Khoa học công minh ra phán quyết “có tội”
Việc tố cáo những tác động độc hại của canxi thừa chắc chắn sẽ gây ra cơn bão tuyên truyền ầm ĩ. Ngành công nghiệp sữa, giới chức y tế và các công ty thực phẩm bổ sung đã đầu tư không biết bao nhiêu mà kể thời gian, tiền bạc và nhân lực để quảng bá tính cần thiết của việc tăng cường tiêu thụ canxi, cũng như quảng bá thực phẩm bổ sung canxi nhằm phòng ngừa và điều trị loãng xương. Việc ám chỉ canxi – một chất dinh dưỡng vốn được công nhận rộng rãi là tốt – là nguyên nhân gây bệnh và làm tử vong sẽ kích thích sự trả đũa từ những người bị đe dọa thiệt hại về danh tiếng và tài chính.
Tại thời điểm viết cuốn sách này, rất ít người xem xét đến khả năng rằng bất kỳ ai, đặc biệt là người cao tuổi, đều có thể đang mắc bệnh do dư thừa canxi độc hại, thậm chí họ còn tiếp tục thêm liều, và dùng quá liều. Những cảnh báo nhấn mạnh và thường xuyên lặp đi lặp lại từ các bác sĩ, báo chí phổ thông, ngành công nghiệp sữa và các nhà cung cấp thực phẩm bổ sung khẳng định rằng thiếu canxi là một vấn đề phổ biến và gần như luôn gặp phải ở phụ nữ mãn kinh và nam giới có tuổi.
Bằng chứng được cung cấp trong chương này cho thấy điều ngược lại mới là đúng. Theo định nghĩa, loãng xương là tình trạng thoái hóa của xương liên quan đến sự thiếu hụt canxi đáng kể trong chất nền xương. Bằng cách nào đó, việc quan sát thấy tình trạng thiếu canxi trong xương loãng được nâng lên thành bằng chứng cho tình trạng thiếu canxi chung trong toàn cơ thể.
Tuy nhiên, bằng chứng khoa học đã vẽ nên một bức tranh rất khác: mức độ thiếu canxi trong xương loãng thực ra là một chỉ số về lượng canxi thừa đang trú ngụ ở những mô không phải xương. Vấn đề thực sự không phải là sự thiếu canxi trong chế độ ăn, mà đúng hơn là sự “dịch chuyển” canxi từ xương đến các vùng khác trong cơ thể.
Đối với tuổi thọ và sức khỏe của người lớn tuổi, sự lan tràn khắp cơ thể của canxi thừa là điều đáng quan ngại hơn nhiều so với bất kỳ vấn đề nào liên quan đến loãng xương. Tăng lượng canxi nạp vào chẳng những không cải thiện được độ chắc của xương, mà còn gây dư thừa canxi ở mọi nơi trong cơ thể.
Canxi thừa trong những mô không phải xương đã được chứng minh là làm tăng tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân. Không chỉ vậy, nó đặc biệt liên quan đến nguy cơ tử vong cao hơn hẳn do hai căn bệnh gây tử vong nhiều nhất nước Mỹ: bệnh động mạch vành và ung thư. Hãy xem xét bằng chứng mang tính cảnh tỉnh này.
Canxi thừa thúc đẩy bệnh tim mạch
Khả năng bạn bị đau tim tăng 30% và khả năng bị đột quỵ tăng đến 20% nếu nạp thêm 500mg canxi hoặc nhiều hơn mỗi ngày – đó là kết quả có được từ một đánh giá toàn diện dựa trên 15 cuộc điều tra lâm sàng độc lập. Các nhà nghiên cứu thực hiện đánh giá báo cáo rằng các đối tượng sử dụng thực phẩm bổ sung canxi (500mg trở lên mỗi ngày) có nguy cơ đau tim cao hơn từ 27 đến 31% và nguy cơ đột quỵ cao hơn từ 12 đến 20%.
