Vitamin C: Nền tảng của xương chắc khỏe
Không phần nào trong cuốn sách này có mục đích nói giảm những hậu quả tai hại và thậm chí có thể gây tử vong của bệnh loãng xương giai đoạn nặng. Gãy xương phát sinh từ bệnh loãng xương là vấn đề nghiêm trọng!
Các nhà nghiên cứu dự đoán rằng số ca gãy xương do bệnh loãng xương hằng năm sẽ lên tới ba triệu vào năm 2025. Trong điều kiện ngày nay, việc điều trị các ca gãy xương này sẽ tiêu tốn hơn 28 tỷ đô la. Theo Tổng Y sĩ Mỹ, gần một phần tư phụ nữ trên 50 tuổi ngã một lần mỗi năm, và ở tuổi 85 khoảng một phần hai phụ nữ bị ngã một lần mỗi năm. Đối với nam giới trong cùng độ tuổi, các con số tương ứng là khoảng một phần sáu đến hơn một phần ba. Tất nhiên không phải mọi lần té ngã đều dẫn đến gãy xương, nhưng mỗi trường hợp đều ẩn chứa nguy cơ.
Như chúng ta đã thấy, tăng canxi trong chế độ ăn cũng như bổ sung canxi không làm giảm nguy cơ gãy xương. Mặc dù nhiều nghiên cứu cho thấy sự thiếu hiệu quả của các liệu pháp canxi cũng như vô số bằng chứng về độc tính và sự nguy hiểm của chúng, nhưng hầu như ai cũng chấp nhận rằng các phương pháp tốt nhất để điều trị loãng xương luôn phải có bổ sung canxi. Thước đo và mục tiêu chính của liệu pháp này là sự cải thiện trong các xét nghiệm mật độ xương. Các tài liệu khoa học cho thấy rằng phương pháp này chỉ tạo ra lớp che đậy bề ngoài.
Nếu bệnh loãng xương thực ra là bệnh scurvy cục bộ ở xương (như đã đề cập trong chương 4), thì việc đảo ngược căn bệnh này sẽ đòi hỏi phải đưa mức vitamin C lên mức bình thường – trong xương cũng như phần còn lại của cơ thể. Mặc dù vitamin C thể hiện khả năng bảo vệ tuyệt vời và còn có tác dụng chữa trị trong hầu hết mọi bệnh truyền nhiễm và phơi nhiễm độc hại mà con người đã biết, vai trò của nó trong sinh lý tổng hợp xương và duy trì xương còn vượt xa các đặc tính chống oxy hóa và kháng khuẩn.
Vitamin C: Cần thiết trong sinh lý xương
Như đã đề cập trong chương trước, sinh lý xương yêu cầu sự tương tác liên tục của các yếu tố sau:
1. Sự hình thành xương (hấp thu), bao gồm hấp thu và kết hợp các khoáng chất, trong đó có canxi, vào chất nền xương
2. Hủy xương (tái hấp thu), trong đó các khoáng chất được giải phóng từ xương, bao gồm cả canxi
3. Tình trạng mất cân bằng oxy hóa (điều biến), ở mức thấp có lợi cho sự hình thành xương khỏe mạnh, còn ở mức cao sẽ tạo điều kiện cho quá trình hủy xương và giải phóng canxi
Vitamin C là nhân tố chính trong mỗi quá trình này. Nó quan trọng trong việc hình thành và duy trì xương chắc khỏe đến mức rất có thể bệnh scurvy cục bộ ở xương chính là nguyên nhân chính dẫn tới loãng xương. Thiếu vitamin C thì không thể ngăn chặn hoặc điều trị hiệu quả bệnh loãng xương, dẫn đến nguy cơ gãy xương tăng lên.
Sự tăng sinh của các tế bào tạo xương là điều cần thiết để tạo ra đủ vật liệu xương mới, chắc khỏe. Vitamin C kích thích các tế bào gốc xương [tế bào trung mô] tạo ra tế bào tạo xương cũng như mô phỏng sự tăng sinh của chính các tế bào gốc đó. Vitamin C cũng rất cần thiết cho sự hình thành collagen típ 3, nhân tố góp phần làm gia tăng nhanh chóng số lượng tế bào tạo xương.
