4Sự thật về loãng xương
Lý do thực sự khiến xương trở nên giòn và thiếu canxi
Loãng xương (“xương xốp”) được định nghĩa là tình trạng xuống cấp của chất nền cấu trúc xương, có liên quan đến sự di chuyển liên tục của canxi ra khỏi xương cùng với nguy cơ gãy xương nghiêm trọng thêm khi bệnh tiến triển. Như đã trình bày trong chương trước, tăng cường canxi qua chế độ ăn hoặc thực phẩm bổ sung không có tác dụng làm giảm nguy cơ gãy xương. Chừng nào gốc rễ của căn bệnh này còn chưa được xử lý và ngày càng nhiều canxi thoát ra từ xương, độ chắc khỏe của xương còn suy giảm và nguy cơ gãy xương vẫn tăng.
Thật không may, chính nỗi sợ gãy xương dai dẳng đã thúc đẩy việc nạp thêm canxi mà không chú ý đến những rủi ro lớn hơn nhiều cho sức khỏe. Việc không thể giải quyết vấn đề là các mô xương loãng đã mất khả năng kết hợp canxi và protein cấu trúc vào chất nền xương có thể gây nguy hiểm đến tính mạng. Vì khả năng đào thải canxi thừa của cơ thể là có hạn, tất cả những lượng còn tồn lại sẽ tích lũy ở các bộ phận khác của cơ thể. Sự lắng đọng như vậy liên quan trực tiếp đến việc gia tăng đáng kể nguy cơ mắc bệnh tim mạch, ung thư, huyết áp cao, đột quỵ cũng như nhiều bệnh thoái hóa mạn tính khác.
Thật vậy, hiện tượng canxi di chuyển ra khỏi xương là khá nghiêm trọng. Tuy nhiên, đó không phải là nguyên nhân gây loãng xương, mà là một triệu chứng. Việc mất canxi liên tục từ xương loãng chỉ là bằng chứng cho thấy căn bệnh này đang tiến triển, chứ bản thân nó không phải là bệnh. Cung cấp canxi cho xương đã bị tàn phá do bệnh loãng xương chẳng khác nào cung cấp các enzyme tim được giải phóng trong một cơn đau tim trở lại cho bệnh nhân. Giống như canxi sẽ không khôi phục được chất nền cấu trúc phức tạp của xương, các enzyme sẽ không phát triển thần kỳ được cơ tim mới.
Thật không may, y học truyền thống thường áp dụng phương pháp “điều trị triệu chứng” với mọi bệnh thoái hóa. Và bệnh loãng xương rõ ràng là trường hợp tiêu biểu. Cung cấp một lượng lớn canxi cuối cùng sẽ dẫn đến việc một lượng nhỏ chất này lấp đầy các lỗ trong xương loãng. Tuy nhiên, phải nhấn mạnh rằng phương pháp này chỉ đơn giản là làm đẹp bề ngoài. Nó sẽ làm cho xương trông có vẻ tốt hơn trong xét nghiệm mật độ xương, nhưng nó không cải thiện độ chắc khỏe của xương, giống như thổi bột phấn mịn vào các vết nứt của một tòa nhà bị hư hại do động đất không thể khôi phục tính toàn vẹn cấu trúc của nó. Và đó chính là trường hợp của xương loãng. Nguyên nhân phải được giải quyết, chứ không phải triệu chứng. Muốn phòng ngừa và đảo ngược thành công bệnh loãng xương thì cần loại bỏ nguyên nhân căn bản của hiện tượng canxi di chuyển ra khỏi xương.
Gốc rễ của bệnh loãng xương
Xương thực hiện bốn vai trò quan trọng. Ba trong số này – làm bộ khung nâng đỡ, bảo vệ nội tạng, sản xuất hồng cầu – được biết đến rộng rãi. Chức năng thứ tư, quan trọng nhưng ít được tôn vinh, là lưu trữ các khoáng chất để sử dụng theo yêu cầu của các bộ phận khác trong cơ thể. Các khoáng chất này bao gồm magiê và phốt pho, nhưng hơn cả, dồi dào nhất trong số các khoáng chất được lưu trữ này là canxi.
Cách dễ nhất để hình dung vai trò lưu trữ này của xương là xem chúng như một “ngân hàng” khoáng chất. Như đã lưu ý ở trên nồng độ canxi trong máu được kiểm soát chặt chẽ, có lẽ là một trong những quá trình được kiểm soát chặt chẽ nhất trong cơ thể. Khi nồng độ canxi trong máu bắt đầu giảm xuống dưới mức tiêu chuẩn, canxi có thể bị “rút” khỏi xương. Mặt khác, khi nồng độ canxi trong máu bắt đầu đạt đến giới hạn trên ở một người khỏe mạnh, nó thường bị “gửi lại” trong xương.
