Không ngôn ngữ nào có thể biểu đạt được trải nghiệm chứng ngộ. Điều này là không thể bởi chính bản chất của hiện tượng ấy. Chứng ngộ vượt xa khỏi tâm trí mà ngôn ngữ lại là một phần của tâm trí. Chứng ngộ được trải nghiệm trong sự im lặng tuyệt đối.
Nếu bạn muốn gọi im lặng là một ngôn ngữ thì tất nhiên, chứng ngộ có một ngôn ngữ – bao gồm im lặng, bao gồm phúc lạc, bao gồm cực lạc, bao gồm ngây thơ. Nhưng đây không phải ý nghĩa thông thường của ngôn ngữ. Theo ý nghĩa thông thường, ngôn ngữ là những câu từ được sử dụng làm phương tiện truyền tải điều gì đó. Câu từ không thể truyền đạt được sự im lặng, cũng không thể truyền đạt được cực lạc, tình yêu hay phúc lạc. Trên thực tế, có thể nhìn thấy, có thể thấu hiểu, có thể cảm thấy sự chứng ngộ, nhưng không thể nghe thấy và nói ra nó.
Khi Đức Phật chứng ngộ, ông giữ im lặng trong bảy ngày. Tất cả hiện hữu nín thở chờ đợi lắng nghe ông, lắng nghe âm nhạc của ông, lắng nghe bài hát vô thanh của ông, những lời của ông đến từ vùng đất của cái cao hơn – những lời của chân lý. Tất cả hiện hữu chờ đợi và bảy ngày đó giống như bảy thế kỷ.
Câu chuyện đẹp đến phi thường. Đến một điểm nhất định nào đó, nó vẫn là thực tế, còn sau đó thì nó trở thành thần thoại, nhưng thần thoại ở đây không có nghĩa là nó trở nên giả dối. Có một số sự thật chỉ có thể được biểu hiện thông qua thần thoại. Ông ấy đạt được chứng ngộ, đó là một sự thật. Ông ấy giữ im lặng trong bảy ngày, đó là một sự thật. Toàn thể hiện hữu chờ đợi lắng nghe ông ấy là một sự thật, nhưng chỉ với những ai đã trải nghiệm điều gì đó của chứng ngộ và những ai đã trải nghiệm trạng thái chờ đợi chứ không phải với tất cả mọi người.
Mặc dù vậy, vẫn có thể hiểu rằng hiện hữu hân hoan mỗi khi ai đó chứng ngộ bởi vì đây chính là một phần của hiện hữu đang đạt đến biểu hiện cao nhất, một phần của hiện hữu đang trở thành một Everest, đỉnh núi cao nhất. Hẳn nhiên, đó là ánh huy hoàng tột bậc của hiện hữu. Khao khát của cái toàn thể chính là một ngày nào đó sẽ chứng ngộ, một ngày nào đó sẽ xua tan hết thảy cái vô thức, một ngày nào đó sẽ rót đầy toàn thể hiện hữu bằng ý thức và ánh sáng, một ngày nào đó sẽ tiêu diệt tất cả khổ đau và mang tới nhiều nhất có thể những đóa hoa của niềm vui sướng.
Vượt qua điểm này, nó trở thành thần thoại thuần túy, nhưng nó vẫn có ý nghĩa và sự thật của riêng mình.
Các vị thần trên thiên đường trở nên lo âu. Cần phải hiểu một điều: Không giống như Kỳ Na giáo tin rằng chỉ có một Thượng Đế, Phật giáo không tin rằng chỉ có một Thượng Đế mà họ tin rằng có nhiều vị thần. Họ dân chủ trong các khái niệm của mình hơn nhiều so với Hồi giáo, Do Thái giáo hay Thiên Chúa giáo. Những tôn giáo đó độc đoán hơn. Chỉ một Thượng Đế, một tôn giáo, một kinh thánh, một nhà tiên tri. Họ rất chuyên quyền. Còn Phật giáo có một cách tiếp cận khác, dân chủ hơn nhiều, con người hơn nhiều. Phật giáo quan niệm có hàng triệu vị thần.