Một nghiên cứu có hơn 61.000 người tham gia được quan sát trong khoảng thời gian 19 năm kết luận rằng những người có lượng canxi nạp vào hơn 1.400mg/ngày có nguy cơ tử vong do bệnh tim mạch nói chung tăng ở mức đáng báo động là 40% và có nguy cơ tử vong do giảm lưu lượng máu đến cơ tim (bệnh tim thiếu máu cục bộ) tăng 114%.
Một thử nghiệm lâm sàng khác gần đây đã so sánh những người thường xuyên bổ sung canxi với những người không sử dụng thực phẩm bổ sung. Các nhà nghiên cứu này cũng kết luận rằng những người dùng thực phẩm bổ sung có nguy cơ đau tim tăng đáng kể. Nghiên cứu tương tự còn cho thấy bổ sung canxi làm tăng đáng kể mức cholesterol tổng ở phụ nữ mãn kinh. Tổng lượng cholesterol thường là một yếu tố quan trọng để đánh giá nguy cơ mắc bệnh động mạch vành.
Phụ nữ mãn kinh khỏe mạnh có dùng thực phẩm bổ sung canxi là đối tượng của một nghiên cứu dân số lớn kéo dài trong 5 năm. Các điều tra viên đã báo cáo sự gia tăng đáng kể của tỷ lệ biến chứng tim mạch, chẳng hạn như đau tim và đột quỵ. Lượng canxi nạp vào cao hơn còn liên can hơn nữa bởi các biến chứng tim mạch này thậm chí còn rõ rệt hơn ở những phụ nữ cho biết rằng đã tuân thủ nghiêm ngặt việc sử dụng thuốc, tức là tổng lượng canxi họ tiêu hóa lớn hơn.
Có lẽ còn nhiều bằng chứng thuyết phục hơn được tìm thấy thông qua việc sử chụp cắt lớp vi tính (chụp CT). Công cụ chẩn đoán hiệu quả này sử dụng công nghệ máy tính và tia X để tạo ra các “lát cắt” ngang hoặc hình ảnh của các cấu trúc cơ thể. Chụp CT cho thấy hơn một phần ba người Mỹ trên 45 tuổi có dấu hiệu vôi hóa động mạch. Tuổi càng lớn tỷ lệ này càng tăng mạnh, và phải nói là tăng vọt ở phụ nữ mãn kinh cũng như ở nam giới thiếu hụt testosterone.
Về bản chất, hiện tượng vôi hóa động mạch có liên quan đến bệnh mạch vành tới mức việc đo vôi hóa trong các mạch này được sử dụng để đánh giá quá trình tiến triển bệnh. Một nghiên cứu năm 1990 đã nhấn mạnh rằng hàm lượng canxi trong mảng bám động mạch tăng lên khi mảng bám đó phát triển. Dấu hiệu sớm nhất có thể thấy rõ của xơ vữa động mạch xuất hiện dưới dạng các vệt mỡ trong thành động mạch. Các điều tra viên báo cáo rằng các vệt mỡ này có lượng canxi nhiều gấp 13 lần so với các mô động mạch khỏe mạnh. Các mảng phát triển ở mức độ vừa phải có lượng canxi nhiều gấp 25 lần so với bình thường, và các mảng phát triển hết cỡ có lượng canxi nhiều gấp 80 lần. Khoảng 50% trọng lượng khô của các mảng tiến triển là muối canxi. Ở các giai đoạn đầu của xơ vữa động mạch xuất hiện đầy cholesterol, trong khi các mảng tiến triển rất giàu canxi.
Các điều tra viên khác cũng báo cáo rằng bệnh nhân lớn tuổi có hàm lượng canxi trong mảng xơ vữa động mạch cao hơn so với bệnh nhân trẻ. Điều này rõ ràng phù hợp với mức độ tiêu hóa canxi thừa ngày càng gia tăng ở bệnh nhân lớn tuổi.
