tại do mình xây dựng vững vàng đến mức ông vẫn tiếp tục duy trì nó dù cho rõ ràng ông đang hấp hối. Mùa xuân năm 1986, ông nói chuyện với Donald Trump về việc đồng ý tham gia vào một cuộc phỏng vấn với Mike Wallace hung tợn trong chương trình thời sự 60 Minutes. Trump nhớ lại lúc ấy ông ta đã phản đối ý tưởng này: “Tôi nói, ‘Roy à, đừng làm thế,’ bởi vì rõ ràng lúc đó ông ấy đang bệnh. Rõ ràng lúc đó ông ấy đang mắc bệnh AIDS. Tôi nói, ‘Đừng, Roy. Anh đang phạm sai lầm lớn… Ngay lúc này không có chuyện gì tốt đẹp xảy đến với anh cả.’”
Dù sao đi nữa Cohn vẫn quyết định tham gia cuộc phỏng vấn. Khi chương trình phát sóng, Cohn có vẻ hốc hác và cận kề cái chết khi ông nhìn thẳng vào Wallace và nói với ông này, cùng hàng triệu khán giả của chương trình 60 Minutes, “Tôi không bị AIDS”. Vào tháng Sáu, khi tòa án tối cao New York xác nhận việc khai trừ Cohn ra khỏi đoàn luật sư vì những phẩm chất mà họ thấy là “đáng chê trách” và “phi đạo đức” và “không chuyên nghiệp”, cánh nhà báo nhắc lại lời nói dối rằng ông bị ung thư gan. Nhân viên ở văn phòng nói rằng Cohn không có mặt bởi vì ông ấy đang đi du thuyền, nhưng khi phóng viên truyền hình Gabe Pressman gọi đến số điện thoại nhà và gặp Cohn, ông ấy đã bình luận về việc mình bị tước quyền luật sư như sau, “Tôi chẳng bận tâm”.
Vào tháng Bảy, Cohn được đưa vào một trung tâm khám bệnh nội trú tại Viện Sức khỏe Quốc gia (NIH) nằm ở ngoại ô Washington, D C. Rất khó có được giường bệnh ở NIH, nhất là giường dành để chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS, nhưng Roy là bạn tốt của ngài Chủ tịch và Nancy Reagan, và mặc dù không còn khả năng kêu gọi sự ủng hộ ở Tòa Thị chính, ông vẫn có rất nhiều “tay trong” tại thủ phủ nước Mỹ. Những ngày cuối đời của Cohn về sau được tác giả Nicholas von Hoffman và diễn viên Al Pacino tiết lộ với đầy đủ chi tiết trong cuốn sách Citizen Cohn và phiên bản truyền hình của vở Angels in America do nhà soạn kịch Tony Kushner biên soạn. Cohn qua đời lúc sáu giờ sáng ngày 2 tháng 8 năm 1986. Các viên chức NIH thông báo nguyên nhân tử vong chính thức là “ngưng tim phổi” gắn với “mất trí” và nhiễm trùng “tiềm ẩn” do AIDS gây ra.
Ngày 4 tháng 8 năm 1986, Donald Trump đến dự buổi lễ tưởng niệm kín dành cho Cohn, nơi những người thân thiết đến nói lời từ biệt ông. Từng là bạn thân và khách hàng lâu năm của Cohn, Trump nán lại phía sau căn phòng và không có mặt trong số những người bày tỏ lời tưởng niệm. Cùng ngày hôm đó, tạp chí Playgirl, vốn được nhiều người đồng tính nam ưa thích, tuyên bố Trump là một trong “10 người đàn ông sexy nhất nước Mỹ”. Danh hiệu này được ghi lại trong mọi tờ báo trên khắp cả nước, khi mà các biên tập viên đều cảm thấy vui mừng khi có cơ hội thêm chút gì đó gợi tình vào trong những bản tin. Trong 12 năm kể từ lần ra mắt của Playgirl, sexy đã trở thành một trong những từ được các cây bút sử dụng thường xuyên nhất trên tiêu đề tạp chí, chính các tác giả này là người đã cam đoan với độc giả rằng những người sexy làm chuyện sexy ở những nơi sexy. Sexy là một khái niệm hạn hẹp. Trừ một vài trường hợp ngoại lệ, phụ nữ cần phải trẻ, mảnh mai, và đẹp. Họ phải thể hiện rằng mình vừa độc thân nhưng cũng vừa không thể với tới. Ngoại hình cũng quan trọng với nam giới. Suốt nhiều năm, danh sách những người đàn ông quyến rũ nhất của Playgirl luôn bị thống trị bởi các vận động viên và người làm trong ngành giải trí với ngoại hình thon gọn và ưa nhìn. Trong số những người được vinh danh cùng Trump, chẳng có ai thấp người và ít tóc cả. Tuy nhiên, một người đàn ông không có vẻ ngoài của chàng Adonis cũng có thể được khen là quyến rũ nếu anh ta sở hữu nhiều phẩm chất gắn liền với định nghĩa đương thời về thành công: đó là tiền bạc, danh tiếng và địa vị xã hội.
Vào thập niên 80 ở nước Mỹ, đàn ông được nhiều người xem là thành công không phải những cầu thủ chơi cho các đội thể thao, mà là những người “độc diễn” cái gì đó đáng chú ý hoặc lắm tai tiếng. Người biểu diễn trong bất kỳ lĩnh vực nào – diễn viên, nghệ sĩ, vận động viên, người làm giải trí, thậm chí cả phát thanh viên – cũng đều có thể trở nên quyến rũ. Một số chính trị gia làm ra vẻ mình là người dám cả gan đả phá tín ngưỡng cũng rất quyến rũ, dù trên thực tế họ cũng hành xử như bao người khác. Doanh nhân cũng đạt tiêu chuẩn quyến rũ nếu họ xây dựng hình ảnh như những người theo chủ nghĩa cá nhân cực đoan, giống như các anh hùng trong thần thoại của miền Tây.
Vào khoảng năm 1986, độ nổi tiếng của Donald Trump chỉ ở mức vừa phải. Tuy nhiên, bằng việc cho tên ông vào danh sách những người “quyến rũ nhất” năm đó, cùng với diễn viên Bruce Willis, nhạc sĩ Rubén Blades và vận động viên chuyên nghiệp William Perry, tạp chí Playgirl đã góp phần nâng cao vị thế của ông lên rất nhiều. Tờ People khiến cả nước biết đến Donald Trump, trong khi chương trình Lifestyles of the Rich and Famous đã chứng thực sự giàu có của ông. Giờ đây ông ta có thêm phẩm chất thứ ba – sự quyến rũ – mà giúp hoàn thành bộ ba phẩm chất của người nổi tiếng trong thời đại truyền thông. Ở độ tuổi 40, người đàn ông khao khát sự giàu sang và mong muốn được người khác chú ý này cũng là mục tiêu mơ ước của tất cả những ai bị nam giới Mỹ thu hút. (Bởi vì một lượng lớn độc giả của Playgirl là người đồng tính nam.) Quyền năng của vị thế này cực kỳ to lớn. Cũng như rủi ro, nhất là với ông vì ông từng nói rằng ông ta yêu vợ con mình và mong mỏi sự chấp thuận của bố mẹ, những người đã kết hôn và ở với nhau trọn đời.