Trên thực tế, mọi bản thể trong hiện hữu đều phải trở thành một vị thần vào một ngày nào đó. Khi anh ta chứng ngộ, anh ta sẽ trở thành một vị thần. Theo Phật giáo, không có Thượng Đế là đấng sáng tạo, và điều này đem lại phẩm giá cho mọi sinh linh. Bạn không phải con rối, bạn có tính cá nhân, tự do và lòng tự trọng. Không ai có thể tạo ra bạn, không ai có thể phá hủy bạn. Cho nên, một khái niệm khác nảy sinh từ đây: Không ai có thể cứu bạn ngoại trừ chính bạn. Trong Thiên Chúa giáo có ý niệm về đấng cứu thế, trong Do Thái giáo có ý niệm về đấng cứu thế. Nếu có một Thượng Đế, ông ta có thể cử các sứ giả, các nhà tiên tri, các vị cứu tinh của mình đến cứu bạn. Ngay cả việc giải phóng chính bạn cũng không nằm trong tay bạn. Ngay cả sự giải phóng của bạn cũng sẽ là một loại nô lệ. Ai đó khác giải phóng bạn, và một sự giải phóng mà nằm trong tay ai đó khác thì không giống giải phóng cho lắm.
Tự do phải được giành lấy chứ không phải xin xỏ. Tự do phải được nắm lấy chứ không phải khẩn cầu. Thứ tự do được ban cho bạn như thể đó là món quà của sự thương hại thì không có giá trị nhiều lắm. Cho nên, trong Phật giáo cũng không có đấng cứu thế. Nhưng có các vị thần, những người đã chứng ngộ trước đó. Từ thuở hồng hoang, hẳn đã có hàng triệu người chứng ngộ, tất cả họ đều là các vị thần.
Các vị thần này trở nên bối rối sau khi bảy ngày im lặng trôi qua. Việc con người chứng ngộ là hiện tượng hiếm có và độc đáo đến mức chính linh hồn của hiện hữu cũng chờ mong nó, khao khát nó. Hàng ngàn năm trôi qua mới có một người chứng ngộ. Điều gì xảy ra nếu Đức Phật quyết định không nói ra, điều gì xảy ra nếu ông ấy chọn giữ im lặng? Đây là một điều tự nhiên bởi im lặng là ngôn ngữ đúng đắn duy nhất của chứng ngộ. Khoảnh khắc bạn cố gắng thể hiện nó qua ngôn ngữ, nó trở nên méo mó. Và sự méo mó xảy ra ở nhiều cấp độ.
Đầu tiên, nó trở nên méo mó khi bạn kéo nó xuống khỏi độ cao của nó, từ những đỉnh cao xuống những thung lũng tăm tối của tâm trí. Sự méo mó thứ nhất xảy ra ở đó. Gần 90% sự thực của nó bị mất đi.
Thế rồi bạn nói ra. Sự méo mó thứ hai xảy ra bởi vì cái mà bạn có thể hình dung trong cốt lõi sâu nhất của trái tim bạn là một điều, còn khoảnh khắc bạn đem nó biểu hiện thành ngôn từ, đó lại là một điều khác. Bạn cảm thấy tình yêu lớn lao, nhưng khi bạn nói với ai đó: “Anh yêu em”, đột nhiên bạn nhận ra từ “yêu” quá bé nhỏ, không thể biểu đạt điều bạn cảm thấy. Thật lúng túng khi sử dụng câu nói đó.
Sự méo mó thứ ba xảy ra khi người khác nghe thấy, bởi anh ta có những ý niệm riêng, những áp đặt riêng, những suy nghĩ của riêng anh ta, những quan điểm, những triết lý, những tư tưởng, những định kiến của riêng anh ta. Anh ta ngay lập tức sẽ diễn giải nó theo cách của mình. Ngay vào lúc nó chạm tới một người, nó không còn là điều đã khởi đầu từ trên đỉnh cao ý thức của bạn. Nó đã đi qua nhiều thay đổi đến mức nó hoàn toàn trở thành một điều khác. Cho nên nhiều lần, những người chứng ngộ đã không nói ra. Trong 100 người chứng ngộ, có lẽ chỉ có một người lựa chọn nói ra.
Đức Phật là một người hiếm hoi, có học thức, có năng lực ngôn ngữ tốt đến mức nếu ông ấy chọn giữ im lặng thì thế giới sẽ bỏ lỡ một cơ hội vĩ đại.