Cũng có bằng chứng cho thấy canxi đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn đầu phát triển xơ vữa động mạch, ngay cả khi chỉ số vôi hóa động mạch vành bằng 0. Mảng bám không chỉ tồn tại ở những người có chỉ số vôi hóa bằng 0, mà sự phân bố các mảng bám cũng tương tự như tình trạng quan sát thấy ở bệnh nhân có mảng bám bị vôi hóa.
Điều này rõ ràng gợi ý rằng một người trẻ hơn có mảng bám vẫn nên có cùng những quan ngại về tình trạng dư thừa canxi vì canxi dường như đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn phát triển sớm của mảng bám, trước khi mảng bám cuối cùng phát triển đến mức có thể được phát hiện qua chụp CT.
Mảng bám không đột nhiên xuất hiện cùng tải lượng canxi dễ phát hiện mà không có một giai đoạn phát triển trước đó khi không thể phát hiện được nó. Chỉ số vôi hóa mạch vành bằng 0 là điều ấn tượng ở một người 80 tuổi, nhưng ở một người 40 tuổi, nó cần phải được liên kết với các dữ liệu phòng thí nghiệm và quan sát lâm sàng khác. Nếu người trẻ hơn này có tải lượng canxi tối thiểu và chỉ số vôi hóa động mạch vành bằng 0 thì cũng đừng cho rằng không cần điều chỉnh lối sống, bởi giai đoạn tích lũy canxi có thể phát hiện được hẳn có thể đã bắt đầu. Tốt nhất là nên bắt đầu điều chỉnh lối sống và yếu tố nguy cơ khi canxi chưa tích lũy đến mức có thể phát hiện được.
Canxi thừa thúc đẩy ung thư
Canxi và ung thư là những đồng minh thường trực. Thực tế đó đã là điều hiển nhiên từ nhiều thập kỷ. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu y học, vốn không muốn liên kết chất dinh dưỡng gần như “bất khả xâm phạm” này với sự khởi đầu và phát triển của bệnh ung thư, đã không sẵn lòng kết nối các dữ liệu.
Tình trạng vôi hóa ở cả mức độ hiển vi lẫn mức độ dễ quan sát thấy đều thường xuyên xuất hiện trong các mô ác tính. Các mảng lắng đọng như vậy có xu hướng xuất hiện tại các điểm bị viêm và thiếu chất chống oxy hóa. Tuy nhiên, nếu sự chuyển hóa canxi /phốt pho mất cân bằng đủ mức thì hiện tượng lắng đọng có thể xảy ra dù không có tình trạng viêm. Một khi canxi bắt đầu tích tụ – dù có hay không có một điểm khởi phát viêm – sự hiện diện của vôi hóa thường châm ngòi hoặc làm tăng tình trạng viêm, tạo điều kiện cho sự lắng đọng phát triển thêm.
Hiện tượng vôi hóa mô thường được quan sát thấy ở bệnh nhân ung thư, và bằng chứng cho thấy có mối liên hệ nhân quả rõ rệt giữa hai tình trạng đó. Ví dụ, vôi hóa ở tuyến giáp đã được phát hiện là làm tăng tỷ lệ mắc bệnh ác tính. Một số nghiên cứu cho thấy rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa canxi thừa và bệnh ung thư. Trong một nghiên cứu như vậy, các điều tra viên đã sử dụng các kỹ thuật chụp cộng hưởng từ (MRI) tiên tiến để phát hiện vôi hóa ở 22 trong số 23 (95%) ca ung thư tuyến tiền liệt ác tính.