Ngược lại, và cũng quan trọng không kém, vitamin C ức chế sự tăng sinh của tế bào hủy xương. Vì vậy, khi thiếu vitamin C, tế bào hủy xương sinh sôi nảy nở và hoạt động tiêu xương tăng lên. Khi mức vitamin C trong cấu trúc xương đủ thấp, sự hình thành tế bào xương mới suy giảm, sự hủy xương tăng lên, và sự mất xương nói chung tăng tốc. Tất cả dẫn đến việc canxi, chất chỉ thị bệnh loãng xương, thoát ra từ chất nền xương.
Vitamin C cũng cần cho sự hình thành và duy trì collagen khỏe mạnh. Protein này cung cấp độ chịu lực kéo cho xương và mọi phần khác có chứa nó. Collagen chiếm khoảng 90% protein chất nền xương. Hễ lượng vitamin C có sẵn giảm, chất lượng và số lượng collagen được sản xuất cũng giảm theo tương ứng. Collagen không đủ và/hoặc chất lượng kém hơn có tác động tiêu cực đến kiến trúc vi xương, dẫn đến xương dễ gãy hơn và bớt chắc khỏe.
Đáng chú ý, độ dễ gãy tăng lên này hầu như không phụ thuộc vào mật độ xương. Điều đó đặc biệt đúng khi sự gia tăng mật độ xương là kết quả của việc bổ sung canxi ồ ạt thay vì các biện pháp được thiết kế để đảo ngược nguyên nhân sinh lý của bệnh loãng xương.
Có những chất được sử dụng phổ biến có thể dẫn đến việc bảo tồn xương hoặc tổng hợp xương mới một cách hợp lý, như estrogen, bisphosphonates, calcitonin và/hoặc parathormone. Dù hữu ích nhưng những chất này vẫn phải được kết hợp cùng một liệu pháp chống oxy hóa mạnh với vitamin C là chủ đạo, nếu không chúng sẽ chỉ đơn giản làm tăng mật độ xương mà không phục hồi đáng kể chất lượng xương. Để chắc khỏe và có khả năng đàn hồi, chất nền xương giàu collagen phải có nguồn cung cấp vitamin C liên tục và dồi dào.
Một phần quan trọng khác của lực đàn hồi trong xương liên quan đến liên kết chéo. Liên kết chéo là một quá trình hóa học tạo thành mạng lưới sợi bền chắc kết nối các sợi collagen. Vitamin C cũng hỗ trợ mạnh mẽ quá trình sinh lý này. Tóm lại, ngay cả khi một liệu pháp điều trị bằng thuốc cụ thể đang cải thiện chỉ số xét nghiệm mật độ chất khoáng trong xương, vitamin C vẫn rất cần thiết trong việc phục hồi độ bền chắc và tính đàn hồi cho xương.
Vitamin C: Người bảo vệ tuyến đầu chống lại mất cân bằng oxy hóa
Chính nhóm chất độc (có khả năng oxy hóa) đối với cơ thể làm khởi phát và thúc đẩy bệnh loãng xương cũng gây ra bệnh ung thư, bệnh tim mạch và các bệnh thoái hóa mạn tính khác. Việc cơ chế nào và bệnh nào biểu hiện ở mỗi cá nhân cụ thể được quyết định bởi sự kết hợp của khuynh hướng di truyền và tính chất của chất độc. Khi tình trạng mất cân bằng oxy hóa sinh ra nhiều hơn trong mô xương, vitamin C và các chất chống oxy hóa khác trong chất nền xương bị khử năng lượng (bị oxy hóa). Đến khi các chất chống oxy hóa giàu năng lượng bị áp đảo về số lượng do dòng độc tố liên tục và/hoặc mức mất cân bằng oxy hóa tăng cao, bệnh scurvy cục bộ bắt đầu.
Rất ít trường hợp ngoại lệ, một tổn thương độc hại ở quy mô lớn và ổn định (chẳng hạn phát sinh từ những chiếc răng đã điều trị tủy) sẽ tạo ra mất cân bằng oxy hóa ở mức cao trên khắp cơ thể. Chính độ nhạy cảm sinh học riêng biệt của mỗi người sẽ quyết định liệu việc phơi nhiễm và/hoặc nhiễm độc trước tiên sẽ dẫn đến đau tim, ung thư vú, gãy xương do loãng xương hay một bệnh khác tùy theo các điều kiện căn bản và khuynh hướng di truyền.
Mất cân bằng oxy hóa tăng luôn đi kèm với hiện tượng giảm chất chống oxy hóa trong các mô bị ảnh hưởng. Mức chất chống oxy hóa thấp hoặc bằng không cho phép tình trạng mất cân bằng oxy hóa bắt đầu hoặc trở nên nghiêm trọng hơn. Trong thực tế, nếu tình trạng mất cân bằng oxy hóa trong xương được giữ ở mức bình thường do đủ lượng chất chống oxy hóa thì bệnh loãng xương không thể phát triển hoặc tiến triển.
