Tách chân lý ra khỏi điều hư cấu
Bạn có bao giờ thắc mắc tại sao hai nhà khoa học có thể nhìn vào cùng một dữ liệu và đi đến những kết luận trái ngược nhau? Hãy xem xét “sự nóng lên toàn cầu” chẳng hạn. Không kể các phương tiện truyền thông hoặc các chính trị gia có thể biên soạn câu chuyện đó như thế nào, vẫn có nhiều nhà khoa học đáng tin cậy ở cả hai phía của cuộc tranh luận. Họ bắt đầu với cùng một dữ liệu nhưng đi đến những kết luận trái ngược nhau. Tại sao? Mâu thuẫn không chỉ nằm ở những gì cấu thành nên các cơ sở lập luận, mà còn ở cách diễn giải những cơ sở lập luận đó. Luôn có những giả định hoặc tiền giả định, quan điểm, định kiến và thành kiến làm thay đổi ít nhiều các cách diễn giải. Và khi danh tiếng, tài sản hoặc quyền lực chính trị bị đe dọa, tính khách quan càng giảm đi.
Điều này chắc chắn đúng trong ngành dinh dưỡng và y học. Đặc biệt, không thể đánh giá thấp vai trò của tiền trong việc che lấp tính khách quan. Chúng ta ít nhận ra chính trị, các khoản tài trợ và các công ty có ảnh hưởng như thế nào đến việc các nhà khoa học tập trung nỗ lực vào đâu và đến cách họ đánh giá dữ liệu từ nghiên cứu của họ như thế nào. Nhưng những cám dỗ của danh tiếng, tài sản và quyền lực vượt xa ngoài phạm vi phòng thí nghiệm. Hãy suy nghĩ về điều này: một khoản tiền khổng lồ 4.000.000.000.000 đô la [bốn nghìn tỷ đô la] được chi trong mảng thực phẩm và dược phẩm của nền kinh tế Mỹ mỗi năm. Không còn nghi ngờ gì nữa, ánh sáng chói lòa từ lượng vàng đó có thể làm mờ đi tính khách quan của các nhà tiếp thị, nhà sản xuất, nhân viên công quyền, nhà cung cấp dịch vụ y tế và các phương tiện truyền thông chạy theo quảng cáo.
Cuộc tìm kiếm lợi nhuận có thể nhanh chóng biến ảo tưởng thuần túy thành chân lý bất khả xâm phạm. Đây là một ví dụ đơn giản về việc này: giả sử một tổ chức tầm cỡ quốc gia của các nông dân chăn nuôi bò sữa lo lắng về việc tiêu thụ sữa giảm. Để kích thích kinh doanh, họ thuê một công ty quảng cáo lớn và cung cấp cho công ty quảng cáo đó các nghiên cứu chứng minh hai điều này:
1. Canxi cần thiết cho một loạt các chức năng của cơ thể, và
2. Sữa bò là một nguồn canxi phong phú
Sau nhiều tuần động não sáng tạo, công ty quảng cáo đó đưa ra ý kiến của họ. Họ đề xuất một chiến dịch tiếp thị toàn quốc trị giá nhiều triệu đô la dựa trên một câu “Sữa có lợi cho cơ thể “. Một khi chiến dịch này được phê duyệt, cơn điên cuồng bắt đầu. Các phương tiện truyền thông muốn có miếng bánh quảng cáo của họ. Các tòa báo tràn ngập thông cáo báo chí. Những nghiên cứu sai lệch về lợi ích của canxi chiếm những dòng tin chính. Các bác sĩ ủng hộ canxi được phỏng vấn và xuất hiện trong một loạt các tin tức về “dịch loãng xương”. Dần dần, sự chú ý ồ ạt và sự lặp lại liên tục của thông điệp “Sữa có lợi cho cơ thể” – xuất hiện trong các quảng cáo thực sự có tính giải trí – cuối cùng đã thay đổi cách mọi người nghĩ về sữa. Dần dần, khó mà tìm thấy ai không tin rằng uống sữa tốt cho sức khỏe!
Vậy sữa có thực sự tốt cho cơ thể? Hy vọng bạn có thể phát hiện ra tiền đề lỗi trong quảng cáo này. Nếu không, tôi sẽ cho bạn một gợi ý. Có một giả định vô căn cứ rằng việc tăng lượng canxi nạp vào luôn tốt cho cơ thể. Tuy nhiên, khi người ta nhận ra rằng canxi thừa thực sự là một mối nguy hại cho sức khỏe (như đã được chứng minh trong Chương 1) và rằng hầu hết người lớn tuổi đã ở tình trạng thừa canxi khắp cơ thể, thì việc đẩy nồng độ lên cao hơn nữa sẽ không bao giờ có lợi cho cơ thể.