Cứ cho là việc canxi và ung thư thường tồn tại ở cùng một chỗ không chứng minh được vai trò thủ phạm của canxi. Nhưng chúng ta có một bằng chứng buộc tội đanh thép: một cơ chế mà các nhà khoa học gọi là “mất cân bằng oxy hóa” (stress oxy hóa). Hai thực tế sau đây thiết lập mối liên kết không thể chối cãi giữa canxi thừa và bệnh ung thư:
1. Mất cân bằng oxy hóa là một tác nhân ai cũng biết của tất cả các bệnh thoái hóa, đặc biệt là ung thư.
2. Canxi nội bào tăng luôn làm tăng mất cân bằng oxy hóa, cả khi không phát hiện được sự vôi hóa.
Ta cũng thấy rằng sự xâm lấn của một số loại ung thư có liên quan trực tiếp đến nồng độ canxi trong tế bào. Ở ung thư biểu mô tế bào phổi nhỏ – một loại ung thư ác tính cao – các tế bào ung thư thực sự nhân lên thông qua một quá trình hóa học làm tăng nồng độ canxi bên trong các tế bào. Một số nhà nghiên cứu đã chứng minh rằng khi nồng độ canxi nội bào tăng, tính chất xâm lấn của ung thư cũng tăng, dẫn đến di căn.
Một nghiên cứu khác cho thấy mối tương quan mạnh mẽ giữa khối lượng xương và nguy cơ mắc bệnh ác tính. Những phụ nữ có khối lượng xương cao nhất được phát hiện có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn. Điều thú vị là không ai trong số các tác giả này giải thích thỏa đáng được làm sao mà khối lượng xương cao hơn lại có thể là điều không mong muốn, và hơn nữa, làm sao nó có thể liên quan đến sự phát triển của ung thư vú. Khi xem xét ba mối quan hệ khác thì xuất hiện một cơ chế dễ hiểu và có khả năng xảy ra.
1. Chỉ số khối lượng xương cao không nhất thiết đồng nghĩa với xương khỏe mạnh hơn, mà lại gợi ý rằng những phụ nữ có khối lượng xương cao nhất là những người tiêu hóa và bổ sung nhiều canxi nhất, và do đó có xu hướng thừa canxi ở mức cao nhất.
2. Liên tục ở tình trạng thừa canxi dẫn đến kết quả là sự lắng đọng canxi trong các mô không phải xương, trong đó có vú. Phụ nữ bị ung thư vú thường có vôi hóa thô và vi vôi hóa trên nhũ ảnh. Trên thực tế, nhiều xét nghiệm sinh thiết vú được thực hiện vì sự tồn tại của vôi hóa như vậy.
3. Và cuối cùng, canxi lắng đọng trong mô vú cho phép và thúc đẩy canxi di chuyển vào từng tế bào vú (canxi nội bào tăng) làm tăng tình trạng mất cân bằng oxy hóa, thúc đẩy ung thư.
Ngoài ra, các nghiên cứu cho thấy bệnh nhân ung thư vú có vôi hóa có khả năng khỏi bệnh thấp hơn trong cuộc chiến với căn bệnh này.
Tuy nhiên, có một mối quan hệ giữa ung thư/canxi cung cấp bằng chứng còn vững chắc hơn nữa về việc canxi có tính hoạt động thúc đẩy ung thư. Các tế bào ung thư dường như cần, hoặc ít nhất là muốn có được, lượng canxi nội bào tăng cao. Nhiều tế bào ung thư thực sự phát triển một số lượng lớn các kênh canxi. Các kênh này tạo điều kiện và thúc đẩy dòng canxi đi vào các tế bào, gây ra tình trạng canxi nội bào tăng. Dòng này làm tăng tình trạng mất cân bằng oxy hóa và và thúc đẩy sự lây lan của ung thư đến các tuyến và cơ quan khác.
Ngược lại, việc ức chế hấp thu canxi dường như làm cho bệnh ung thư bớt xâm lấn hơn và ít có xu hướng phát triển các mạch máu mới. Khi canxi thực sự được rút ra khỏi các tế bào u ác tính di căn trong não, tính chất di căn của các tế bào ung thư đó bị giảm. Hơn nữa, việc giảm hàm lượng canxi trong một tế bào như vậy dẫn đến giảm mức độ mất cân bằng oxy hóa nội bào. Giảm mất cân bằng oxy hóa thực ra làm cho các tế bào ác tính kháng hóa trị liệu hơn vì hóa trị (các hóa chất độc) cố gắng tiêu diệt tế bào ung thư bằng cách tăng mất cân bằng oxy hóa nội bào đến điểm chết tế bào.