Quá trình rút canxi từ xương được gọi là tái hấp thu (tiêu xương), trong khi đó, việc hợp nhất canxi trở lại vào chất nền xương được gọi là hấp thu. Hai quá trình này, hấp thu và tái hấp thu, liên tục làm thay đổi hình dạng và cấu trúc của xương trong một chu trình được gọi là tái tạo xương.
Ngoài việc duy trì nồng độ khoáng chất trong máu (cân bằng nội môi), quá trình tái tạo xương còn có nhiều mục đích. Khi trẻ lớn lên, có những xương hợp nhất với nhau (như trong hộp sọ), và những xương khác phải phát triển về chiều dài và chu vi. Sự thay đổi về nhu cầu chịu tải trong thai kỳ cũng đòi hỏi phải tái tạo một số xương để đáp ứng nhu cầu đó. Việc tập thể dục kéo theo sự tái tạo xương khi cơ bắp phát triển và đòi hỏi nhiều sự hỗ trợ của xương. Ngoài ra, các căng thẳng trong cuộc sống cũng gây ra nứt gãy nhỏ và cực nhỏ trong các mô xương, tuy thường không được chú ý đến nhưng cuối cùng sẽ làm suy yếu độ chắc khỏe về cấu trúc. Tái tạo xương là quá trình cơ thể sử dụng để định hình và chữa lành các vết gãy này.
Trong một số điều kiện nhất định, sự tái hấp thu (rút canxi từ xương) tăng cao bất thường và sự hấp thu (lắng đọng canxi trong xương) hạ thấp bất thường. Khi lượng canxi rút từ xương liên tục vượt quá lượng lắng đọng, tình trạng thiếu hụt canxi sẽ dẫn đến loãng xương.
Tình trạng loãng xương là do một số yếu tố góp phần gây ra, nhưng có một yếu tố chịu trách nhiệm cho lượng lớn canxi bị mất. Nó làm khởi phát và trầm trọng thêm sự mất cân bằng trong quá trình tái tạo xương (chu trình hấp thu-tái hấp thu) và ngăn chặn sự kết hợp của canxi vào chất nền xương. Theo lâm sàng, nguyên nhân chính gây ra loãng xương là bệnh scurvy [thiếu hụt vitamin C] cục bộ ở xương.
Một lượng lớn bằng chứng khoa học cho thấy rằng việc đảo ngược bệnh scurvy cục bộ giúp cải thiện mật độ xương, giảm nguy cơ gãy xương, và giảm đáng kể tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân. Cách chữa bệnh này không tốn kém, cực kỳ hiệu quả và hoàn toàn an toàn. Nhưng hầu như không ai trong giới y học chính thống nói về nó hoặc thậm chí không biết về nó. Rất đơn giản, bệnh scurvy (thiếu vitamin C nghiêm trọng), dù toàn thể hay cục bộ (khu trú), có thể được ngăn ngừa, chữa khỏi, và đảo ngược với liều lượng và cách sử dụng thích hợp vitamin C và các dưỡng chất quan trọng khác. (Các phác đồ vitamin C khuyến nghị sẽ được đề cập ở các chương phác đồ cụ thể và Phụ lục B.)
Vitamin C, xương và bệnh loãng xương
Việc hình thành chất nền cấu trúc thiết yếu cho sự phát triển xương khỏe mạnh cần đến các tế bào đặc biệt gọi là tế bào tạo xương (nguyên bào xương). Tế bào tạo xương đóng vai trò quan trọng trong việc tạo xương mới. Chúng tạo ra một vật liệu hữu cơ gọi là chất nền xương có chứa collagen típ 1. Chất nền xương là lớp vữa thu giữ và kết hợp canxi cũng như nhiều khoáng chất khác vào mạng lưới các sợi collagen liên kết với nhau để tạo ra sản phẩm cuối cùng của mô xương cứng. Một loại tế bào đặc biệt khác, tế bào hủy xương [ăn xương] sẽ hòa tan mô xương tinh thể trong quá trình tái hấp thu (tiêu xương).
Ở trẻ khỏe mạnh, thế cân bằng giữa tế bào tạo xương và tế bào hủy xương sẽ thiên về tế bào tạo xương nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển xương. Khi ta già đi, thế cân bằng giữa chúng sẽ dần thay đổi theo hướng tăng cường hoạt động của tế bào hủy xương, tạo tiền đề cho sự khởi phát và tiến triển của bệnh loãng xương. Sự tham gia của vitamin C trong việc duy trì thế cân bằng lành mạnh giữa tế bào tạo xương/tế bào hủy xương đã được ghi lại rõ ràng.