Các vị thần đi xuống, chạm chân Đức Phật và yêu cầu ông nói ra: “Hiện hữu đang chờ. Cây cối đang chờ, núi non đang chờ, các thung lũng đang chờ. Những đám mây đang chờ, các vì sao đang chờ. Đừng làm mọi người thất vọng. Đừng tàn nhẫn thế, hãy nhân từ và nói ra đi!”
Nhưng Đức Phật có lý lẽ riêng của mình. Ông nói: “Tôi có thể hiểu lòng từ bi của các vị và tôi muốn nói ra. Trong bảy ngày, tôi đã lưỡng lự giữa việc nói ra hay không nói ra, và mọi lý lẽ đều dẫn tới không nói. Tôi không thể tìm thấy một lý lẽ nào ủng hộ việc nói ra. Tôi sẽ bị hiểu lầm. Và nếu chắc chắn tôi sẽ bị hiểu lầm thì nói ra để làm gì? Tôi sẽ bị lên án, sẽ không ai lắng nghe tôi theo cách những ngôn từ của một người chứng ngộ phải được nghe. Lắng nghe cần một sự huấn luyện nào đó, một kỷ luật; nó không chỉ là nghe.
Và ngay cả nếu có ai đó hiểu tôi, anh ta cũng sẽ không bước một bước nào, bởi vì mỗi bước đều nguy hiểm, như bước trên lưỡi dao. Tôi không phản đối việc nói ra, chỉ là tôi không thấy có chút tác dụng nào, và tôi thấy mọi lý lẽ đều chống lại việc đó.”
Các vị thần nhìn nhau. Điều Đức Phật nói là đúng. Họ bước sang một bên để thảo luận xem nên làm gì tiếp theo. “Chúng ta không thể nói rằng điều ông ta nói là sai, nhưng chúng ta vẫn muốn ông ta nói ra. Phải tìm ra cách nào đó để thuyết phục ông ta.” Họ thảo luận hồi lâu rồi cuối cùng đi đến một kết luận.
Họ quay lại chỗ Đức Phật và nói: “Chúng tôi đã tìm ra một lý lẽ nhỏ bé, lý lẽ duy nhất. Nó rất nhỏ bé so với tất cả những lý lẽ chống lại nó, nhưng chúng tôi vẫn muốn ông xem xét. Lý lẽ của chúng tôi là, có thể ông sẽ bị 99% con người hiểu lầm, nhưng ông không thể nói ông sẽ bị 100% con người hiểu lầm. Ông phải cho ít nhất một số dư, chỉ 1% thôi. 1% đó không nhỏ trong vũ trụ bao la này, 1% đó là đủ lớn. Có lẽ trong số 1% đó, vài người sẽ có thể kế tục con đường.
Thậm chí dù chỉ một người trong cả vũ trụ chứng ngộ được nhờ việc ông nói ra thì điều đó cũng đáng. Chứng ngộ là trải nghiệm to lớn đến mức nếu nỗ lực cả đời ông chỉ có thể làm một người chứng ngộ thì ông cũng đã làm tốt rồi. Đòi hỏi nhiều hơn là không đúng, như vậy còn hơn cả đủ. Có một số ít người, ông phải nhận ra như chúng tôi nhận ra, đang ở ngay trên ranh giới. Chỉ cần một cú đẩy nhẹ, một chút khích lệ, một chút hy vọng và không chừng họ sẽ vượt qua ranh giới của vô minh, họ sẽ vượt qua ranh giới của trói buộc, họ sẽ thoát khỏi những nhà tù của mình. Ông phải nói ra.”
Đức Phật nhắm mắt lại và suy nghĩ một lát, rồi ông nói: “Tôi không thể phủ nhận khả năng đó. Nó không nhiều, nhưng tôi thực sự hiểu rằng tất cả những lý lẽ của tôi, dù to lớn thế nào, cũng nhỏ bé so với lòng trắc ẩn. Tôi sẽ sống ít nhất 42 năm nữa, và nếu tôi có thể làm cho dù chỉ một cá nhân chứng ngộ thôi thì tôi cũng sẽ cảm thấy được tưởng thưởng vô hạn. Tôi sẽ nói ra. Các vị không phải lo phiền nữa.”