Mặc dù canxi thừa trong một tế bào không phải lúc nào cũng gây ung thư, nhưng nó luôn làm giảm sức khỏe của tế bào thông qua gia tăng mất cân bằng oxy hóa, tình trạng này có thể biểu hiện thành một số bệnh trạng bao gồm cả bệnh tim mạch và ung thư.
Canxi thừa & độc tố thúc đẩy rối loạn chức năng tế bào và tử vong
Các chất độc có tính độc hại chủ yếu là vì chúng châm ngòi các đám cháy phân tử không có ngọn lửa nhưng đốt cháy mọi thứ chúng chạm vào. Trong quá trình đó chúng tạo ra nhiều độc tố hơn thông qua một chuỗi phản ứng lan rộng như một đám cháy lan khắp khu rừng. Các nhà khoa học gọi những “đám cháy” có khả năng oxy hóa này là tình trạng mất cân bằng oxy hóa. Các chất chống oxy hóa là tuyến phòng thủ của cơ thể chống lại các chất có khả năng oxy hóa và tình trạng mất cân bằng oxy hóa mà những chất đó tạo ra. Chúng có thể dập tắt tình trạng mất cân bằng oxy hóa và các độc tố khởi đầu – mà bản thân chúng không trở nên độc hại – chừng nào nguồn cung cấp chưa cạn.
Lượng canxi bên ngoài tế bào [canxi ngoại bào], tùy thuộc vào loại tế bào, có thể cao hơn 1.000 đến 10.000 lần so với mức bên trong tế bào [canxi nội bào]. Sự khác biệt về nồng độ này dẫn đến luôn có canxi ở bên ngoài muốn đi vào bên trong. Thông qua các cơ chế khác nhau, canxi có thể xâm nhập tế bào. Sau khi đi vào, nếu nồng độ canxi duy trì ở mức quá cao, một loạt phản ứng sẽ đẩy các tế bào đến sự chết tế bào được lập trình trình [chết rụng tế bào] hoặc sự phá hủy tế bào hoàn toàn [hoại tử].
Bằng chứng rõ ràng cho thấy một số độc tố mà ta đã biết tạo điều kiện thuận lợi cho canxi đi qua màng tế bào. Ví dụ, formaldehyd làm mức canxi nội bào tăng cực nhanh. Phơi nhiễm methylmercury, một dạng thủy ngân đặc biệt độc hại, cũng tạo điều kiện cho canxi xâm nhập tế bào, cuối cùng dẫn đến gia tăng sự chết rụng tế bào. Asen dẫn một dòng canxi đi vào tế bào. Nồng độ glucose tăng cao, như quan sát thấy ở bệnh tiểu đường, tự nó đã có hại, nhưng nó dường như còn gây chết tế bào qua việc làm tăng mức độ canxi nội bào.
Như đã đề cập trước đây, sự gia tăng canxi nội bào ở nhiều tế bào ung thư được nuôi dưỡng bằng một số lượng lớn kênh canxi trong các tế bào đó. Thuốc chẹn kênh canxi là những tác nhân cản trở canxi xâm nhập các tế bào thông qua các kênh này, và với tác động như vậy, chúng có thể ngăn chặn sự xuất hiện một số tình trạng bệnh. Chẳng hạn, thuốc chẹn kênh canxi ngăn chặn sự xuất hiện của các rối loạn thần kinh ở những con chuột phơi nhiễm một độc tố mạnh [methylmercury].
