Vào hôm trước khi Đức Phật rời cung điện lúc nửa đêm, vợ ông đã sinh hạ một đứa trẻ. Một câu chuyện thật con người, quá đẹp... Trước khi rời khỏi cung điện, ông muốn ít nhất một lần nhìn mặt đứa trẻ, con của ông, biểu tượng cho tình yêu giữa ông với vợ. Thế là ông đi đến phòng ngủ của vợ mình. Cô ấy đang ngủ và đứa trẻ nằm cạnh cô, được đắp một tấm chăn. Ông muốn bỏ tấm chăn ra và nhìn mặt đứa trẻ, bởi vì có lẽ ông sẽ không bao giờ quay về nữa.
Ông sẽ dấn thân vào một cuộc hành hương bất định. Chẳng biết điều gì sẽ xảy đến với cuộc đời ông. Ông đánh đổi mọi thứ – vương quốc của ông, vợ ông, con ông, bản thân ông – để đi tìm chứng ngộ, một thứ mà ông mới chỉ nghe nói đến như một khả năng, một thứ từng xảy ra trước đây với một vài người tìm kiếm nó.
Giống như tất cả mọi người, lòng ông đầy hoài nghi, nhưng khoảnh khắc quyết định đã đến... Chính ngày đó ông đã nhìn thấy cái chết, ông đã nhìn thấy tuổi già, ông đã nhìn thấy bệnh tật, và lần đầu tiên ông cũng đã nhìn thấy một sannyasin. Nó trở thành câu hỏi tối thượng trong ông: “Nếu có cái chết thì việc lãng phí thời gian ở cung điện thật nguy hiểm. Trước khi cái chết đến, ta phải tìm ra điều gì đó cao hơn cái chết.” Ông kiên quyết ra đi. Nhưng tâm trí con người, bản tính tự nhiên của con người... Ông muốn nhìn mặt đứa trẻ, ông ấy thậm chí chưa nhìn mặt con mình. Nhưng ông sợ rằng nếu ông bỏ tấm chăn ra, lỡ như Yasodhara, vợ ông, thức dậy. Cô ấy sẽ hỏi: “Chàng làm gì trong phòng thiếp lúc nửa đêm vậy? Hình như chàng chuẩn bị đi đâu à...”
Người đánh xe đang đứng ngoài cửa, mọi thứ đã sẵn sàng; ông ấy đã sắp sửa đi nhưng ông ấy nói với người đánh xe: “Hãy đợi một phút. Để ta đi xem mặt con ta. Có thể ta sẽ không bao giờ quay về nữa.”
Nhưng ông không dám nhìn bởi ông sợ rằng Yasodhara có thể thức dậy và òa lên khóc: “Chàng đi đâu? Chàng đang làm gì vậy? Sự từ bỏ này là sao? Sự chứng ngộ này là sao?” Ai biết được chứ? Cô ấy có thể đánh thức cả cung điện! Người cha già sẽ tới và mọi chuyện sẽ hỏng hết. Cho nên ông ấy chỉ đơn giản là bỏ trốn.
Sau 12 năm, khi ông đã chứng ngộ, việc đầu tiên ông muốn làm là trở về cung điện của mình để xin lỗi cha ông, vợ ông, con ông, đứa trẻ nay đã 12 tuổi. Ông nhận thức được rằng họ sẽ giận dữ. Người cha quả thật rất tức giận, đó là người đầu tiên gặp ông, và trong nửa giờ, người cha liên tục xỉ vả Đức Phật. Nhưng rồi đột nhiên người cha nhận ra rằng ông ấy đã nói rất nhiều nhưng con ông chỉ đứng đó như một bức tượng cẩm thạch, như thể chẳng có gì tác động vào mình.
Người cha nhìn ông, và Đức Phật nói: “Đó là cái ta muốn. Xin hãy lau nước mắt đi. Hãy nhìn vào ta: Ta không còn là chàng trai đã rời khỏi cung điện. Con của ông đã chết lâu rồi. Ta trông giống như con ông, nhưng toàn thể ý thức của ta thì khác. Ông hãy nhìn xem.”
Người cha nói: “Ta đang nhìn đây. Suốt nửa giờ ta xỉ vả con và điều đó đủ để chứng tỏ rằng con đã thay đổi. Nếu không thì ta biết tính khí thiếu bình tĩnh của con, con không thể đứng lặng yên như thế. Chuyện gì xảy ra với con vậy?”
Đức Phật nói: “Ta sẽ kể cho ông. Trước hết cho ta thăm vợ và con ta. Họ hẳn là đang chờ, họ hẳn đã nghe là ta trở về.”