Ông ấy đã nói ra trong 42 năm, và chắc chắn không chỉ một, mà khoảng hai tá người đã chứng ngộ. Hai tá người đó là những người đã học được nghệ thuật lắng nghe, những người đã học được nghệ thuật im lặng. Họ không chứng ngộ nhờ những điều Đức Phật nói, họ chứng ngộ bởi vì họ cảm nhận được chính bản thân Đức Phật – sự hiện diện của ông, sự rung cảm của ông, sự im lặng của ông, chiều sâu của ông, độ cao của ông.
Hai tá người này không chứng ngộ chỉ bởi nghe những lời của Đức Phật. Ngôn từ có giúp đỡ họ, giúp họ ở trong sự hiện diện của Đức Phật, giúp họ thấu hiểu vẻ đẹp mà những ngôn từ thông thường khoác lên khi được một người chứng ngộ sử dụng.
Những cử chỉ bình thường cũng sẽ trở nên thật duyên dáng, những cặp mắt bình thường cũng sẽ trở nên thật đẹp đẽ, khi có chiều sâu và ý nghĩa. Cách Đức Phật bước đi có một phẩm chất khác, cách ông ấy ngủ có một ý nghĩa khác. Những người này không cố gắng hiểu Đức Phật đang nói gì, mà là hiểu ông đang là gì. Bản thể của ông ấy là ngôn ngữ duy nhất đáng tin cậy.
Hàng triệu người lắng nghe ông và thu được nhiều kiến thức. Ngày ông qua đời, trong cùng một ngày, 32 trường phái đã mọc lên, 32 sự phân chia giữa các đệ tử, bởi vì họ bất đồng trong cách diễn giải những điều Đức Phật đã nói. Người ta đã nỗ lực làm mọi cách có thể để họ tụ họp lại cùng nhau và tập hợp những lời họ nghe từ Đức Phật, nhưng tất cả đều thất bại. Có 32 phiên bản khác nhau đến nỗi ta không thể hiểu làm cách nào người ta có thể lắng nghe một người theo nhiều cách đến như vậy.
Thậm chí ngày nay, 32 trường phái đó vẫn tiếp tục tranh cãi. Trong 25 thế kỷ, họ vẫn không hòa giải được với nhau. Trên thực tế, họ đã đi ngày càng xa nhau hơn. Bây giờ, họ trở thành những triết lý độc lập, mỗi bên đều tuyên bố rằng: “Đây mới là những gì Đức Phật đã nói và những người khác đều sai. Đây mới là kinh điển, những sách khác chỉ là tập hợp của những người không hiểu gì.”
Một trong những câu hỏi vĩ đại là: Ngôn ngữ của sự chứng ngộ là gì? Bản thể của người chứng ngộ là ngôn ngữ của ông ấy. Để tiếp xúc với ông ấy, hãy buông bỏ mọi sự phòng vệ, mở tất cả cánh cửa trong tim bạn, để cho tình yêu của ông ấy chạm được tới bạn, để cho rung cảm của ông ấy trở thành rung cảm của bạn... Từ từ, chậm rãi, nếu một người đã sẵn sàng, không sợ hãi, thì sẽ có gì đó hiển lộ ra mà không ai có thể thấy. Điều gì đó xảy đến, điều gì đó không được nói ra nhưng lại được nghe thấy. Điều gì đó không thể biểu hiện qua ngôn từ lại được truyền tải qua sự im lặng.
Đức Phật đã nói những điều chống lại người Brahmin, chống lại người Hindu, nhưng tất cả các đại đệ tử của ông đều là người Brahmin. Điều này có vẻ hợp lý bởi vì ông có sức hấp dẫn với bộ phận ưu tú nhất trong xã hội. Mặc dù ông ấy chống lại người Brahmin, nhưng người Brahmin ở vị trí cao nhất trong nấc thang và phần lớn giới trí thức lại xuất thân từ Brahmin.
Xá Lợi Phất là người Brahmin, Mục Kiền Liên là người Brahmin, Ma Ha Ca Diếp là người Brahmin. Tất cả họ đến với Đức Phật không phải bởi vì họ là những kẻ ngốc nghếch thất học, những kẻ bị đào thải, những con bạc, gái mại dâm, người thu thuế, trộm cắp. Không phải, mà bởi vì họ là những học giả lớn và họ có thể hiểu được điều Đức Phật đang nói là đúng.