Và ngay cả khi không có độc tố, mức độ canxi nội bào cao vẫn làm khởi phát tổn thương tế bào và sự chết tế bào ở tế bào thần kinh. Ngay cả khi không có sự phơi nhiễm độc tố đã biết, mức độ canxi tăng cao liên tục trong tế bào dường như là mẫu số chung cho hầu hết, nếu không nói là tất cả, các dạng tổn thương và chết tế bào do oxy hóa. Chính qua quá trình này mà sự gia tăng đều đặn của canxi nội bào đóng vai trò quan trọng trong các bệnh thần kinh thoái hóa như bệnh Lou Gehrig [bệnh xơ cứng teo cơ một bên, hay bệnh ALS], bệnh Parkinson, bệnh Alzheimer.
Canxi thừa làm tăng tỷ lệ tử vong do mọi loại bệnh
Như đã trình bày, chỉ số vôi hóa động mạch vành đã được chứng minh là có thể dự đoán một cách đáng tin cậy các biến chứng tim và nguy cơ tử vong tăng do đau tim. Tuy nhiên, cùng những chỉ số này cũng dự đoán chính xác nguy cơ tử vong do mọi nguyên nhân. Khi chỉ số canxi tăng – bắt đầu ở các mức canxi không thể phát hiện – tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân cũng tăng.
Các nghiên cứu khác đã chứng minh sự tích lũy canxi là một yếu tố độc lập có vai trò đáng kể làm tăng tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân. Một nghiên cứu công bố gần đây được thực hiện trong khoảng thời gian 8 năm đã tìm thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa mức canxi tăng và tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân. Một nghiên cứu khác đã chứng minh rằng những người bình thường với chỉ số vôi hóa động mạch vành tăng – mà không có các yếu tố nguy cơ gây bệnh động mạch vành truyền thống khác – có tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân cao hơn hẳn so với những người có ba yếu tố rủi ro đáng kể hoặc nhiều hơn nhưng có chỉ số vôi hóa mạch vành bằng 0.
Ngay cả khi canxi không được phát hiện trong các động mạch vành, sự tích lũy canxi dường như vẫn dự đoán được tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân. Vôi hóa xung quanh các gốc của van động mạch chủ và van hai lá cũng liên quan đến mức tăng cao trong tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân. Khi so sánh với những người không bị vôi hóa ở cả hai van, vôi hóa quanh một van làm tăng nguy cơ tử vong do mọi nguyên nhân. Khi cả hai van bị vôi hóa, nguy cơ tử vong do mọi nguyên nhân cũng cao hơn. Các tình trạng vôi hóa van này được phát hiện là có liên quan độc lập với nguy cơ tử vong, điều này chỉ ra rằng quá trình vôi hóa có liên quan chặt chẽ đến tử vong vì mọi nguyên nhân, không chỉ vì bệnh tim mạch.
Điều rất quan trọng cần lưu ý là vôi hóa động mạch vành cũng liên quan đến việc nguy cơ tử vong do mọi nguyên nhân tăng cao hơn. Có nghĩa là mặc dù hiện tượng tích lũy canxi có thể được phát hiện trong các động mạch vành dễ dàng hơn những nơi khác trong cơ thể, sự vôi hóa đặc thù này chứng tỏ vai trò chung của canxi trong việc đẩy nhanh tiến trình của tất cả các bệnh thoái hóa mạn tính. Chỉ số vôi hóa mạch vành không chỉ là một chỉ số đáng tin cậy về bệnh động mạch vành và gánh nặng mảng xơ vữa, đây còn là một chỉ số tốt để đánh giá mức độ nghiêm trọng của các bệnh thoái hóa mạn tính nói chung.
Ngoài ra, các nghiên cứu khác đã phát hiện ra rằng mức độ hormone tuyến cận giáp trong huyết thanh cao hơn có liên quan đến tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân tăng lên. Điều này phù hợp với thực tế là hormone tuyến cận giáp có tác dụng làm tăng nồng độ canxi trong máu qua một số cơ chế.