Xem xét tỷ lệ cao mắc bệnh xơ vữa động mạch – một căn bệnh trong đó hiện tượng vôi hóa động mạch vành luôn thể hiện tình trạng thừa canxi – ít nhất một nửa dân số trên 50 tuổi sẽ sớm bị đau tim nếu một số bệnh khác không giết chết họ trước. Có nghĩa là hàng triệu người đã xem quan niệm sai lầm sữa-tốt-cho-bạn và những điều hư cấu liên quan như kiến thức y học đã được khẳng định. Đáng buồn thay, tôi dám chắc rằng việc họ làm đã gây hao tổn tuổi thọ và sức khỏe. Bây giờ chúng ta hãy giải quyết một số quan niệm sai lầm phổ biến hơn mà vẫn được quảng bá như các nguyên tắc quan trọng để có sức khỏe tốt.
Quan niệm sai lầm #1: Bổ sung canxi và tăng canxi trong chế độ ăn là tốt cho bạn
Mặc dù chắc chắn không phải là tiếng nói duy nhất đưa ra quan niệm sai lầm này, ngành công nghiệp sữa đã thành công trong việc quảng bá nó đến gần như tất cả mọi người ở Mỹ. Hầu hết người Mỹ đều nhớ: “Sữa là một thứ tự nhiên”, “Bạn không bao giờ quá tuổi cần sữa”, “Sữa có lợi cho tất cả mọi người”, “Sữa tốt cho cơ thể “, và cuối cùng, “Bạn uống sữa chưa?” Xin bái phục ngành công nghiệp sữa! Với một loạt các chiến dịch quảng cáo rất hiệu quả, họ đã giúp định hình cách tất cả chúng ta nghĩ về thực phẩm từ sữa.
Thật không may, việc phải cô đọng mọi thứ thành một vài từ – hoặc trong một số trường hợp thành một vài chữ cái – thường dẫn đến việc nhiều phần sự thật không được truyền tải đầy đủ. Và ai thèm bỏ công đi xem xét lại các ý tưởng đã định hình và được hầu hết các chuyên gia cho là hiển nhiên cơ chứ? Với rất ít thời gian để xem xét các luồng thông tin mới ồ ạt, ai hơi đâu dành thời gian cho một đánh giá chỉ trích những ý tưởng lâu đời mà thậm chí không ai tỏ ra nghi ngờ? Đó là lý do tại sao chỉ có ít giáo sư, chuyên gia dinh dưỡng, phóng viên tin tức và các nhà nghiên cứu đặt câu hỏi về kiến thức dinh dưỡng liên quan tới một loại thực phẩm chức năng bổ sung canxi và/ hoặc một chế độ ăn giàu canxi.
Rốt cuộc, cách bảo vệ quan niệm sai lầm này rất đơn giản. Không phải xương chủ yếu cấu tạo từ canxi sao? Không phải loãng xương là tình trạng thiếu hụt canxi của xương sao? Thế nên nếu nói rằng uống sữa giàu canxi hoặc nuốt vài viên canxi sẽ khắc phục vấn đề thì cũng có lý mà... phải vậy không?
Sử dụng logic tương tự, bạn có thể quyết định sơn một hàng rào nát bằng một lớp sơn mới màu trắng sáng. Chắc chắn không có gì sai trong việc làm cho một cái gì đó đã cũ và suy yếu trông đẹp đẽ. Tuy nhiên, mấu chốt lại là không được làm cho cái gì đó chỉ hấp dẫn về mặt thẩm mỹ trong khi vẫn để cho cấu trúc của nó xuống cấp. Bổ sung canxi để khắc phục loãng xương cũng giống như quét sơn lên hàng rào mục nát. Hàng rào đó có thể trông sẽ tốt (hoặc tốt hơn), nhưng nó vẫn sẽ sụp đổ.
Loãng xương có liên quan đến vấn đề thiếu canxi trong xương. Điều đó không đồng nghĩa với thiếu canxi trong cơ thể hoặc trong chế độ ăn. Ngược lại, phần lớn canxi mất từ xương không bị loại bỏ, nó chỉ đơn giản di chuyển đến các bộ phận khác của cơ thể. Vấn đề thực sự ở bệnh loãng xương là cơ thể không thể tổng hợp được chất cấu trúc nền xương mới và tích hợp canxi vào đó. Đơn thuần tăng lượng canxi trong cơ thể không hề có tác dụng khắc phục vấn đề này. Canxi sẽ chỉ lắng đọng ở những nơi khác trong cơ thể, những nơi không có protein xương.
Trên thực tế, bằng chứng chống lại việc bổ sung canxi vào chế độ ăn dưới bất kỳ hình thức nào – có rất nhiều (xem Chương 1). Canxi thừa là một sát thủ. Nó làm tăng 250% tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân và làm tăng mạnh các biến chứng mạch máu, như đau tim và đột quỵ. Nó cũng làm tăng tình trạng mất cân bằng oxy hóa, nguyên nhân cho sự khởi phát ung thư và làm ung thư phát triển nhanh.
