Các axit béo Omega-3 kết tội thêm và chống lại độc tính của canxi
Các đặc tính tăng cường sức khỏe của dạng omega-3 của các axit béo thiết yếu (EFA), được tìm thấy rất nhiều trong dầu cá, đã được biết đến rộng rãi trong hai thập kỷ qua. Rất ít nếu không nói là không người nào quan tâm đến dinh dưỡng mà lại chưa từng nghe nói về lợi ích của chúng với tim và não cũng như tác dụng ngăn ngừa các bệnh thoái hóa.
Tại sao các axit béo thiết yếu ảnh hưởng tích cực đến sức khỏe như vậy? Các axit béo thiết yếu vốn ức chế sự hấp thu canxi của tế bào. Rất hợp lý khi phần lớn khả năng tăng cường sức khỏe của chúng có thể bắt nguồn từ hoạt động ức chế này. Những tác động của một cơ chế chẹn canxi như vậy lại là một bản cáo trạng khác nữa chống lại các tác động gây bệnh của canxi thừa.
Axit béo thiết yếu là gì?
Các axit béo bao gồm các chuỗi carbon-hydro thẳng có nhóm carboxyl COOH ở đuôi. Chúng được gọi là axit béo vì đặc tính giống như chất béo của chúng. Nhưng không như chất béo mà cơ thể sử dụng làm nhiên liệu, axit béo thiết yếu được sử dụng cho các quá trình sinh học trong cơ thể. Tùy thuộc vào số lượng carbon được kết nối với nhau, EFA có thể là chuỗi ngắn, trung bình hoặc chuỗi dài. Carbon cuối cùng ở cuối chuỗi được gọi là omega carbon (được đặt tên theo chữ cái cuối cùng của bảng chữ cái Hy Lạp).
Việc một axit béo được xem là omega-3 hay omega-6 tùy thuộc vào vị trí của liên kết đôi carbon đầu tiên tính từ đuôi omega của chuỗi. Omega-3 có một liên kết đôi giữa carbon thứ ba và thứ tư tính từ carbon cuối cùng trong chuỗi, còn omega-6 có một liên kết đôi giữa carbon thứ sáu và thứ bảy tính từ cuối.
Các axit béo thiết yếu (EFA), vốn là những thành phần bình thường của mọi loại màng trong cơ thể, là các axit béo phải nạp từ chế độ ăn.
Nói chung, trong số các axit béo lấy từ thức ăn này, các axit béo omega-3 là những chất quan trọng nhất giúp duy trì xương khỏe mạnh và sức khỏe tốt nói chung. Chúng còn được gọi là axit béo không bão hòa đa chuỗi dài omega-3 (PUFA).
Một nguồn quan trọng để bổ sung omega-3 PUFA là dầu cá, chứa một lượng đáng kể omega-3 PUFA được gọi là axit eicosapentaenoic (EPA) và axit docosahexaenoic (DHA). Cả EPA và DHA đều được chứng minh là đặc biệt quan trọng trong việc mang lại lợi ích sức khỏe cho tim, não, hệ miễn dịch, xương, điều trị ung thư, giảm viêm và giảm mức chất béo trung tính cao.
Các nhà nghiên cứu đã chứng minh chức năng chẹn kênh canxi, hay ức chế canxi của DHA. Trong nuôi cấy tế bào nội mô, điều trị trước bằng DHA làm giảm đáng kể sự hấp thu canxi của tế bào.
Axit béo omega-3 và sự chắc khỏe của xương
Ở những con chuột đực đang phát triển được cho ăn có kiểm soát, một nhóm được cho ăn dầu ngô và nhóm kia được cho ăn dầu cá ngừ (giàu axit béo thiết yếu). Những con trong nhóm được cho ăn dầu cá ngừ đều cho thấy lượng canxi hấp thu, mật độ chất khoáng trong xương và hàm lượng canxi trong xương cao đáng kể so với nhóm được cho ăn dầu ngô.
Đặc biệt, hàm lượng DHA của màng tế bào hồng cầu có mối tương quan rõ rệt với mật độ xương và hàm lượng canxi trong xương. Một nghiên cứu trên chuột cho thấy rằng việc nạp axit béo thiết yếu cao trong dài hạn đã cải thiện các đặc tính cơ học của xương.