Và cuối cùng, trong nghiên cứu quy mô lớn với sự tham gia của hơn 61.000 phụ nữ được đề cập ở trên, người ta đã chứng minh rằng những người tiêu hóa 1.400mg canxi/ngày trở lên không chỉ có khả năng tử vong do biến chứng tim mạch cao hơn, mà ở họ, tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân cũng tăng. Đáng báo động, ở những người có mức tiêu thụ canxi cao nhất, cho dù từ chế độ ăn và/hoặc các nguồn bổ sung, ghi nhận tỷ lệ tử vong cao gấp hai lần rưỡi (257%) so với nhóm tiêu thụ ít hơn.
Sự độc hại của việc bổ sung canxi
Việc phát hiện hội chứng sữa-kiềm [nhiễm kiềm do sữa] từ lâu đã chứng minh sự độc hại của việc bổ sung canxi. Tình trạng này lần đầu tiên được phát hiện vào năm 1923 khi bệnh loét đường tiêu hóa thường được điều trị bằng sữa và natri bicarbonate. Mặc dù chỉ cần sữa và natri bicarbonate là đủ để gây ra hội chứng này, nhưng nó đã tiến triển từ một tình trạng tương đối ít xuất hiện đến chỗ gần như biến mất khi thuốc ức chế bơm proton được sử dụng rộng rãi vào giữa những năm 1980 để chữa các vết loét và phương pháp điều trị hiệu quả không yêu cầu nạp canxi vào nữa. Tuy nhiên, khi canxi cacbonat, một loại thuốc trung hòa axit không cần kê đơn, được dùng rộng rãi thay thế sữa làm nguồn canxi chủ yếu cho những người cố tự điều trị các bệnh loét dạ dày tá tràng, tỷ lệ mắc hội chứng này tăng đáng kể. Hội chứng sữa-kiềm “hiện tại”, nay gây ra bởi canxi cacbonat và một lượng nhỏ sữa hoặc không có sữa, đã trở thành nguyên nhân đứng hàng thứ ba gây tăng canxi huyết [canxi thừa] ở mọi cấp độ và là nguyên nhân đứng hàng thứ hai gây tăng canxi ở bệnh nhân bị bệnh thận giai đoạn cuối.
Điều đặc biệt đáng quan tâm trong biến thể hiện tại của hội chứng sữa-kiềm là nó đã được quan sát thấy ở những người có một lượng bổ sung khoảng 2.000mg canxi, cùng với uống sữa và bổ sung một ít vitamin D. Một phụ nữ mắc hội chứng này đã cố tình chỉ bổ sung 1.000mg canxi cacbonat mỗi ngày, nhưng được phát hiện là đang sử dụng thêm thuốc trung hòa axit canxi cacbonat cùng với 800IU vitamin D mỗi ngày – với nhiều người đây không phải là lượng bổ sung bất thường. Điều này đặc biệt quan trọng vì lượng nạp/bổ sung canxi trong nhiều khuyến nghị hiện nay có thể lên tới 1.500mg mỗi ngày đối với bệnh nhân.
Nếu giả định rằng người ta cần phải bổ sung một lượng canxi nào đó, điều này sẽ cho một phạm vi sai số nhỏ giữa lượng canxi được khuyến nghị và lượng có thể dẫn đến tăng canxi huyết, nhiễm kiềm chuyển hóa và suy thận, bộ ba kinh điển của hội chứng sữa-kiềm. Nó cũng chứng minh mạnh mẽ cho khẳng định rằng nhiều người đang thường xuyên nạp quá nhiều canxi. Ngay cả khi họ không khiến bản thân mắc hội chứng sữa-kiềm kinh điển, rõ ràng là những người đó có thể thúc đẩy tình trạng dư thừa canxi khi kết hợp một liều vitamin D tương đối khiêm tốn với việc bổ sung canxi “thông thường”.