Khi không có vitamin C, tế bào tạo xương không thể hình thành. Đồng thời, vì vitamin C cản trở sự hình thành tế bào hủy xương, bệnh scurvy cục bộ trong xương sẽ tạo điều kiện để chúng nhân lên một cách không kiểm soát được, từ đó bắt đầu gây mất cân bằng, dẫn đến phá vỡ tính toàn vẹn xương và mất canxi. Tình trạng mất cân bằng do bệnh scurvy này đã được thử nghiệm và quan sát thấy ở động vật thí nghiệm bị thiếu vitamin C. Việc bệnh scurvy xương cục bộ làm khởi phát sự suy giảm nghiêm trọng các tế bào tạo xương và sự gia tăng không kiểm soát được các tế bào hủy xương là đủ để coi đó là nguyên nhân gây ra loãng xương. Tuy nhiên, vai trò của vitamin C trong sự cân bằng tạo xương/hủy xương còn lớn hơn nhiều.
Thiếu hụt vitamin C trong xương cũng trực tiếp làm tăng tình trạng mất cân bằng oxy hóa ở đó. Mất cân bằng oxy hóa là một quá trình phá hoại khiến việc sản xuất chất nền xương khỏe mạnh bị suy yếu rất nhiều, và nó thậm chí còn ngăn chặn quá trình sản xuất đó khi tình trạng thiếu hụt vitamin C trong xương/mất cân bằng oxy hóa quá mức xảy ra đủ nghiêm trọng. Nó xảy ra khi các hợp chất oxy hóa vô cùng hung hãn tấn công các cấu trúc tế bào, gây ra tổn hại và thậm chí làm chết tế bào.
Bất kể các phân tử hung hãn có khả năng oxy hóa này là sản phẩm phụ của quá trình chuyển hóa bình thường hay là độc tố từ các nguồn bên ngoài, chúng cũng sẽ gia tăng về số lượng khi không lượng vitamin C đầy đủ để trung hòa.
Mất cân bằng oxy hóa cao có thể gây tổn hại ở bất cứ nơi nào nó diễn ra, bao gồm cả bên ngoài các tế bào xương. Sự hiện diện của tình trạng mất cân bằng oxy hóa trong xương ức chế quá trình chuyển hóa xương bình thường và trực tiếp dẫn đến hiện tượng tái hấp thu và hủy xương mạnh hơn.
Các nghiên cứu về nuôi cấy tế bào, về động vật và con người đã khẳng định vai trò của mất cân bằng oxy hóa trong việc gây ra và phát triển bệnh loãng xương. Khả năng trung hòa tình trạng mất cân bằng oxy hóa trong xương nhờ các đặc tính chống oxy hóa của vitamin C là một phương thức khác mà vitamin C có thể ngăn chặn hoặc làm giảm sự tiến triển của bệnh loãng xương.
Còn một phương thức nữa mà trong đó vitamin C là nền tảng trong việc hình thành các mô xương khỏe mạnh, kháng gãy. Như đã đề cập ở trên, tế bào tạo xương sử dụng collagen típ 1 để kết hợp với các khoáng chất khác nhau nhằm tạo thành chất nền xương. Một nguồn cung cấp vitamin C có sẵn là rất cần thiết cho quá trình tổng hợp collagen, và cũng để tạo ra sự liên kết sợi của các chuỗi collagen (liên kết chéo) nhằm tối ưu hóa sức mạnh vật lý và khả năng phục hồi của xương. Do đó, thiếu vitamin C sẽ dẫn đến xương yếu đi.
Tóm lại, vai trò nền tảng của vitamin C trong sự hình thành và duy trì các mô xương khỏe mạnh bao gồm (nhưng không phải là tất cả):
• Hình thành tế bào tạo xương
• Ức chế tế bào hủy xương
• Ngăn chặn tình trạng mất cân bằng oxy hóa hủy hoại xương
• Tổng hợp collagen
• Hình thành liên kết chéo collagen làm chắc khỏe xương
Vitamin C ngăn ngừa mất xương và gãy xương
Biểu hiện lâm sàng của bệnh scurvy toàn thân, tình trạng thiếu vitamin C mức cao nhất, bao gồm giảm lắng đọng canxi trong các mô xương. Nó còn có đặc trưng là gia tăng đào thải canxi và/hoặc lắng đọng canxi vào các mô không phải xương khác tương tự như sự lắng đọng canxi quan sát thấy ở bệnh xơ vữa động mạch khi vitamin C bị suy giảm nghiêm trọng trong các thành động mạch.