Khi Xá Lợi Phất đến với Đức Phật, ông ấy đi cùng 500 đệ tử của mình – tất cả đều là những học giả lớn. Đầu tiên ông ấy tới để thảo luận, và Đức Phật rất hạnh phúc, còn gì đáng hoan nghênh hơn? Nhưng Đức Phật hỏi: “Ông đã trải nghiệm chân lý chưa, hay ông chỉ là một học giả lớn? Ta đã nghe danh ông...”
Nhìn Đức Phật một khoảnh khắc trong im lặng, như thể nhìn vào một tấm gương, hoàn toàn trần trụi, Xá Lợi Phất nói: “Tôi là một học giả lớn, nhưng tôi vẫn chưa biết chân lý.”
Đức Phật nói: “Vậy thì sẽ rất khó để tranh luận. Tranh luận chỉ có thể xảy ra giữa hai người không biết chân lý. Họ có thể tranh luận đến vĩnh hằng bởi vì chẳng ai biết. Cả hai đều vô minh, cho nên họ tiếp tục chơi với ngôn từ, logic, các trích dẫn và những kinh sách. Nhưng bởi vì cả hai đều không biết, chẳng có khả năng nào là họ sẽ đi đến kết luận. Cùng lắm điều có thể xảy ra là người khéo léo hơn, tinh ranh hơn, gian xảo hơn đánh bại người kia, và người kia sẽ trở thành môn đệ của người tinh ranh hơn hay thành thạo hơn. Nhưng đây có phải là một phán quyết nào đó về chân lý không?
Hoặc là có khả năng hai người gặp gỡ nhau đều đã nhận ra chân lý, nhưng thế thì chẳng có cách nào để tranh luận. Có gì để tranh cãi đây? Họ sẽ ngồi im lặng, có lẽ họ sẽ mỉm cười hoặc nắm lấy tay nhau, nhưng có gì để nói đây? Nhìn vào mắt nhau họ sẽ thấy chẳng có gì để nói, chúng ta cùng biết những điều như nhau, chúng ta ở trong cùng một không gian. Cho nên sẽ chỉ có im lặng.
Khả năng thứ ba là một người biết và một người không biết. Thế thì sẽ rất phiền phức bởi vì người biết không thể phiên dịch cái anh ta biết sang ngôn ngữ của người dốt nát. Và người không biết sẽ lãng phí thời gian, tâm sức một cách không cần thiết bởi vì anh ta không thể thuyết phục được người biết. Toàn thể thế giới không thể thuyết phục người biết, bởi vì anh ta biết còn các vị thì không. Kể cả là tất cả các vị hợp sức lại...”
Đức Phật nói: “Ông đã tới cùng 500 đệ tử. Ông không biết, và tuyệt đối chắc chắn là trong số 500 đệ tử này không có ai biết; nếu không thì họ đã không là đệ tử của ông, họ sẽ là thầy của ông. Ông thì uyên bác hơn, họ thì kém uyên bác hơn. Ông già hơn, họ trẻ hơn. Họ là đệ tử của ông. Nhưng chúng ta sẽ thảo luận như thế nào? Ta đã sẵn sàng... nhưng ta biết. Một điều chắc chắn, ông không thể cải hóa ta. Khả năng duy nhất là ông sẽ bị cải hóa, cho nên hãy nghĩ cho kỹ.”
Nhưng Xá Lợi Phất đã bị cải hóa rồi và ông ấy đủ trí tuệ, ông ấy đã đánh bại nhiều học giả lớn. Ngày đó, Ấn Độ có truyền thống là các học giả sẽ đi khắp đất nước để đánh bại các học giả khác.
Trừ khi một người đã đánh bại tất cả các học giả, nếu không, anh ta sẽ không được đám đông học giả nhìn nhận như một người thông thái. Nhưng đứng trước một vị Phật, đứng trước một người đã biết, vấn đề không phải là sự uyên bác của bạn và số lượng học giả bạn đã đánh bại.