Mất cân bằng oxy hóa mức cao thường đi kèm với tăng protein phản ứng C, đây là một xét nghiệm phổ biến có tương quan với tình trạng viêm toàn thân. Nồng độ protein phản ứng C cao cho thấy rõ sự gia tăng nguy cơ gãy xương do loãng xương ở phụ nữ cao tuổi. Vitamin C liều cao đã được chứng minh là làm giảm đáng kể mức protein phản ứng C và các phân tử khác [cytokine] có tác dụng báo hiệu sự hiện diện của tình trạng viêm. Ngoài ra, người ta cũng tìm thấy một mối quan hệ rõ ràng giữa nguy cơ gãy xương tăng lên do loãng xương và các bệnh thoái hóa mạn tính với tình trạng viêm có thể quan sát được.
Việc bình thường hóa tình trạng mất cân bằng oxy hóa trong chất nền xương, trừ khi được thực hiện từ giai đoạn đầu của quá trình phát triển bệnh loãng xương, thường là không đủ để tái tạo cấu trúc xương khỏe mạnh. Tuy nhiên, việc không giải quyết được tình trạng mất cân bằng oxy hóa tăng trong xương sẽ hạn chế, thậm chí ngăn chặn sự tổng hợp xương mới khỏe mạnh.
Bổ sung vitamin C làm tăng mật độ xương
Nghiên cứu chứng minh mối quan hệ chặt chẽ giữa thiếu vitamin C và bệnh loãng xương có cả một số nghiên cứu về mật độ xương. Một nghiên cứu như vậy cho thấy những phụ nữ sau mãn kinh có lượng vitamin C nạp vào qua chế độ ăn lớn hơn thì có mật độ chất khoáng trong xương lớn hơn, nhưng chỉ ở vùng cột sống thắt lưng. Tuy nhiên, ở những người bổ sung vitamin C – tức là những người có lượng vitamin C nạp vào cao hơn hẳn mức có thể thông qua thức ăn – mật độ chất khoáng trong xương cao hơn hẳn ở tất cả các vị trí được xét nghiệm. Mật độ tăng đặc biệt cao ở cổ xương đùi, vị trí điển hình của hầu hết các trường hợp gãy xương vùng hông.
Trong một nghiên cứu trên động vật, các điều tra viên đã chứng minh rằng liều cao vitamin C thực sự có thể bù đắp cho sự mất xương liên quan đến việc ngừng hoàn toàn sản sinh estrogen. Phát hiện này là vô cùng quan trọng vì tỷ lệ mắc bệnh loãng xương ở phụ nữ thường liên quan đến việc estrogen giảm mạnh khi mãn kinh. Việc bù đắp đầy đủ cho sự suy giảm một chức năng hormone quan trọng bằng một loại vitamin, đặc biệt là ở một bộ phận cơ thể phụ thuộc chặt chẽ vào hormone đó để duy trì trạng thái bình thường, là rất đáng chú ý!
Bổ sung vitamin C làm giảm nguy cơ gãy xương
Mặc dù các nghiên cứu đáng chú ý về bệnh loãng xương và vitamin C không thu hút được nhiều sự quan tâm, nhưng người ta đã xác định rõ ràng rằng chỉ riêng việc bổ sung vitamin C đã làm giảm nguy cơ gãy xương do loãng xương ở bệnh nhân cao tuổi. Nghiên cứu loãng xương Framingham cũng cho thấy những người có mức bổ sung vitamin C cao nhất bị gãy xương ít hơn hẳn so với những người có mức bổ sung thấp nhất. Những phát hiện này làm rõ tầm quan trọng của liều dùng và lượng vitamin C tương đối nhỏ thường được nạp vào qua mọi chế độ ăn nếu không dùng sản phẩm bổ sung.
Phù hợp với những phát hiện này, những bệnh nhân cao tuổi từng bị gãy xương do loãng xương được phát hiện có nồng độ vitamin C trong máu thấp hơn hẳn so với những bệnh nhân cao tuổi không bị gãy xương. Người ta cũng đã báo cáo rằng phụ nữ cao tuổi mắc bệnh loãng xương có nồng độ vitamin C và các chất chống oxy hóa khác trong huyết tương thấp hơn hẳn so với những người cùng độ tuổi mà không bị loãng xương.