Một nghiên cứu khác trên động vật, lần này trên gà mái, cho thấy việc bổ sung axit alpha-linolenic, một loại axit béo omega-3 tương tự EPA, dẫn đến giảm 40%–60% tình trạng gãy xương ức vốn thường xảy ra trong quá trình đẻ trứng. Cũng cần lưu ý rằng axit alpha-linolenic có thể được chuyển hóa thành EPA và DHA trong cơ thể.
Phù hợp với các nghiên cứu trên động vật trước đó, những con vật thiếu EFA phát triển bệnh loãng xương nghiêm trọng cùng với vôi hóa rõ rệt ở thận và động mạch. EFA, và đặc biệt là EPA, đóng một vai trò quan trọng trong việc điều hòa và phòng ngừa vôi hóa không mong muốn, bất thường [lạc vị trí].
Ngược lại, bổ sung axit béo omega-3 ở chuột làm giảm rõ rệt những vôi hóa bất thường ở động mạch chủ và thận. Trong các nghiên cứu trên chuột mà vôi hóa ở thận được gây ra bằng cách tiêm canxi gluconate vào bụng, liều EPA đầy đủ có hiệu quả cao trong việc giảm vôi hóa.
Các nghiên cứu khác trên động vật đã chỉ ra rằng chế độ ăn nhiều axit béo omega-3 dẫn đến một số tác động tích cực với xương. Đáng chú ý nhất là các nhà nghiên cứu đã báo cáo rằng ức chế hoạt động của cytokine giúp cải thiện cân bằng canxi, tăng hoạt động nguyên bào xương (tế bào tạo xương), và giảm tình trạng viêm. Cytokine là một nhóm các phân tử điều chỉnh các quá trình khác nhau trong cơ thể, thường là trong phản ứng với một tình trạng cụ thể như tình trạng viêm tăng cao.
Bổ sung các axit béo omega-3 (EPA và DHA) cũng được chứng minh là làm giảm cả bài tiết oxalate trong nước tiểu lẫn nguy cơ kết tinh canxi oxalate trong nước tiểu của các đối tượng khỏe mạnh. Trong các nghiên cứu xem xét những cá thể đã biết là có sỏi, việc bổ sung axit béo omega-3 dẫn đến giảm đáng kể bài tiết canxi và oxalate qua nước tiểu.
Đây là những yếu tố dẫn đến giảm hình thành sỏi, cho thấy vai trò bảo vệ của EPA trong sự phát triển của sỏi thận. Hiện tượng giảm đáng kể bài tiết canxi qua nước tiểu nhờ các chất điều hòa canxi, chẳng hạn như EPA và DHA, thường đồng nghĩa với việc giảm huy động canxi mạn tính từ xương.
Một số nghiên cứu ở người củng cố cho kết luận của các nghiên cứu trên động vật này, mặc dù chưa có các nghiên cứu dài hạn quy mô lớn điều tra tác động của việc bổ sung axit béo omega-3 liều cao (so với lấy từ chế độ ăn) đối với bệnh loãng xương. Trong số các nghiên cứu đã được thực hiện, nhiều nghiên cứu ở quy mô nhỏ và có sự khác biệt đáng kể về phác đồ. Một nhóm đã xem xét mười thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát và tìm thấy cả tác dụng tích cực lẫn không có tác dụng của axit béo omega-3 đối với bệnh nhân loãng xương.
Trong một nghiên cứu về nồng độ trong huyết tương, những người đàn ông có nồng độ DHA thuộc nhóm 20% cao nhất dường như có sự bảo vệ tốt hơn khỏi tình trạng mất mật độ chất khoáng trong xương so với các đối tượng khác.
Các nhà nghiên cứu khác cho rằng bổ sung DHA làm giảm chu chuyển xương và tăng đáng kể mật độ chất khoáng trong xương. Kết luận của họ dựa trên việc đánh giá các dấu hiệu thuận lợi cho sự hình thành và thoái hóa xương có sử dụng DHA như một phần của phác đồ điều trị loãng xương.
Một nghiên cứu ở phụ nữ Hàn Quốc sau mãn kinh cho thấy hàm lượng DHA và EPA cao hơn trong tế bào hồng cầu có liên quan đến loãng xương thấp hơn và khối lượng xương lớn hơn.