Đức Phật nói: “Ta sẵn sàng rồi. Nếu ông muốn tranh luận thì ta sẵn sàng, nhưng có thể tranh luận gì đây? Ta có mắt, ông không có mắt. Ta không thể giải thích cho ông ánh sáng là gì. Ông không thể có ý niệm nào về ánh sáng. Ông sẽ chỉ nghe thấy từ ‘ánh sáng’ nhưng từ đó sẽ không có ý nghĩa gì với ông. Nó sẽ thiếu đi nội dung – được lắng nghe mà không thấu hiểu.
Do đó, nếu ông thực sự bận tâm đến chân lý chứ không phải việc đánh bại hay chiến thắng người khác... bởi vì đó không phải mối quan tâm của ta. Ta đã đạt tới rồi. Ai còn quan tâm đến việc đánh bại người khác? Để làm gì chứ? Nếu ông quan tâm đến chân lý thì hãy ở đây và làm điều ta nói. Ông có thể tranh luận sau khi ông đã biết được điều gì đó đáng kể, điều gì đó mang tính tồn tại. Khi đó ông có thể tranh luận.”
Nhưng Xá Lợi Phất là một người trí tuệ khác thường. Ông nói: “Tôi biết rằng tôi không thể tranh luận bây giờ cũng như về sau. Thầy đã chấm dứt việc tranh luận của tôi. Giờ đây tôi không thể tranh luận bởi vì tôi không có mắt, sau này tôi cũng không thể tranh luận bởi vì tôi sẽ có mắt. Nhưng tôi sẽ ở lại.”
Ông ấy ở lại cùng 500 đệ tử của mình. Ông nói với các đệ tử: “Từ giờ ta không còn là thầy của các vị nữa. Người đàn ông này, ta sẽ ngồi bên ông ấy và là đệ tử của ông ấy. Xin hãy quên ta là thầy của các vị. Bây giờ nếu các vị muốn ở đây, ông ấy là thầy của các vị.”
Một sáng nọ, một người đến chỗ Đức Phật và hỏi ông: “Thượng Đế có tồn tại không?” Đức Phật nhìn người này giây lát rồi đáp: “Có.” Người này không thể tin nổi bởi anh ta nghe nói rằng Đức Phật không tin vào Thượng Đế. Bây giờ, sao ông ấy lại trả lời như thế?
Một trong các đệ tử thân cận nhất của Đức Phật, A Nan Đà, cũng có mặt ở đó. Ông ta bị sốc. Đức Phật chưa bao giờ nói chắc chắn như vậy mà không có bất cứ “nếu” và “nhưng” nào. Một câu trả lời “Có” đơn giản – với Thượng Đế. Ông ấy đã dành cả đời để chiến đấu chống lại ý niệm về Thượng Đế.
Nhưng có một giao ước giữa Đức Phật và A Nan Đà. A Nan Đà là anh họ của Đức Phật. Khi sẵn sàng trở thành đệ tử của Đức Phật, A Nan Đà đã hỏi trước: “Thầy phải hứa với tôi vài điều. Ngay bây giờ tôi là anh họ thầy. Sau khi khai tâm, tôi sẽ là đệ tử của thầy, lúc đó thầy bảo gì tôi cũng làm. Nhưng ngay lúc này tôi muốn yêu cầu thầy vài điều và thầy sẽ phải thực hiện.”
Đức Phật nói: “Ta biết ông. Ông không bao giờ yêu cầu điều gì gây khó dễ cho em họ của mình. Ông có thể yêu cầu.”
A Nan Đà nói: “Không có gì to tát cả, chỉ là những điều đơn giản thôi. Một là mỗi đêm trước khi đi ngủ, nếu tôi muốn hỏi điều gì đó, thầy phải trả lời tôi. Thầy không thể nói: ‘Ta mệt mỏi vì hành trình hôm nay rồi, quá nhiều người và quá nhiều cuộc gặp...’ Thầy phải trả lời tôi. Tôi sẽ không bao giờ hỏi vào ban ngày, tôi sẽ không làm phiền thầy trong cả ngày. Nhưng tôi là một con người và tôi chưa chứng ngộ, thế nào cũng phát sinh một vài thắc mắc.”
Đức Phật nói: “Điều đó được chấp nhận.”