Có lẽ nguy cơ tử vong và bệnh tật tăng thêm có thể cũng đáng chịu đựng nếu có những lợi ích bù đắp đáng kể. Nhưng không có. Mặc dù có thể có một số cải thiện trong kết quả đo mật độ xương (điều này sẽ được đề cập sau), nhưng thực sự không có bằng chứng cụ thể nào cho thấy việc tăng canxi trong chế độ ăn và bổ sung canxi mang lại bất kỳ lợi ích thực sự nào cho sức khỏe. Điều đó dẫn chúng ta đến quan niệm sai lầm tiếp theo…
Quan niệm sai lầm #2: Bạn không thể lấy đủ canxi từ chế độ ăn nếu không có các sản phẩm từ sữa
Quan niệm sai lầm này có hai vế:
1. lượng canxi thực sự cần có trong chế độ ăn, và,
2. liệu có thể đạt được lượng đó mà không có sản phẩm từ sữa hay không.
Nếu mức canxi trong khẩu phần ăn khuyến nghị (RDA) của chính phủ Mỹ – từ 1.000 đến 1.300mg mỗi ngày đối với hầu hết người trưởng thành – là chính xác, tiêu thụ sản phẩm từ sữa sẽ là một cách dễ dàng để đạt được mục tiêu đó. Tuy nhiên, như sẽ bàn đến trong chương 6, lượng này vượt xa nhu cầu thực tế. Không chỉ RDA của chính phủ Mỹ về canxi quá cao, mà quan niệm rằng bạn không thể nhận đủ canxi nếu không dùng các sản phẩm từ sữa cũng hoàn toàn sai. Các nền văn hóa uống ít hoặc không uống sữa trên toàn cầu có tỷ lệ mắc bệnh loãng xương thấp hơn nhiều so với người Mỹ.
Đúng là các sản phẩm từ sữa rất giàu canxi. Và nếu một người thực sự cần tăng mức canxi, thì ăn nhiều sữa và phô mai sẽ là một cách dễ dàng để đạt mục tiêu đó. Tuy nhiên, quan niệm sai lầm này cho rằng tất cả mọi người đều cần một lượng lớn canxi trong chế độ ăn trong khi sự thật là hầu như không ai cần chủ động tăng hàm lượng canxi trong chế độ ăn cả. Lỗ hổng trong lập luận này đã được đề cập thêm trong phần thảo luận về Quan niệm sai lầm #1.
Để biết rõ liệu bạn có cần thêm canxi không, bạn cần biết mình thực sự cần bao nhiêu. Câu hỏi này được thảo luận rất kỹ ở Chương 12. Như bạn sẽ thấy trong chương đó, một người bình thường cần một lượng nhỏ và lượng đó đã được đáp ứng hết sức đầy đủ khi một chế độ ăn cân bằng bao gồm thịt, trứng và rau được kết hợp với việc duy trì mức vitamin D bình thường. Tuy nhiên, không hề cần các sản phẩm làm từ sữa.
Quan niệm về tình trạng thiếu canxi chung cho rằng thiếu canxi cục bộ trong xương đồng nghĩa với thiếu canxi trong cơ thể. Quan niệm này được ngành sữa biến thành bất diệt, nhưng đơn giản là nó không hề đúng. Nếu bạn muốn tiêu thụ các sản phẩm từ sữa, đó là lựa chọn của bạn. Tuy nhiên, đừng lầm tưởng rằng tiêu thụ sữa là điều cần thiết, hoặc việc tránh các sản phẩm như vậy sẽ dẫn đến nạp không đủ canxi qua chế độ ăn.
Ngoài những chế độ ăn đặc biệt và điên cuồng tập trung vào việc chỉ ăn một số ít loại thực phẩm, việc đồng hóa không đủ canxi sẽ chỉ xảy ra khi mức vitamin D của bạn thấp kinh niên. Cứ duy trì mức vitamin D tuần hoàn bình thường, ăn một chế độ cân bằng mà không cảm thấy bắt buộc phải ăn các sản phẩm từ sữa khi bạn không muốn làm như vậy, và bạn sẽ đồng hóa đủ lượng canxi cần thiết cho cơ thể. Tuy nhiên, chừng nào chưa giải quyết được vấn đề phơi nhiễm độc tố và sự thiếu hụt hormone (sẽ được thảo luận sau), bạn sẽ không ngăn chặn hoặc giải quyết được vấn đề loãng xương, bất kể bạn đang tiêu hóa lượng canxi phù hợp hay thậm chí là cao trong chế độ ăn.