Sự suy giảm sản xuất estrogen ở phụ nữ nhanh chóng dẫn đến mất canxi gây loãng xương. Qua thí nghiệm với chuột đã cắt bỏ buồng trứng, nghiên cứu chứng minh rằng việc bổ sung vitamin C sự bù đắp cho tình trạng mất canxi xương này. Mật độ chất khoáng trong xương lớn hơn cũng đã được ghi nhận ở phụ nữ mãn kinh sử dụng thực phẩm bổ sung vitamin C. Một phát hiện tương tự cho thấy phụ nữ trong độ tuổi từ 55 đến 64 đã dùng thực phẩm bổ sung vitamin C từ 10 năm trở lên nhưng KHÔNG sử dụng estrogen (một chất hỗ trợ mạnh mẽ cho xương chắc khỏe) có mật độ chất khoáng trong xương cao hơn những người không dùng.
Một số nghiên cứu lâm sàng đã chứng minh tầm quan trọng của việc bổ sung vitamin C trong phòng ngừa mất xương. Ngược lại với việc chỉ nạp qua chế độ ăn, nhu cầu và lợi ích của việc bổ sung vitamin C tích cực đã được thể hiện trong một nghiên cứu về gãy xương kéo dài 17 năm với gần 1.000 đối tượng trong độ tuổi 70 và 80. Các nhà nghiên cứu đã báo cáo rằng chỉ nạp vitamin C qua chế độ ăn, không bổ sung từ nguồn khác, thì không có tác dụng phòng ngừa nguy cơ gãy xương. Ngược lại, những đối tượng sử dụng thực phẩm bổ sung vitamin C cho thấy nguy cơ gãy xương giảm đáng kể tương ứng với lượng vitamin C được bổ sung – liều càng cao, nguy cơ gãy xương càng thấp. Nghiên cứu này cũng củng cố luận điểm rằng bất kỳ lượng vitamin C nào trong chế độ ăn cũng không tạo ra những lợi ích thực sự của vitamin C, mà cần phải bổ sung thường xuyên, với liều lượng đáng kể.
Vai trò bảo vệ quan trọng của vitamin C đối với sự chắc khỏe của xương cũng đã được thể hiện trong các nghiên cứu về chỉ số máu. Nguy cơ gãy xương tăng đáng kể đi kèm với mức vitamin C thấp, trong khi mức vitamin C tăng lên đi kèm nguy cơ gãy xương giảm rõ rệt.
Nồng độ vitamin C trong máu ở những bệnh nhân cao tuổi bị gãy xương hông thấp hơn hẳn so với những người không bị gãy xương như vậy. Trong Nghiên cứu loãng xương Framingham, các đối tượng có lượng vitamin C hấp thu cao nhất bị gãy xương hông và xương sống ít hơn hẳn so với những người có lượng nạp vào thấp nhất. Các nhà nghiên cứu cũng lưu ý rằng việc nạp vitamin C chỉ giới hạn ở các nguồn thực phẩm không có tác dụng giảm đáng kể gãy xương; bổ sung vitamin C là việc cần thiết để có được sự sụt giảm rõ rệt trong nguy cơ gãy xương.
Một kết luận tương tự được rút ra từ một nghiên cứu về những người bị gãy xương năng lượng thấp. Những người có giới tính và độ tuổi tương đương từng bị gãy xương được phát hiện là có mức vitamin C thấp hơn. Tương tự, những bệnh nhân mới bị gãy xương hông gần đây được phát hiện có nồng độ vitamin C huyết thanh thấp đáng kể. Phù hợp với những phát hiện này là việc những con chuột bị thiếu vitamin C biểu hiện chứng gãy xương tự phát tăng cao.
Không có gì đáng ngạc nhiên, các chất chống oxy hóa khác cùng với vitamin C cho thấy tầm quan trọng đối với sự chắc khỏe của xương. Các nhà nghiên cứu đã báo cáo rằng mức độ của không chỉ vitamin C, mà cả các chất chống oxy hóa quan trọng khác, cũng được phát hiện là “giảm rõ rệt” ở một nhóm phụ nữ cao tuổi mắc bệnh loãng xương. Trong một nghiên cứu khác, những bệnh nhân có lượng vitamin C và E nạp vào cao hơn có nguy cơ gãy xương do loãng xương giảm đi so với những người có lượng nạp vào thấp hơn.