Điều đầu tiên vợ ông nói với ông là: “Thiếp có thể thấy rằng chàng đã được chuyển hóa. Mười hai năm qua là nỗi đau lớn của thiếp, nhưng không phải vì chàng bỏ đi. Thiếp đau khổ bởi vì chàng đã không nói với thiếp. Nếu chàng đơn giản nói với thiếp rằng chàng đi tìm kiếm chân lý, chàng nghĩ thiếp sẽ ngăn cản chàng ư? Chàng đã làm thiếp tổn thương nhiều lắm. Đây là vết thương thiếp mang trong suốt mười hai năm qua.
Không phải vì chàng ra đi tìm kiếm chân lý, đó là một điều đáng để hân hoan. Không phải vì chàng ra đi để chứng ngộ. Thiếp sẽ không ngăn cản chàng. Giống như chàng, thiếp cũng thuộc về đẳng cấp chiến binh. Chàng nghĩ thiếp yếu đuối đến mức sẽ gào khóc và ngăn chàng lại ư?
12 năm qua, nỗi đau duy nhất của thiếp là chàng đã không tin tưởng thiếp. Thiếp sẽ để chàng đi. Thiếp sẽ gửi tới chàng lời tiễn biệt, thiếp sẽ đến bên cỗ xe ngựa để nói từ biệt. Cho nên đầu tiên, thiếp chỉ muốn hỏi chàng một câu hỏi mà thiếp đã trăn trở suốt 12 năm, đó là dù chàng đã đạt được điều gì... và rõ ràng chàng đã đạt được điều gì đó. Chàng không còn là người đã rời cung điện này, chàng tỏa ra một ánh sáng khác, sự hiện diện của chàng hoàn toàn tươi mới, đôi mắt chàng trong ngần như bầu trời không gợn bóng mây. Chàng đã trở nên quá đẹp đẽ... chàng vốn vẫn luôn đẹp, nhưng vẻ đẹp này dường như không phải của thế giới này. Sự thanh nhã nào đó từ cái cao hơn đã giáng xuống chàng. Câu hỏi của thiếp là: Dù chàng đã đạt được điều gì, chẳng lẽ chàng không thể đạt được nó ở cung điện này ư? Chẳng lẽ cung điện này ngăn cản chân lý ư?”
Đó là một câu hỏi quá đỗi thông minh, và Đức Phật phải đồng tình: “Ta lẽ ra có thể đạt được nó ở đây, nhưng lúc đó, ta đã không nghĩ ra. Giờ đây ta có thể nói rằng ta có thể đạt được nó tại đây, trong cung điện này; chẳng cần phải lên núi, chẳng cần phải đi đâu hết. Ta phải đi vào bên trong, và điều đó có thể xảy đến ở bất cứ đâu. Cung điện này cũng ổn như bất cứ nơi nào khác, nhưng đến giờ ta mới có thể nói vậy. Vào thời điểm đó, ta không hề biết.
Cho nên nàng hãy tha thứ cho ta, bởi vì không phải ta không tin tưởng nàng hay sự can đảm của nàng. Thực ra, ta đã hoài nghi chính mình. Nếu ta thấy nàng tỉnh dậy, và nếu ta thấy con ta, có thể ta sẽ bắt đầu lưỡng lự: ‘Ta đang làm gì thế này? Rời bỏ người vợ xinh đẹp yêu ta và dâng hiến tất cả cho ta ư? Rời bỏ đứa con mới chào đời của mình ư?... Nếu ta rời bỏ nó thì sao nàng phải sinh nó ra? Ta đang trốn chạy trách nhiệm.’ Nếu cha già của ta thức giấc, ta sẽ không thể làm được việc đó.
Không phải ta không tin tưởng nàng mà là ta không tin tưởng chính ta. Ta biết rằng ta có sự do dự. Không phải toàn bộ con người ta đều muốn từ bỏ. Một phần trong ta nói: ‘Ngươi đang làm gì vậy?’ và một phần khác nói: ‘Đây là lúc phải hành động rồi. Nếu ngươi không làm ngay bây giờ thì sẽ càng lúc càng khó khăn hơn. Cha ngươi đang chuẩn bị trao vương miện cho ngươi. Khi ngươi được trao vương miện thì mọi thứ sẽ còn khó hơn nữa.’”
Yasodhara nói với ông: “Đây là điều duy nhất thiếp muốn hỏi, và thiếp hạnh phúc vô bờ khi chàng đã vô cùng chân thành trả lời rằng điều đó có thể đạt được ở đây, có thể đạt được ở bất cứ nơi nào. Bây giờ, con trai chàng đang đứng ở kia, thằng bé 12 tuổi, nó đã không ngừng hỏi về chàng, và thiếp đã nói với nó: ‘Con hãy đợi. Cha con sẽ quay về, ông ấy không thể tàn nhẫn, nghiệt ngã, bất nhân đến thế. Một ngày kia, ông ấy sẽ về. Có lẽ việc ông ấy đi để thực hiện cần thời gian; ngay khi ông ấy thực hiện được nó, điều đầu tiên ông ấy làm sẽ là quay trở về.’