Một nghiên cứu khác cho thấy việc bổ sung thêm axit béo omega-3, và các PUFA nói chung trong chế độ ăn, có liên quan đến mật độ xương cao đo được ở cột sống thắt lưng. Rất có khả năng một thử nghiệm quy mô lớn, dài hạn với EPA và DHA liều cao sẽ chứng minh sự chắc khỏe của xương được cải thiện và nguy cơ gãy xương giảm ở bệnh nhân loãng xương.
Không có bằng chứng nào cho thấy các axit béo omega-3 tạo ra bất kỳ tác dụng phụ nào ở bệnh nhân loãng xương. Xét nhiều tác động tích cực được chứng minh rõ ràng và tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân giảm liên quan đến chúng, việc bổ sung axit béo omega-3 là hoàn toàn hợp lý.
Cần lưu ý rằng việc kết hợp các tác nhân tích cực khác nhau để điều trị loãng xương hoặc bất kỳ bệnh thoái hóa mạn tính nào thường mang lại những lợi ích phụ. Trong một nghiên cứu nhỏ ngẫu nhiên, đối chứng giả dược, và mù đôi, 70 bệnh nhân được cung cấp hoặc chỉ canxi hoặc một sản phẩm có chứa genistein (một phytoestrogen có đặc tính chống oxy hóa), vitamin D3, vitamin K1 và một ester axit béo không bão hòa đa có chứa EPA và DHA. Chỉ sau sáu tháng, nhóm đối chứng cho thấy sự suy giảm đáng kể về mật độ chất khoáng trong xương, trong khi nhóm được bổ sung vẫn duy trì được mật độ xương.
Bổ sung axit béo omega-3 làm giảm tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân
Lượng axit béo omega-3 nạp vào qua chế độ ăn và thực phẩm bổ sung tăng lên đã cho thấy kết quả ấn tượng trong việc giảm nguy cơ tử vong do bệnh tim mạch, ung thư, và thậm chí mọi nguyên nhân. Các tác động lên tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân chỉ rõ rằng nhóm chất dinh dưỡng này, như magiê và vitamin C, D và K, đóng vai trò quan trọng trong việc giúp tối ưu hóa quá trình trao đổi chất của tất cả các tế bào trong cơ thể, ngoài vai trò trong chuyển hóa canxi nói chung.
Trong bản đánh giá các nghiên cứu về việc nạp axit béo omega-3 DHA và EPA qua chế độ ăn và/hoặc thực phẩm bổ sung, người ta kết luận rằng các chất dinh dưỡng này có hiệu quả ngăn ngừa các biến chứng mạch vành, bao gồm cả tử vong do bệnh tim mạch, đặc biệt là ở người có nguy cơ tim mạch cao.
Một nghiên cứu hồi cứu đã xem xét tác dụng của việc bổ sung axit béo omega-3 ở bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim, cả với người mắc và không mắc bệnh tiểu đường, kết quả đều là giảm tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân. Một nghiên cứu hồi cứu khác trên 36.003 người Trung Quốc đã phát hiện thấy rằng những người tiêu thụ nhiều cá nhất (một nguồn nhiều DHA và EPA) một cách thường xuyên cũng có tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân thấp hơn. Một nghiên cứu theo thời gian quy mô nhỏ với các axit béo omega-3 bổ sung cũng cho thấy xu hướng rõ ràng là giảm tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân.
Một nghiên cứu khác xem xét nồng độ DHA trong tế bào hồng cầu của bệnh nhân chạy thận nhân tạo cho thấy nồng độ DHA là một yếu tố dự đoán độc lập về tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân. Bệnh nhân thuộc tam phân vị cao nhất (1/3) về mức DHA có khả năng tử vong thấp hơn so với bệnh nhân thuộc tam phân vị thấp nhất.
Trong nghiên cứu theo thời gian uy tín nhất về axit béo omega-3 và tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân, gần 1.000 bệnh nhân mắc bệnh động mạnh vành ở tình trạng ổn định đã được theo dõi trong khoảng thời gian 6 năm. Nồng độ EPA và DHA trong máu được phát hiện là tỷ lệ nghịch với tổng tỷ lệ tử vong.