Quan niệm sai lầm #3: Ai bị bệnh loãng xương cũng bị thiếu canxi
Mặc dù đây không phải là một tuyên bố hoàn toàn không chính xác, nhưng sự thật đầy đủ là tất cả các bệnh nhân loãng xương đều bị thiếu hụt canxi trong xương. Tuy nhiên, trong toàn bộ phần còn lại của cơ thể, thực ra họ lại có quá nhiều canxi. Bằng chứng khoa học cho luận điểm này đã được đề cập chi tiết ở Chương 1. Và mặc dù nhiều bằng chứng cho thấy rõ ràng sự hiện diện mạn tính của canxi thừa bên ngoài xương đã được công bố trên các tạp chí y học nổi tiếng, nhưng tư duy của cả các bệnh nhân và bác sĩ điều trị cho họ vẫn là: việc thiếu canxi rõ ràng trong xương loãng hẳn phải đồng nghĩa với việc toàn bộ cơ thể cũng bị thiếu canxi.
Trớ trêu thay, tình trạng mất canxi mạn tính từ xương loãng lại gây ra sự dư thừa canxi ở những nơi khác trong cơ thể. Tuy nhiên, chính khái niệm về sự “thiếu canxi” suy rộng này khiến các bác sĩ và những người tin theo như vậy luôn cố gắng bổ sung canxi hoặc nạp nhiều canxi hơn trong chế độ ăn. Canxi bổ sung và dư thừa trong chế độ ăn không có lợi gì cho xương, mà còn làm giảm tuổi thọ cũng như tăng mức độ nghiêm trọng và triệu chứng của hầu như tất cả các bệnh mạn tính trước khi cái chết xảy đến. Và bằng chứng khoa học cho điều này cũng rõ ràng.
Quan niệm sai lầm #4: Bổ sung canxi sẽ ngăn ngừa gãy xương
Phải thừa nhận có những nghiên cứu báo cáo rằng việc bổ sung canxi có hiệu quả trong việc giảm tỷ lệ gãy xương ở bệnh nhân loãng xương. Tuy nhiên, gãy xương do loãng xương không phải là việc quá phổ biến và thường không biểu hiện cho đến khi người bệnh đã mắc bệnh nhiều năm.
Những thực tế này làm cho quy mô và thời gian của một nghiên cứu về gãy xương trở nên rất quan trọng. Trong một số thử nghiệm, số lượng đối tượng (kích thước đoàn hệ) rất nhỏ, và ở những thử nghiệm khác, thời gian thử nghiệm rất ngắn. Ngoài ra, một số nghiên cứu này phụ thuộc vào độ chính xác của trí nhớ và khả năng tự quan sát của đối tượng để xác định số lượng và tần suất sử dụng thực phẩm bổ sung canxi. Hãy tưởng tượng bạn phải nhớ lại (đặc biệt là khi đã nhiều tuổi) bạn đã nạp bao nhiêu canxi trong mười năm qua, hoặc kể cả là chỉ một năm. Như vậy thì có thể chính xác đến mức nào?
Các nghiên cứu khác thì thất bại trong việc sử dụng những phương pháp để kiểm soát thành kiến của bệnh nhân và người quan sát (chẳng hạn như đối chứng giả dược mù đôi) khi các đối tượng và nghiên cứu viên không được phép biết đối tượng nào đang sử dụng liệu pháp thử nghiệm đó và đối tượng nào chỉ đơn giản đang sử dụng một thành phần không hoạt hóa (một viên thuốc không hoạt hóa hoặc giả dược). Việc này ngăn cản bất cứ ai, dù có cố ý hay không, làm ảnh hưởng đến kết quả vì những kỳ vọng hoặc định kiến riêng của họ.
Song le, rõ ràng là còn thiếu những nghiên cứu quần thể lớn, lâu dài, có đối chứng giả dược tập trung điều tra việc sử dụng riêng rẽ canxi và tác động của nó đối với gãy xương ở bệnh nhân loãng xương. Tuy vậy, nhiều cuộc điều tra liên quan đến việc bổ sung canxi song song với vitamin D cung cấp thừa đủ dữ liệu để kết luận một cách chắc chắn: Bổ sung canxi không ngăn ngừa gãy xương.
Khi được phân tích cẩn thận, các kết quả mâu thuẫn từ nhiều thử nghiệm canxi-vitamin D thực sự cung cấp bằng chứng rõ ràng rằng chỉ riêng canxi không làm giảm tỷ lệ gãy xương. Một số thử nghiệm đã kết luận rằng vitamin D và canxi kết hợp với nhau không làm giảm nguy cơ gãy xương, trong khi những thử nghiệm khác lại cho một kết quả khả quan. Việc kiểm tra kĩ hơn các dữ liệu cho thấy rằng sự thành công hay thất bại của các thử nghiệm riêng lẻ phụ thuộc vào lượng vitamin D được sử dụng kết hợp với việc bổ sung canxi.
Ba nghiên cứu về vitamin D, khi được đánh giá với một so sánh thống kê từ 12 nghiên cứu khác (một phân tích tổng hợp), minh họa thêm cho tầm quan trọng của liều lượng vitamin D. Khi 800IU vitamin D được cung cấp cùng với canxi cho những phụ nữ cao tuổi, người ta đã thấy giảm đáng kể tình trạng gãy xương.