Con trai chàng đây, và thiếp muốn chàng nói với thiếp, chàng để lại cho nó cái gì? Chàng có gì để cho con trai chàng? Chàng đã cho nó cuộc sống, bây giờ thì còn gì khác?”
Đức Phật chẳng có gì ngoài cái bát ăn xin, cho nên ông gọi con trai, cậu bé có tên Rahul, cái tên mà Đức Phật đã đặt cho cậu. Ông gọi Rahul tới gần và trao cho cậu cái bát ăn xin. Ông nói: “Ta chẳng có gì cả. Đây là tài sản duy nhất của ta; kể từ giờ trở đi ta sẽ dùng đôi tay mình làm bát ăn xin để nhận thức ăn, để xin ăn. Khi trao cho con chiếc bát ăn xin này là ta đang khai tâm cho con vào sannyas. Đó là kho báu duy nhất ta đã tìm ra, và ta muốn con cũng tìm ra nó.”
Ông nói với Yasodhara: “Nàng phải sẵn sàng để trở thành một phần trong tăng đoàn sannyasin của ta” và ông khai tâm cho vợ mình. Vị vua già đi đến và chứng kiến toàn bộ cảnh tượng. Ông ấy nói với Đức Phật: “Con bỏ gạt ta ra sao? Con không muốn chia sẻ cái con đã tìm thấy với người cha già của con sao? Ta đã gần đất xa trời rồi... Hãy khai tâm cả cho ta nữa.”
Đức Phật nói: “Thực ra ta tới để đưa tất cả các vị đi cùng ta, bởi vì cái ta tìm thấy là một vương quốc vĩ đại hơn nhiều, một vương quốc sẽ trường tồn mãi mãi, một vương quốc không thể bị xâm lược. Ta tới đây để các vị có thể cảm nhận sự hiện diện của ta, để các vị có thể cảm nhận nhận thức của ta, và ta có thể thuyết phục các vị trở thành những người đồng hành của mình.” Rồi ông khai tâm cho cả ba người bọn họ.
Ông đã đặt tên con trai là Rahul theo thần thoại Ấn Độ về nguyệt thực. Trong thần thoại này, mặt trăng là một người, một vị thần, và ông ta có hai kẻ thù: một là Rahu và người kia là Ketu. Hiện tượng nguyệt thực xảy ra bởi vì Rahu và Ketu bắt giữ mặt trăng. Họ cố gắng giết nó, nhưng lần nào mặt trăng cũng thoát khỏi tay họ.
Đức Phật đã đặt tên cho con trai là Rahul bởi vì ông nghĩ: “Đứa con này sẽ là chướng ngại lớn lao nhất của ta, nó sẽ là kẻ thù lớn lao nhất của ta. Nó sẽ ngăn cản ta đi tới dãy Himalaya. Tình yêu đối với nó, sự gắn bó đối với nó, sẽ là xiềng xích của ta.” Đó là lý do ông ấy đặt tên cậu bé là Rahul.
Nếu bạn đủ can đảm mạo hiểm mọi thứ cho tỉnh giác và nhận thức, chứng ngộ sẽ xảy ra.
Tất cả bọn họ cùng di chuyển tới một khu rừng bên ngoài thành phố, tất cả các đệ tử của Phật đang ở đó. Trong bài thuyết giảng đầu tiên cho các đệ tử vào tối hôm đó, ông bảo họ: “Vợ ta, Yasodhara, đã hỏi ta một câu vô cùng quan trọng. Cô ấy hỏi ta rằng: ‘Có thể chứng ngộ tại cung điện như một vị vua hay không?’ Và ta đã trả lời cô ấy sự thật: Ở nơi nào, vào thời gian nào, cũng không thành vấn đề. Một người có thể chứng ngộ ở bất cứ đâu, nhưng trước kia không ai nói điều đó cho ta biết. Ta đã không hình dung ra sẽ tìm thấy nó ở đâu, ta phải hỏi ai, ta phải đi đâu. Ta chỉ biết nhảy vào cái không biết. Nhưng giờ đây ta có thể nói rằng, cho dù các vị ở đâu, nếu các vị đủ can đảm để mạo hiểm mọi thứ cho tỉnh giác và nhận thức, chứng ngộ sẽ xảy ra.”