Bổ sung vitamin C làm tăng tốc độ và cải thiện chất lượng chữa lành xương
Các nghiên cứu chứng minh rằng vitamin C làm tăng tốc độ và cải thiện chất lượng chữa lành xương ở động vật. Trong một nghiên cứu, những con chuột bị gãy xương chày mà được bổ sung vitamin C thì mau lành hơn. Trong một nghiên cứu khác, bổ sung vitamin C cũng giúp chữa lành nhanh chóng ở những con chuột bị gãy xương. Thật thú vị, quá trình chữa lành đó không chịu ảnh hưởng nhiều từ vitamin E, điều này càng chứng tỏ rằng tầm quan trọng của vitamin C trong việc chữa lành xương vượt ra ngoài các đặc tính chống oxy hóa của nó.
Sức kháng/sức mạnh cơ học của vùng gãy xương đang lành (sẹo xương) đã được chứng minh là có cải thiện ở những con chuột già được bổ sung vitamin C. Vitamin C cần thiết cho việc chữa gãy xương đến nỗi nếu thiếu vitamin C đến mức nào đó có thể dẫn tới việc vết gãy không thể lành lại được. Vitamin C không chỉ đẩy nhanh quá trình chữa lành xương, nó còn quan trọng đối với việc:
1. Hình thành các protein chất nền xương không collagen
2. Biệt hóa tế bào gốc trung mô thành tế bào xương, và
3. Điều hòa các tế bào hình thành sụn trong xương.
Nói chung, tất cả các nghiên cứu này chỉ ra rằng vitamin C đóng góp đáng kể vào cả tốc độ và chất lượng chữa lành xương gãy.
Bổ sung vitamin C chống lại sự vôi hóa nguy hiểm
Vitamin C có liên quan mật thiết đến quá trình chuyển hóa canxi của cơ thể. Ở bệnh scurvy, tình trạng thiếu hụt vitamin C mức độ cao nhất, canxi lắng đọng bất thường nằm rải rác trong các mô bị ảnh hưởng. Hơn nữa, có vẻ như tình trạng thiếu hụt vitamin C đáng kể cũng tạo điều kiện cho việc huy động canxi từ xương và tăng bài tiết qua nước tiểu. Sự huy động canxi ra khỏi xương đến các mô không phải xương hoặc đến thận để bài tiết là nguyên nhân cơ bản cho sự tiến triển và nặng thêm của bệnh loãng xương.
Vitamin C cũng ngăn ngừa vôi hóa và lắng đọng canxi bằng cách giữ canxi ở trạng thái hòa tan. Canxi cacbonat, một trong những chất khó hòa tan nhất và dạng phổ biến nhất được tìm thấy trong các cặn canxi bất thường trên cơ thể, có thể nhanh chóng được hòa tan bằng vitamin C. Trên thực tế, chỉ có axit clohydric mạnh mới hòa tan canxi tốt hơn vitamin C. Thậm chí một số bằng chứng còn cho thấy vitamin C có thể tạo ra một số tác dụng giống như thuốc chẹn kênh canxi, điều luôn được mong muốn trong điều trị các bệnh do thừa canxi.
Các nghiên cứu trên động vật đã chứng minh sự cần thiết của lượng vitamin C đầy đủ để hỗ trợ quá trình chuyển hóa xương bình thường, kết hợp canxi vào chất nền xương cũng như hình thành xương chắc khỏe. Trong một nghiên cứu trên chuột lang, lượng canxi đầy đủ từ chế độ ăn lắng đọng vào xương không đáng kể khi thiếu vitamin C. Ngược lại, người ta đã chứng minh rằng việc phục hồi đầy đủ vitamin C vào chế độ ăn tạo điều kiện cho sự kết hợp nhanh chóng canxi vào xương. Các nhà nghiên cứu khác cũng quan sát thấy rằng mặc dù hiện tượng ngăn chặn hoàn toàn sự hình thành xương liên quan đến thiếu vitamin C ở chuột lang là không tuyệt đối, nhưng rõ ràng là mọi hoạt động hình thành xương mới đều bị hạn chế và có chất lượng kém.
Lượng vitamin C đầy đủ là cần thiết cho sự lắng đọng canxi vào trong xương, còn thiếu hụt vitamin C tạo tiền đề cho sự lắng đọng canxi bất thường bên ngoài xương. Những nam giới có nồng độ vitamin C trong huyết tương thấp nhất có tỷ lệ lắng đọng canxi động mạch vành tăng đáng kể so với những người có mức độ vitamin C trong huyết tương cao nhất.