Một kết quả dường như mâu thuẫn được rút ra từ nghiên cứu Women’s Health Initiative (Sáng kiến Sức khỏe Phụ nữ) với quy mô lớn hơn nhiều. Tuy nhiên, những phụ nữ này đã được cung cấp canxi kèm với chỉ 400IU vitamin D. Mặc dù có thể thấy mật độ xương được cải thiện đáng kể, nhưng không có bằng chứng nào cho việc giảm tỷ lệ gãy xương. Phân tích tổng hợp của hàng chục nghiên cứu, một số có và một số không bổ sung canxi, phát hiện rằng liều vitamin D hằng ngày từ 700 đến 800IU làm giảm nguy cơ gãy xương còn liều 400IU thì không.
Việc bổ sung vitamin D đủ liều, khi được điều tra riêng rẽ, cũng liên tục cho thấy nguy cơ gãy xương giảm. Một nghiên cứu về tỷ lệ gãy vi chấn (gãy xương do xương đó cử động quá nhiều) ở nữ trong độ tuổi thanh thiếu niên đã đưa ra những kết luận tương tự. Lượng vitamin D nạp vào cao hơn dẫn đến nguy cơ gãy vi chấn thấp hơn, trong khi lượng canxi nạp vào không cho thấy có liên kết rõ ràng.
Các nghiên cứu khác đã xem xét những phụ nữ cả có lẫn không được chẩn đoán loãng xương trước đó. Người ta hấy rằng tỷ lệ gãy xương không liên quan đến lượng canxi tiêu thụ, dù cao hay thấp.
Việc bổ sung canxi cũng không ngăn ngừa gãy xương mới ở những bệnh nhân cao tuổi trước đấy từng bị gãy xương – đó là phát hiện của một nghiên cứu ngẫu nhiên và đối chứng giả dược. Một nghiên cứu khác không tìm thấy mối liên quan nào giữa việc nạp canxi và nguy cơ gãy xương hông ở phụ nữ, ngay cả khi lượng canxi nạp vào vào là từ sữa.
Nói chung, các nghiên cứu này cung cấp ba kết luận có sức nặng:
1. Mọi khả năng giảm gãy xương vốn được cho là nhờ canxi thực ra là nhờ bổ sung vitamin D đủ liều.
2. Vitamin D đóng vai trò hàng đầu trong việc thúc đẩy sinh lý và sự hình thành xương bình thường bên cạnh khả năng tăng đồng hóa canxi từ chế độ ăn hoặc từ thực phẩm bổ sung canxi.
3. Và cuối cùng, mặc dù có thể làm tăng mật độ xương, nhưng canxi không làm giảm nguy cơ gãy xương.
Tuy nhiên, có một cảnh báo quan trọng: Mặc dù nhiều nghiên cứu về vitamin D cho thấy liều vitamin D tối thiểu hằng ngày phải nằm trong khoảng từ 400 đến 800IU để giảm nguy cơ gãy xương, nhưng vẫn không chỉ ra rằng lượng bổ sung vitamin D như vậy là tối ưu hoặc phù hợp. Điều đó sẽ được bàn đến sau.
Quan niệm sai lầm #5: Mật độ xương tăng luôn đồng nghĩa với xương khỏe hơn
Một xét nghiệm mật độ xương, hay đo mật độ xương, sẽ phản ánh khá chính xác hàm lượng canxi trong xương được nghiên cứu. Khi một người trẻ chưa sử dụng thực phẩm bổ sung canxi hoặc nạp một lượng lớn canxi qua chế độ ăn có kết quả bình thường trong xét nghiệm như vậy, có thể chắc chắn rằng không có hiện tượng loãng xương đáng kể nào hiện diện và cũng có thể giả định rằng xương của người đó có độ chắc khỏe bình thường với khả năng chống gãy bình thường. Đó là do hàm lượng canxi bình thường trong xương ở một người trẻ khỏe mạnh cũng phản ánh rằng các thành phần cấu trúc liên quan trong xương cũng ở lượng bình thường.
Tuy nhiên, nếu chỉ số cao hơn sau khi sử dụng lượng lớn canxi bổ sung trong thời gian dài, nó chỉ phản ánh hàm lượng canxi trong xương tăng, chứ không phản ánh rằng chất nền cấu trúc xương ở tình trạng bình thường. Xương như vậy tưởng là tốt, với kết quả xét nghiệm tốt, nhưng nó không có khả năng chống gãy tốt hơn xương bị bệnh trước khi có đợt lắng đọng canxi mới.
Không thể phủ nhận việc xét nghiệm mật độ xương cơ sở tương đối có ích trong việc chẩn đoán loãng xương. Loãng xương đã làm giảm hàm lượng canxi xương và sự suy giảm hàm lượng canxi này (cùng với các thành phần khác của chất nền cấu trúc xương) sẽ luôn phản ánh mật độ xương giảm.