Thiếu vitamin C, bệnh loãng xương và bệnh động mạch vành
Mối quan hệ liên kết tình trạng thiếu vitamin C kéo dài, canxi thừa và bệnh loãng xương đã trở thành một quá trình thoái hóa tự duy trì, là nguyên nhân của nhiều vấn đề ngoài việc làm tăng nguy cơ gãy xương.
Như đã đề cập ở Chương 1, hiện tượng lắng đọng canxi ở các mô không phải xương có thể làm khởi phát và góp phần vào các tình trạng bệnh thoái hóa. Nghiên cứu tiếp tục cho thấy sự hiệp lực nguy hiểm giữa việc thừa canxi và thiếu vitamin C vì hai tình trạng này thường được phát hiện cùng nhau tại các vị trí mô có liên quan đến các bệnh thoái hóa mạn tính. Chúng ta đã biết rằng canxi lắng đọng góp phần làm mất cân bằng oxy hóa. Và ta cũng biết rõ ràng rằng hoạt động oxy hóa có thể tiếp tục mà không bị cản trở trong một phản ứng dây chuyền gây tổn hại và phá hủy khi không có vitamin C và/hoặc các chất chống oxy hóa khác.
Mặc dù tình trạng mất cân bằng oxy hóa không bị cản trở đã được liên kết với hầu hết mọi căn bệnh mà con người biết đến, đó chắc chắn không phải là cơ chế bệnh duy nhất phát sinh từ sự kết hợp giữa tình trạng thừa canxi và bệnh scurvy cục bộ. Có thể quan sát thấy các cơ chế bổ sung này trong quá trình phát triển của bệnh động mạch vành. Bệnh scurvy cục bộ trong xương làm khởi phát sự cạn kiệt canxi được lưu trữ tại đây, còn bệnh scurvy cục bộ trong động mạch vành tạo ra một nam châm thu hút sự lắng đọng của số canxi được huy động đó.
Có thể thấy rằng các tổn thương động mạch phát sinh do sự thiếu hụt vitamin C cục bộ ở nội mạc của các mạch máu đó. Và tương tự như phản ứng bù trừ của cơ thể với vết thương hở trên da tạo ra vảy, phản ứng của cơ thể đối với một khu vực suy yếu trong thành động mạch vành tạo ra mảng bám động mạch giàu canxi. Canxi trong máu đóng vai trò là một nguồn sẵn có để phát triển mảng bám. Tiếp đó, khi canxi bị rút ra khỏi dòng máu, nó được bổ sung bằng lượng canxi lớn hơn được giải phóng từ xương loãng, cũng như mọi lượng canxi thừa ăn vào. Như thế, vấn đề thiếu vitamin C kéo dài – cả cục bộ hoặc toàn thân – tạo tiền đề cho việc huy động liên tục canxi từ xương để phát triển các mảng bám trong động mạch vành.
Như đã báo cáo trước đó, hơn một phần ba người Mỹ trên 45 tuổi có dấu hiệu vôi hóa động mạch. Hơn một nửa số người Mỹ trên 50 tuổi đã hoặc sẽ mắc bệnh động mạch vành phát triển mạnh. Sự vôi hóa các động mạch thực chất có liên quan mật thiết đến bệnh mạch vành đến mức việc đo vôi hóa trong các mạch máu này là công cụ hữu hiệu và rất chính xác trong việc đánh giá sự phát triển và tiến triển của căn bệnh đó.
Chúng ta có thể kết luận đơn giản rằng: Loại bỏ tình trạng thiếu vitamin C và nguyên nhân của chúng là bước đầu tiên cần thiết trong việc ngăn ngừa và điều trị cả bệnh loãng xương và xơ vữa động mạch. Các yếu tố này và những yếu tố khác sẽ được đề cập đầy đủ hơn trong các chương tiếp theo.
Mối quan hệ giữa vitamin C và bệnh loãng xương
Với mức vitamin C tối ưu
Mức độ thiếu vitamin C/ Scurvy xương cục bộ
Canxi từ chế độ ăn cộng thêm canxi rút từ xương làm tăng lượng dư thừa trong máu. Một lượng canxi dư thừa trong máu được đào thải, phần canxi còn lại lắng đọng vào các tế bào và mô không phải xương trên khắp cơ thể (ví dụ: não, tuyến tiền liệt, vú, động mạch vành).
Tỷ lệ tử vong do bệnh động mạch vành so với mức tiêu thụ sữa trung bình hằng ngày (không bao gồm phô mai) của nam giới trong độ tuổi 65-74 theo quốc gia
Dữ liệu từ 1987–1988. Biểu đồ phỏng theo số liệu thống kê trong Tạp chí tim mạch quuốc tế