Cũng nên lưu ý rằng những phát hiện này độc lập với các yếu tố nguy cơ tim mạch tiêu chuẩn và mới xuất hiện, đồng thời à không chịu ảnh hưởng của bất kỳ sự điều chỉnh nào về tuổi tác, giới tính, dân tộc, hoặc thậm chí các dấu hiệu viêm. Các điều tra viên này đã có thể kết luận rằng bệnh nhân có nồng độ axit béo omega-3 trong máu trên mức trung bình có nguy cơ tử vong thấp hơn so với bệnh nhân có mức thấp hơn. Họ cũng kết luận rằng nồng độ omega-3 trong máu giảm là một dấu hiệu nguy cơ độc lập cho tử vong do mọi nguyên nhân ở bệnh nhân động mạch vành. Một sản phẩm axit béo omega-3 khác được nghiên cứu đã giúp giảm thêm 20% tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân ở một nhóm bệnh nhân đau thắt ngực sau nhồi máu cơ tim.
Việc nạp EPA và DHA từ chế độ ăn và thực phẩm bổ sung trong một nhóm 3.081 phụ nữ bị ung thư vú giai đoạn đầu đã được phân tích. Những bệnh nhân có lượng tiêu thụ EPA và DHA cao hơn, so với nhóm tam phân vị có mức tiêu thụ thấp nhất, vừa giảm bớt các biến chứng ung thư vú mới vừa giảm tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân. Các axit béo omega-3 thực sự đã được chứng minh là làm chậm sự phát triển khối u và gây chết tế bào ở nhiều dòng tế bào có nguồn gốc từ ung thư ruột, tuyến tụy, tuyến tiền liệt và vú ở người.
Độ an toàn khi bổ sung axit béo omega-3
Bổ sung axit béo thiết yếu, điển hình là từ dầu cá hoặc dầu từ các nguồn hải sản khác, nói chung là an toàn và được dung nạp rất tốt. Mặc dù không có tác dụng độc hại rõ ràng nào liên quan đến việc nạp EFA, nhưng tác dụng phụ không mong muốn do dùng liều rất cao có thể biểu hiện là sự khó chịu ở đường tiêu hóa và/hoặc tiêu chảy. Một nhóm nghiên cứu đã tìm ra liều dung nạp tối đa EFA từ dầu cá là 0,3g/kg, nghĩa là một người nặng 150 pound (khoảng 68kg) có thể uống tới 21g dầu cá mỗi ngày, có hàm lượng khoảng 13g EPA và DHA. Trong một bài đánh giá các tài liệu xem xét sự an toàn của việc bổ sung axit béo thiết yếu, không có tác dụng phụ nghiêm trọng nào được báo cáo. Các tác dụng phụ nhỏ được báo cáo thường liên quan đến sự khó chịu ở đường tiêu hóa.
Có lẽ mối quan tâm chính đối với việc bổ sung axit béo thiết yếu từ dầu cá là cần phải mua loại dầu cá chất lượng đủ, để không bị ô nhiễm đáng kể các kim loại nặng như thủy ngân và các chất độc khác từ môi trường. Một loại được khuyến nghị cụ thể ở chương 16, dù không phải là loại thực phẩm chức năng từ dầu cá chất lượng tốt duy nhất hiện có.
Những cân nhắc về liều lượng axit béo omega-3
Phạm vi liều EFA từ dầu cá được đề xuất là 1–4g trên tổng hàm lượng EPA và DHA mỗi ngày, nhưng liều cao hơn nếu không gây khó chịu đường tiêu hóa thì vẫn có thể chấp nhận được và có thể mang lại những lợi ích bổ sung. Cùng với những loại thuốc bổ sung khác được khuyến nghị, hầu như mọi người sẽ ổn với liều từ 1–2g mỗi ngày.
Tóm tắt
Các nghiên cứu ở người về bệnh loãng xương, chất lượng xương và nguy cơ gãy xương liên quan đến việc nạp EFA nhìn chung cho thấy hiệu quả tích cực, nhưng không ấn tượng như với vitamin C, vitamin K, vitamin D, magiê và các hormone sinh dục. Tuy nhiên, những tác động của EFA đối với quá trình chuyển hóa canxi và vôi hóa nói chung, cùng với bằng chứng là việc nạp EFA cũng làm giảm tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân, vẫn khiến khuyến nghị bổ sung EFA omega-3 vào phác đồ điều trị loãng xương là một khuyến nghị tốt.