Vẫn theo cách đó, A Nan Đà yêu cầu thêm hai điều nữa: “Một điều là thầy sẽ không bao giờ bảo tôi đi nơi nào khác. Tôi sẽ luôn ở cạnh thầy, phục vụ thầy đến hơi thở cuối cùng. Thầy sẽ không bảo tôi: ‘Bây giờ ông hãy đi truyền bá thông điệp của ta’, như cách thầy cử những người khác. Thầy không được cử tôi đi.”
Đức Phật nói: “Được thôi, không thành vấn đề.” Và thứ ba, A Nan Đà nói: “Nếu tôi yêu cầu thầy dành thời gian cho người nào đó, vào giờ nào đó – có thể là giờ kỳ quặc, vào lúc nửa đêm – thầy sẽ phải gặp người đó. Đó là những đặc ân thầy phải dành cho tôi.”
Đức Phật nói: “Điều đó cũng được thôi bởi vì ta biết ông. Ông sẽ không lợi dụng những điều kiện này...”
Niềm tin giống như rào cản, dù niềm tin đó là gì, đúng hay sai.
A Nan Đà bối rối vì câu trả lời của Đức Phật rằng Thượng Đế tồn tại. Nhưng ông ta không thể hỏi trong ngày, ông ta đợi đến đêm. Vào buổi chiều, một người khác tới và hỏi cùng câu hỏi: “Có Thượng Đế hay không?” Và Đức Phật đáp: “Không, hoàn toàn không.”
Giờ thì mọi thứ trở nên phức tạp hơn! A Nan Đà gần như sụp đổ. Nhưng như thế vẫn chưa là gì. Vào buổi tối, một người thứ ba đến, anh ta ngồi trước mặt Đức Phật và hỏi: “Thầy có thể nói điều gì đó về Thượng Đế không?”
Đức Phật nhìn anh ta, nhắm mắt lại và giữ im lặng. Người đàn ông cũng nhắm mắt lại. Họ ngồi im lặng trong nửa giờ đồng hồ, rồi người đàn ông chạm chân Đức Phật và nói: “Xin cảm ơn câu trả lời của thầy”, và rời đi.
Giờ thì thật quá lắm. Thời gian trôi đi chậm rãi và A Nan Đà sôi sục ở bên trong; khi mọi người đã đi hết, ông ta đứng vụt dậy. Ông ta nói: “Thế này thật quá lắm! Ít nhất thầy nên quan tâm đến những đệ tử tội nghiệp chúng tôi. Ba người đó không biết cả ba câu trả lời, họ chỉ biết một câu trả lời. Nhưng chúng tôi ở cùng thầy, chúng tôi đã nghe tất cả các câu trả lời. Thầy nên nghĩ cho cả chúng tôi nữa, chúng tôi phát điên mất. Nếu điều này tiếp diễn, chuyện gì sẽ xảy đến với chúng tôi?”
Đức Phật nói: “Ông phải nhớ một điều. Đầu tiên, những câu hỏi đó không phải câu hỏi của ông, những câu trả lời đó không dành cho ông. Tại sao ông lại nhảy vào trong nó? Đó không phải việc của ông. Đó là việc giữa ta và ba người đó.”
A Nan Đà nói: “Tôi hiểu điều đó. Đó không phải câu hỏi của tôi, và thầy không trả lời tôi. Nhưng tôi có tai và tôi có thể nghe; tôi nghe câu hỏi, tôi nghe câu trả lời. Và ba câu trả lời đó mâu thuẫn chồng lên mâu thuẫn. Đầu tiên thầy nói có, sau đó thầy nói không, rồi thầy lại giữ im lặng, thầy không nói lời nào rồi người đàn ông đó chạm chân thầy và nói: ‘Xin cảm ơn câu trả lời của thầy.’ Và chúng tôi ngồi đây... chẳng có câu trả lời nào hết.”