Bổ sung vitamin C chống lại sỏi thận giàu canxi
Một biểu hiện khác của sự vôi hóa bất thường trong cơ thể là tình trạng hình thành sỏi thận. Báo chí đại chúng và các bác sĩ ngoan cố, thiếu thông tin đã cáo buộc vitamin C làm khởi phát những viên sỏi canxi oxalate này, nhưng đó là điều hoàn toàn sai. Nhiều cáo buộc tiếp tục được đưa ra dựa trên thực tế là vitamin C có thể góp phần vào quá trình tổng hợp oxalate trong nước tiểu. Nhiều loại thực phẩm và các chất lành mạnh cũng góp phần tổng hợp oxalate, nhưng oxalate không gây sỏi thận, giống như sắt không gây ra rỉ sét. Các tinh thể canxi oxalate không kết tủa trong nước tiểu trừ khi có một số điều kiện nhất định – chủ yếu là do tình trạng mất cân bằng oxy hóa. Bạn sẽ sớm thấy, thay vì gây ra hoặc hỗ trợ sự kết tủa này, vitamin C thực ra lại chiến đấu chống lại nó.
Nếu sự tổng hợp và hiện diện của oxalate là nguyên nhân duy nhất gây sỏi thận, chúng ta sẽ thấy một tỷ lệ cao những viên sỏi này ở phụ nữ mang thai. Sự quá bão hòa canxi oxalate trong nước tiểu – với mức độ tương tự như ở những phụ nữ có xu hướng hình thành sỏi – được quan sát thấy phổ biến ở phụ nữ mang thai. Tuy nhiên, thai kì bình thường không liên quan đến sự hình thành sỏi canxi oxalate.
Hình thành tinh thể oxalate là bước cần thiết trước khi một viên sỏi có thể phát triển. Trong một nghiên cứu biểu mô tế bào được thiết kế để mô phỏng chặt chẽ các điều kiện tự nhiên ở thận, vitamin C thực sự làm giảm cơ hội hình thành tinh thể canxi oxalate. Yếu tố ảnh hưởng chính cho sự hình thành sỏi dường như là các tế bào bị tổn thương do oxy hóa. Khi được dùng đủ liều, vitamin C thực ra được kỳ vọng sẽ ức chế hoặc thậm chí ngăn chặn tình trạng mất cân bằng oxy hóa gây bệnh này.
Trong một loại nghiên cứu tương tự trên các tế bào thận, liệu pháp chống oxy hóa ngăn chặn sự kết tủa canxi oxalate. Cũng cần lưu ý rằng khi các tinh thể canxi oxalate bắt đầu hình thành, quá trình đó luôn xảy ra trong một môi trường thiếu vitamin C và các chất chống oxy hóa khác. Những quan sát này chỉ ra rằng sự hình thành sỏi oxalate phụ thuộc vào mức độ mất cân bằng oxy hóa đủ để làm hỏng các tế bào biểu mô lót bên trong thận. Mức độ mất cân bằng oxy hóa này được vitamin C ngăn chặn, chứ không phải do nó gây ra.
Nhiều bằng chứng cho thấy rõ rằng vitamin C, thay vì là nguyên nhân gây sỏi thận, thực ra lại ngăn ngừa sự hình thành chúng. Việc uống vitamin C liều cao ở mười nam giới khỏe mạnh không ảnh hưởng đến các yếu tố nguy cơ chính liên quan đến sự hình thành sỏi canxi oxalate ở thận. Trong một nghiên cứu khác, mẫu nước tiểu của một nhóm tình nguyện viên nam khỏe mạnh được so sánh với những người bị tái phát sỏi canxi thận. Trong các mẫu bình thường, vitamin C không có tác động gì lên sự hình thành tinh thể canxi oxalate, trong khi nó thực sự ức chế sự hình thành tinh thể trong nước tiểu của người bị sỏi tái phát.
Các nghiên cứu theo thời gian quy mô lớn tiếp tục xóa cho vitamin C khỏi nỗi oan là nguyên nhân của việc hình thành sỏi ở những người có chức năng thận bình thường. Trong một nghiên cứu của Harvard theo dõi 45.251 nam giới từ 40 đến 75 tuổi, không tìm thấy liên kết nào giữa vitamin C và sự hình thành sỏi, ngay cả khi vitamin C được tiêu thụ ở liều cao.