Tuy nhiên, khi bệnh loãng xương được điều trị bằng cách nạp thêm canxi, mật độ xương có thể tăng lên, nhưng chất lượng xương không cải thiện nếu các yếu tố quan trọng khác không được giải quyết. Thêm nữa, lượng canxi bổ sung thấp hơn có thể chỉ làm hạ tốc độ suy giảm của mật độ xương chứ không làm mật độ xương tăng ngay lập tức nhưng như vậy vẫn không có nghĩa là chỉ mình canxi đã giúp ngăn chặn sự suy giảm tính toàn vẹn căn bản của cấu trúc xương.
Như vậy xét đến loãng xương, mật độ xương tăng nhờ việc bổ sung canxi chỉ là sự cải thiện bề ngoài (giống như ẩn dụ lớp sơn mới trên hàng rào mục đã nhắc đến ở phần trước). Vẫn không có bằng chứng rõ ràng nào cho thấy chỉ cần mỗi thực phẩm bổ sung canxi là làm giảm được nguy cơ gãy xương, bất kể chúng có tác động ra sao đến mật độ xương.
Khi bổ sung canxi kèm với vitamin D ở mức nào đó, như đã lưu ý ở trên, có thể ảnh hưởng tích cực đến nguy cơ gãy xương tùy thuộc vào lượng vitamin D được bổ sung. Một điều cũng quan trọng cần lưu ý là việc tăng canxi trong chế độ ăn mang lại kết quả là mật độ xương cao hơn khi mức vitamin D khá thấp.
Khi mức vitamin D chỉ chạm mức thiếu hụt tối thiểu, tăng thêm canxi trong chế độ ăn không còn liên quan tới tăng mật độ chất khoáng trong xương nữa vì tất cả những gì cần thiết để điều này xảy ra là lượng canxi tiếp nhận tăng lên dựa trên sự hỗ trợ của lượng vitamin D tối thiểu hiện có.
Bản thân việc bổ sung vitamin D đầy đủ sẽ giúp tăng mật độ chất khoáng trong xương và giảm nguy cơ gãy xương. Đây là bằng chứng bổ sung cho thấy không bao giờ nên tăng lượng canxi nạp vào, có hoặc không dùng thực phẩm bổ sung, vì mục đích làm chắc khỏe xương (hoặc thậm chí là vì sức khỏe nói chung). Việc bổ sung như vậy không có ích cho xương và có nhiều tác dụng phụ đáng kể, bao gồm tăng tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân.
Quan niệm sai lầm #6: Mối nguy hiểm lớn nhất đối với người mắc loãng xương là tàn tật hoặc tử vong sau khi bị gãy xương
Khi người mắc bệnh loãng xương bị gãy xương thì đó là chuyện nghiêm trọng. Một sự việc như vậy có thể lập tức gây tàn tật và thường dẫn đến tử vong trong khoảng thời gian tương đối ngắn. Tuy nhiên, chết hoặc chịu đau đớn do đau tim, do bất kỳ loại ung thư nào, hoặc thậm chí do đột quỵ không phải là một lựa chọn đáng mong muốn để thay thế cho việc gãy xương.
Nhưng dù sao, đó lại là những gì thường xảy ra. Một nghiên cứu đột phá đã cho thấy rất rõ rằng gãy xương không phải là mối quan ngại chính đối với phần lớn bệnh nhân loãng xương. Một nghiên cứu quy mô lớn đã theo dõi gần 10.000 phụ nữ sau mãn kinh với mật độ chất khoáng trong xương thấp được ghi nhận trong khoảng thời gian gần ba năm. Người ta thấy rằng nguy cơ tử vong ở những người có mật độ xương ở nhóm ngũ phân vị (20%) thấp nhất tăng 60% so với những người ở nhóm cao nhất. Tuy nhiên, hầu hết các trường hợp tử vong không liên quan đến gãy xương.
Lý do khả dĩ cho điều này rất rõ ràng. Có một lượng dữ liệu đáng kể cho thấy mối tương quan giữa xơ vữa động mạch và loãng xương. Loãng xương càng tiến triển, dần dần càng nhiều canxi được giải phóng khỏi xương. Sự giải phóng canxi này thực sự khiến tất cả các mô và cơ quan khác của cơ thể bị thừa canxi mạn tính.
Phù hợp với quan niệm này, trong một nghiên cứu theo thời gian khác trên những phụ nữ sau mãn kinh, người ta đã thấy rằng xương càng loãng thì nguy cơ bị đột quỵ càng cao. Người ta cũng lưu ý rằng mật độ xương có tỷ lệ nghịch lớn nhất với nguy cơ xuất huyết và nghẽn nội sọ, những vấn đề có thể phát sinh do canxi lắng đọng trong động mạch.
Một nghiên cứu khác đã cho thấy mật độ chất khoáng trong xương thấp có liên quan đến chứng xơ vữa động mạch ở một nhóm phụ nữ sau mãn kinh.