Đức Phật nói: “Ông nghĩ về cuộc đời theo cách tuyệt đối, đó là vấn đề của ông. Cuộc đời là tương đối. Với người đầu tiên, câu trả lời là ‘Có’; nó phù hợp với anh ta, phù hợp với ngụ ý trong câu hỏi của anh ta, bản thể của anh ta, cuộc sống của anh ta. Người mà ta trả lời ‘Có’ đó là một người vô thần, anh ta không tin vào Thượng Đế và ta không muốn ủng hộ chủ nghĩa vô thần ngớ ngẩn của anh ta. Anh ta liên tục tuyên bố không có Thượng Đế. Ngay cả khi chỉ còn một không gian nhỏ chưa được thám hiểm thì vẫn có khả năng Thượng Đế tồn tại trong không gian đó. Ông có thể khẳng định chắc chắn là không có Thượng Đế khi ông đã thám hiểm toàn bộ hiện hữu. Điều đó chỉ có thể xảy ra vào lúc kết thúc cuối cùng, còn người đó chỉ đơn giản tin rằng không có Thượng Đế, anh ta không có kinh nghiệm thực sự nào về việc không có Thượng Đế. Ta phải đảo lộn anh ta. Ta phải đem anh ta xuống mặt đất. Ta phải đánh mạnh vào đầu anh ta. Câu trả lời ‘Có’ của ta phù hợp với người đó, với toàn bộ nhân cách của anh ta. Câu hỏi của anh ta không chỉ là ngôn từ. Nếu người khác hỏi câu hỏi đó thì có thể nhận được câu trả lời khác.
Và điều đó xảy ra khi ta trả lời người thứ hai: ‘Không’. Câu hỏi giống nhau, cùng những ngôn từ đó, nhưng con người đằng sau ngôn từ thì khác, cho nên mối quan hệ giữa ngôn từ với những ngụ ý đã thay đổi. Nó là tương đối. Người thứ hai cũng ngốc nghếch như người đầu tiên, nhưng ở thái cực đối nghịch. Anh ta tin rằng có một Thượng Đế, và anh ta đến để nhận sự ủng hộ của ta cho niềm tin của mình. Ta không ủng hộ niềm tin của ai bởi vì niềm tin giống như rào cản, dù niềm tin đó là gì, đúng hay sai. Không niềm tin nào là đúng, không niềm tin nào là sai; tất cả niềm tin chỉ đơn giản là ngu ngốc. Ta phải nói với người đó: ‘Không.’
Người thứ ba tới mà không có niềm tin nào. Anh ta không hỏi ta: ‘Có Thượng Đế không?’ Không, anh ta tới với trái tim rộng mở, không tâm trí, không niềm tin, không ý thức hệ. Anh ta là một người lành mạnh, thông minh. Anh ta hỏi ta: ‘Thầy có thể nói điều gì đó về Thượng Đế không?’ Anh ta không tìm kiếm sự ủng hộ của người khác cho hệ thống niềm tin của mình, anh ta không tìm kiếm một sự tin cậy, anh ta không hỏi với một tâm trí thành kiến. Anh ta hỏi về kinh nghiệm của ta: ‘Thầy có thể nói điều gì đó về Thượng Đế không?’
Ta có thể thấy rằng người này không có niềm tin, dù là cách này hay cách khác; anh ta ngây thơ. Với một người ngây thơ như vậy, ngôn ngữ là vô nghĩa. Ta không thể nói có, ta không thể nói không; chỉ im lặng là câu trả lời. Cho nên ta nhắm mắt lại và giữ im lặng. Và cảm giác của ta về người này đã đúng. Anh ta nhắm mắt lại. Thấy ta nhắm mắt nên anh ta nhắm mắt. Anh ta hiểu câu trả lời của ta: Hãy im lặng, đi vào trong. Anh ta giữ im lặng cùng ta trong nửa giờ và nhận được câu trả lời rằng Thượng Đế không phải một lý thuyết, một niềm tin để ủng hộ hay chống lại. Đó là lý do anh ta cảm ơn ta câu trả lời.
Và ông bối rối vì đó là câu trả lời gì mà anh ta cảm ơn ta ư? Anh ta nhận được câu trả lời rằng im lặng là thiêng liêng, im lặng là thần thánh; chẳng có gì thần thánh hơn im lặng. Và anh ta trở nên vô cùng thỏa mãn, bằng lòng. Anh ta tự mình tìm ra. Ta không cho anh ta câu trả lời, anh ta đã tìm ra câu trả lời. Ta đơn giản cho phép anh ta nếm trải sự hiện diện của ta.”