Một nghiên cứu tương tự đã xem xét nguy cơ sỏi thận ở 85.557 phụ nữ liên quan đến lượng vitamin C nạp vào, và một lần nữa không có mối liên kết nào với nguy cơ đó được tìm thấy. Trên thực tế, các nhà nghiên cứu cho hay việc thường xuyên hạn chế lượng vitamin C để ngăn ngừa hình thành sỏi không được chứng thực. Trong một nghiên cứu quy mô lớn khác của Harvard, những người trong nhóm ngũ phân vị cao nhất (20% cao nhất) về lượng vitamin C nạp vào, hơn 1.500mg mỗi ngày, thực ra được phát hiện là có nguy cơ sỏi thận thấp hơn so với những người trong nhóm ngũ phân vị thấp nhất về lượng vitamin C nạp vào.
Trong một nghiên cứu thậm chí còn quả quyết hơn, mối liên quan giữa nồng độ vitamin C trong huyết thanh với tỷ lệ mắc sỏi thận đã được kiểm tra. Không có dấu hiệu cho thấy mức vitamin C lớn hơn làm tăng tỷ lệ mắc sỏi. Hoàn toàn ngược lại, ở những người đàn ông được nghiên cứu, cứ mỗi 1,0mg/dL nồng độ vitamin C tăng trong huyết thanh có liên hệ độc lập với một mức giảm 28% tỷ lệ mắc sỏi thận.
Các quan sát viên báo cáo rằng việc sử dụng vitamin C thực sự đã hòa tan và/hoặc phân giải những viên sỏi tồn tại từ trước ở người và động vật. Mặc dù quan sát này chưa được xác thực, nó phù hợp với tính chất hòa tan canxi của vitamin C được mô tả trước đó.
Bổ sung vitamin C làm giảm tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân
Các nghiên cứu xem xét mối quan hệ giữa vitamin C và tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân rất thuyết phục. Điều này đặc biệt đúng với mối quan hệ giữa vitamin C và tử vong do bệnh tim mạch hoặc ung thư. Một nghiên cứu xem xét lượng vitamin C nạp qua chế độ ăn đã về sự khác biệt trong tỷ lệ tử vong giữa các nhóm nam giới ăn trung bình 66mg so với trung bình 138mg vitamin C mỗi ngày. Ngay cả ở những lượng vitamin C thấp này, lợi thế sống sót rõ ràng của nhóm nạp nhiều vitamin C hằng ngày hơn đã được chứng minh. Các nhà nghiên cứu báo cáo rằng lượng vitamin C nạp vào cao hơn dẫn đến tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân thấp hơn, bao gồm cả tử vong do bệnh động mạch vành và ung thư. Một nghiên cứu khác xem xét lượng vitamin C nạp vào qua chế độ ăn cũng đã tìm ra rằng chỉ cần gia tăng tương đối nhỏ lượng vitamin C nạp vào qua chế độ ăn cũng làm giảm đáng kể tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân.
Các nghiên cứu về chế độ ăn luôn dễ bị chỉ trích về độ chính xác của thước đo lượng nạp vào và vì thế kết luận của các nghiên cứu đó thường bị nghi ngờ. Tuy nhiên, các nghiên cứu ở cấp độ huyết tương gần như không có chỗ cho những lời chỉ trích như vậy. Một số nghiên cứu đã xem xét mối quan hệ của nồng độ vitamin C trong huyết tương và tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân. Trong mọi trường hợp, kết luận là như nhau: Nồng độ vitamin C trong huyết tương càng cao, nguy cơ tử vong do bệnh tim mạch và do mọi nguyên nhân càng thấp.
Trong nhóm các bệnh nhân thận mạn tính chạy thận nhân tạo, người ta cũng chỉ ra rằng bệnh nhân có nồng độ vitamin C trong huyết tương thấp hơn tử vong sớm hơn, đặc biệt là do các nguyên nhân tim mạch. Những phát hiện này đưa ra một kết luận không thể chối cãi: Càng nạp nhiều vitamin C vào cơ thể, nguy cơ tử vong do mọi nguyên nhân càng giảm.
Độ an toàn khi bổ sung vitamin C
Hồ sơ theo dõi tính an toàn của vitamin C đã được ghi nhận thường xuyên. Ngay cả khi tiêm tĩnh mạch với liều cao tới 200g một lúc và được dùng cho những bệnh nhân mắc bệnh nặng nhất, chẳng hạn như ung thư và nhiễm trùng nặng, vitamin C chưa bao giờ bị gắn với bất kỳ tác dụng phụ bất lợi nào. Trên thực tế, người ta chưa tìm thấy mức vitamin C nào độc hại. Ngoại trừ với những người bị mất chức năng thận đáng kể, không cần lo lắng về nguy cơ bổ sung quá nhiều. Tuy nhiên, ở những ca suy thận, vitamin C, hoặc bất kỳ chất hòa tan trong nước nào khác được bài tiết qua nước tiểu, phải được cân nhắc liều sử dụng.