Trong một nhóm phụ nữ tiền mãn kinh mắc viêm động mạch Takayasu, một tình trạng viêm mạn tính, người ta đã phát hiện ra rằng vôi hóa động mạch nghiêm trọng liên quan chặt chẽ đến mật độ chất khoáng trong xương thấp. Hơn nữa, người ta quan sát thấy thời gian bệnh dài hơn ở những người bị vôi hóa động mạch nghiêm trọng. Điều này cũng ủng hộ mạnh mẽ quan niệm rằng vôi hóa động mạch và xơ vữa động mạch được thúc đẩy đáng kể và trở nặng hơn do sự huy động canxi từ xương loãng, với tác động ngày càng lớn hơn khi tình trạng loãng xương hiện có tiến triển và kéo dài.
Có lẽ dấu hiệu rõ ràng nhất chỉ ra rằng mức độ loãng xương tiến triển nhất sẽ phát tán nhiều canxi nhất ra khắp cơ thể đến từ một nghiên cứu liên kết mối quan hệ giữa mật độ chất khoáng trong xương với tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân. Trong một nghiên cứu theo dõi 3.501 người trưởng thành trong khoảng thời gian lên tới 22 năm, tổng cộng có 1.530 trường hợp tử vong. Một mối quan hệ tỷ lệ nghịch đáng kể với tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân đã được tìm thấy ở những người đàn ông và phụ nữ da đen cũng như ở những người đàn ông da trắng có mật độ chất khoáng trong xương giảm. Mật độ xương giảm này cũng dự đoán tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân ngoài tim mạch trong toàn bộ nhóm đó. Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng những phụ nữ mãn kinh bị bệnh tim mạch có nguy cơ gãy xương do loãng xương tăng.
Như vậy, rõ ràng là sự giải phóng lâu dài canxi từ xương loãng ra phần còn lại của cơ thể không chỉ làm tăng bệnh tim mạch, mà làm tăng mọi loại bệnh, làm giảm đáng kể tuổi thọ. Tình trạng vôi hóa mạch máu gia tăng nhìn chung đã được chứng minh là có liên quan đến việc gia tăng tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân. Mặc dù với công nghệ hiện nay, canxi thường được định lượng và theo dõi trong các động mạch vành, sự tích tụ của nó ở đó tương đối đồng nghĩa với việc nó đang đồng thời tích tụ trong nhiều khu vực khác nhau của cơ thể, do đó làm nặng thêm tất cả các bệnh mạn tính. Có nghĩa là quá trình tiến triển bệnh loãng xương làm rút ngắn tuổi thọ hơn nhiều so với khả năng gãy xương do loãng xương và khả năng tử vong thứ phát sau sự cố đó.
Vì tình trạng dư thừa canxi trong cơ thể đã được phát hiện là làm tăng tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân và là chỉ báo rõ nhất cho nguy cơ bệnh tim mạch tăng (chỉ số canxi động mạch vành), điều này không có gì đáng ngạc nhiên. Điều nên rút ra từ đó là những phụ nữ lớn tuổi bị loãng xương vốn đã phải vật lộn trong một trận chiến khó khăn với những căn bệnh do canxi thừa được giải phóng từ xương của chính họ gây ra và làm nặng hơn. Họ không đáng phải đối phó với thách thức độc hại từ canxi bổ sung và canxi tăng trong chế độ ăn, thứ vốn vẫn được coi là biện pháp can thiệp tích cực trong việc điều trị căn bệnh của họ. Việc này đặc biệt khó khăn đối với những bệnh nhân nhận được yêu cầu tăng cường nạp canxi từ phía các bác sĩ của họ, những người tiếp tục làm ngơ số bằng chứng ngày càng nhiều về độc tính lâu dài của việc nạp canxi như vậy. Không bệnh nhân nào cảm thấy thoải mái khi phải làm ngơ lời khuyên trực tiếp từ bác sĩ của mình.
Quan niệm sai lầm #7: Vitamin D chỉ có tác dụng tăng hấp thu canxi
Đây tiếp tục là một quan niệm sai lầm khá phổ biến mặc dù nó đã được chứng minh là sai từ lâu nay. Từ những năm 1980 đã có ngày càng nhiều dữ liệu về sự hiện diện của các thụ thể vitamin D bên ngoài xương, thận và ruột – những nơi vốn đã được chứng minh là đóng vai trò nổi bật trong quá trình chuyển hóa canxi. Một lượng lớn dữ liệu khoa học trên nhiều tạp chí khoa học khác nhau ghi nhận rằng các thụ thể trên khắp cơ thể vitamin D có mặt. Hơn nữa, vitamin D hiện được biết là có ảnh hưởng trực tiếp đến khoảng 200 gien, với tác động gián tiếp lên tới 2.000 gien.