Năm 2007, vitamin C là vitamin đơn được bán rộng rãi nhất ở Mỹ, một minh chứng nữa cho thấy vẫn chưa xảy ra tác dụng phụ nào mà trước đó không được báo cáo. Như đã lưu ý ở trên, những cố gắng liên tục hòng liên kết vitamin C với sỏi thận chưa bao giờ được xác lập trên cơ sở khoa học uy tín. Trên thực tế, vitamin C làm giảm tỷ lệ sỏi thận ở những người bổ sung thường xuyên.
Tại sao nhiều người vẫn tìm mọi cách hòng dìm các lợi ích to lớn và tính an toàn của vitamin C là điều thực sự khó hiểu. Khi xem xét tính an toàn tổng quát của vitamin C, cần nhận ra rằng nước còn phải được coi là một tác nhân có độc tính tiềm tàng lớn hơn vitamin C. Người ta đã chứng minh rằng khi uống quá nhiều nước quá nhanh, đến hai gallon (khoảng 8 lít nước), có thể gây phù não thẩm thấu do hạ natri máu, co giật dẫn đến hôn mê và tử vong. Nhưng không ai coi nước là một chất độc hại bao giờ. Tuy nhiên, quá nhiều nước có thể chết người. Với vitamin C thì không.
Bổ sung vitamin C
Vitamin C có thể được dùng trong một phạm vi rất rộng và mang lại lợi ích đáng kể với mọi liều được đưa ra. Tuy nhiên, đối với hầu hết các loại bệnh, lợi ích tối ưu của vitamin C sẽ được thấy rõ ở mức bổ sung cao nhất. Như với tất cả các thực phẩm bổ sung dinh dưỡng, vitamin C phải được sử dụng một cách thích hợp để mang lại lợi ích tối ưu. Cùng với vitamin C, nạp càng nhiều chất chống oxy hóa chất lượng cao càng tốt. Các chất chống oxy hóa vừa mới được ăn uống vào sẽ hỗ trợ và nạp lại electron cho các dạng bị oxy hóa của các chất khác.
Giống như bất kỳ loại thuốc bổ sung hoặc thuốc theo toa nào, việc sử dụng thuốc trong thời gian dài được quyết định tốt nhất với sự giúp đỡ và theo dõi của một bác sĩ có kinh nghiệm về các chất chống oxy hóa liều cao.
Giám sát lâm sàng chất lượng cao kết hợp với xét nghiệm thích hợp thường xuyên có thể là vô giá. Việc này không chỉ giúp dễ tìm ra và duy trì đúng lượng phù hợp của vitamin C và các chất chống oxy hóa khác, mà còn cho phép bác sĩ xem liệu bổ sung hay tiếp tục điều trị bằng thuốc theo toa là phù hợp.
Mặc dù nhiều loại thuốc theo toa trị bệnh loãng xương có nguy cơ gây những tác dụng phụ tiêu cực đáng kể và chỉ nên được thêm vào phác đồ điều trị như một lựa chọn cuối cùng, nhiều loại thuốc theo toa khác không chỉ mang lại lợi ích rõ ràng, mà còn gây ra ít hoặc không có rủi ro cho các bệnh đang được điều trị. Nhiều loại thuốc trị huyết áp cao, thuốc chống đau thắt ngực, và thuốc chẹn kênh canxi theo toa là những ví dụ điển hình về thuốc có thể sử dụng không ngần ngại.
Vì mục tiêu của việc bổ sung vitamin C là đưa vitamin C vào càng nhiều vùng mô trong cơ thể với nồng độ càng cao càng tốt, nói chung nên bổ sung các dạng vitamin C khác nhau để đạt được mục tiêu này. Các khuyến nghị chung về việc cung cấp vitamin C liên quan đến bệnh loãng xương được đề cập trong chương 16. Phụ lục B cung cấp một hướng dẫn còn thực tế và rộng hơn để sử dụng tối ưu vitamin C.
Hầu như tất cả các bệnh trạng (không phải cường điệu) sẽ đáp ứng tích cực, rất tích cực, hoặc thậm chí được giải quyết về mặt lâm sàng nếu vitamin C được tối ưu hóa liều lượng và thường xuyên được sử dụng một cách tối ưu. Khi không thấy sự cải thiện đáng kể nào ở một bệnh nhất định sau khi điều trị theo một phác đồ có vitamin C, ta rất nên tìm đến hướng dẫn được cung cấp trong Phụ lục B trước khi kết luận là vitamin C có ít hoặc không có lợi ích gì.
Tóm tắt
Các đặc tính tăng cường sức khỏe của vitamin C:
• Bệnh loãng xương về căn bản là một bệnh scurvy, hay tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng vitamin C và các chất chống oxy hóa hỗ trợ khác trong xương.
• Vitamin C rất cần thiết trong mọi khía cạnh của sinh lý xương
• Vitamin C là tuyến phòng thủ đầu tiên chống lại tình trạng mất cân bằng oxy hóa
• Bổ sung vitamin C dẫn đến mật độ xương cao hơn
• Bổ sung vitamin C làm giảm nguy cơ gãy xương
• Bổ sung vitamin C làm tăng tốc và cải thiện chất lượng chữa lành xương
• Bổ sung vitamin C chống lại sự vôi hóa nguy hiểm
• Bổ sung vitamin C chống lại sỏi thận chứa đầy canxi
• Bổ sung vitamin C làm giảm tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân
• Bổ sung vitamin C không độc hại và an toàn
Loãng xương là một bệnh thoái hóa mạn tính luôn phát sinh bởi, và liên quan mật thiết với, tình trạng mất cân bằng oxy hóa trên khắp cơ thể nhưng đặc biệt là ở xương. Rất nhiều tài liệu khoa học đã chứng minh rõ ràng rằng vitamin C bị thiếu trong xương của tất cả các bệnh nhân loãng xương và rằng sự thiếu hụt này là yếu tố chính gây bệnh và thúc đẩy loãng xương. Như vậy, loãng xương là một bệnh scurvy cục bộ mãn tính của xương. Các tài liệu y khoa còn chỉ ra rằng lượng vitamin C đầy đủ là rất quan trọng để duy trì xương chắc khỏe, mặc dù việc phục hồi xương từ trạng thái loãng xương về trạng thái bình thường đòi hỏi nhiều thứ hơn là chỉ mình vitamin C.
Nhiều yếu tố khác nhau có thể góp phần gây ra loãng xương, nhưng tất cả chúng đều liên quan đến sự phơi nhiễm độc tố tăng cao và sụt giảm chất chống oxy hóa trong xương, làm nổi bật thực tế là sự thiếu hụt vitamin C trong xương là mẫu số chung cuối cùng trong nguyên nhân gây ra bệnh loãng xương. Việc khôi phục nồng độ chất chống oxy hóa, nhất là vitamin C, về mức bình thường, đòi hỏi tất cả các tình trạng phơi nhiễm độc tố đáng kể đang diễn ra phải được giải quyết đúng cách để chương trình bổ sung chất lượng cao có tác động tối ưu đến khả năng phục hồi và duy trì chất lượng xương của vitamin C.
Các nghiên cứu nhìn chung cho thấy vitamin C vô cùng quan trọng cho cả việc lấy lại lẫn duy trì sự chắc khỏe của xương. Trên thực tế, khó mà tin bất kỳ phác đồ điều trị loãng xương nào có thể thành công nếu vitamin C bị loại bỏ hoàn toàn. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng mặc dù vitamin C là chất chống oxy hóa quan trọng nhất, nhưng việc bổ sung nhiều chất chống oxy hóa chất lượng khác hợp túi tiền chắc chắn là sự chi tiêu khôn ngoan để có xương chắc khỏe và sức khỏe tốt nói chung. Phần lớn tác động tích cực của các tác nhân chống loãng xương khác sẽ được đề cập – magiê, vitamin K, vitamin D, các axit béo thiết yếu, estrogen, testosterone, hormone tuyến giáp – xuất phát từ tác động chống oxy hóa cao mà chúng tạo ra trong xương và phần còn lại của cơ thể. Mặc dù thường không được xem là các chất chống oxy hóa, các tác nhân này vẫn hợp thành một phần quan trọng của ma trận chống ô xi hóa tổng thể trong cơ thể. Mặc dù một số lợi ích tích cực dường như xuất phát từ việc chỉ sử dụng các chất này cho bệnh nhân loãng xương, không có lý do chính đáng nào để không kết hợp chúng với việc bổ sung vitamin C liều cao nhằm đạt được lợi ích tối đa.