Vì vậy, mặc dù đúng là vitamin D đóng vai trò thiết yếu trong việc điều hòa và điều chỉnh quá trình chuyển hóa và hấp thu canxi thông qua các tương tác của nó với xương, ruột, và thận, nó còn đóng nhiều vai trò quan trọng khác trong quá trình chuyển hóa của hầu như mọi tế bào của cơ thể, sự hiện diện rộng rãi của rất nhiều thụ thể vitamin D chứng tỏ điều đó. Các thụ thể chỉ tồn tại nếu chúng có nhiệm vụ gắn với một chất nào đó. Nhiều chức năng trên của vitamin D được liệt kê ở Chương 8.
Thật không may, và thậm chí hơi đáng kinh ngạc, nhiều bác sĩ vẫn coi vitamin D về cơ bản chỉ là một cách khác để “bổ sung” canxi, mặc dù có rất nhiều bằng chứng khoa học rõ ràng chứng minh điều ngược lại. Một thực tế nữa là vitamin D không chỉ tạo điều kiện cho việc hấp thu canxi từ chế độ ăn, mà chắc chắn còn làm hấp thu “quá liều” khi những thực phẩm có hàm lượng canxi cao (thường là sữa) được bổ sung vitamin D một cách nhân tạo. Khi vitamin D được bổ sung đồng thời với bất kỳ hình thức bổ sung canxi cụ thể nào hoặc chỉ là tăng lượng canxi trong chế độ ăn, tác dụng hấp thu “quá liều” cũng sẽ phát huy.
Vì vitamin D đóng vai trò thiết yếu trong việc kết hợp đúng cách canxi vào chất nền xương mới được tạo ra, điều cũng cần thiết là tạo điều kiện cho nó điều chỉnh một cách tự nhiên lượng canxi từ chế độ ăn để đạt được cân bằng canxi nội môi tối ưu. Chỉ những chế độ ăn nghèo nàn nhất mới không đủ canxi để mức vitamin D tuần hoàn bình thường có thể hấp thu và sử dụng tất cả những gì cần thiết cho xương cũng như sức khỏe toàn cơ thể.
Thực sự không có hội chứng nào được định nghĩa rõ ràng cho tình trạng thiếu canxi nguyên phát ở người, mặc dù có hiện tượng mất dần xương và hàm lượng canxi trong xương liên quan đến tuổi tác mà không liên quan đến lượng canxi trong chế độ ăn. Một lý do khiến nhiều người nghĩ rằng có tồn tại kiểu thiếu hụt như vậy là bởi hiện tượng đó có thể dễ dàng được tạo ra ở các động vật thí nghiệm với những chế độ ăn cực hạn chế canxi. Những động vật như vậy sau đó phát triển tình trạng mất xương đáng kể. Tuy nhiên, không có chế độ ăn nào của con người hạn chế đến như vậy. Và vì không có hội chứng thiếu canxi nguyên phát, nhiều yếu tố liên quan đến sinh lý bất thường của tình trạng lão hóa xương, thiếu xương và loãng xương cần phải được giải quyết toàn diện thay vì chỉ đơn giản hóa thái quá là đưa càng nhiều canxi vào cơ thể càng tốt. Khi mức vitamin D được tối ưu hóa, sẽ không còn vấn đề lượng canxi nạp vào không đủ.
Quan niệm sai lầm #8: Bạn nhận đủ lượng vitamin D cần thiết từ mặt trời
Tuyên bố này sẽ đúng nếu thực sự dành tối thiểu 30–60 phút mỗi ngày dưới ánh mặt trời với diện tích da được phơi ra đủ lớn và ở một vùng đủ gần xích đạo để có đủ lượng tia cực tím tạo vitamin D đi xuyên qua hàng rào khí quyển. Câu nói chính xác hơn có lẽ là, những người tiếp xúc đủ với ánh nắng mặt trời ở những vùng đủ điều kiện trên thế giới có thể nhận được đủ lượng vitamin D cần thiết. Tuy nhiên, sự thật là lối sống hiện đại rất hiệu quả trong việc che chắn hầu hết mọi người khỏi ánh nắng mặt trời đến nỗi thậm chí một tỷ lệ lớn những người sống ở các vùng khí hậu nhiệt đới cũng bị thiếu vitamin D kinh niên. Sự thật này thậm chí còn chính xác hơn nữa với những nhóm dân số có làn da sẫm màu, vì lượng melanin cao trong da sẽ ngăn chặn thêm rất nhiều tia cực tím tạo vitamin D đến mức ngay cả mục tiêu phơi nắng 30–60 phút hằng ngày nói trên nhìn chung cũng không đủ dù những điều kiện khác là tối ưu. Do đó, đối với hầu hết mọi người trên hành tinh này, việc bổ sung vitamin D là điều kiện bắt buộc để có được các chỉ số máu trong phạm vi hỗ trợ tối ưu cho sức khỏe của xương và sức khỏe nói chung.