Trước khi qua đời, Steve Jobs nói với người viết tiểu sử của mình, Walter Isaacson, rằng ông muốn dành thời gian còn lại để tiêu diệt Android của Google, hệ điều hành mà ông cho là Eric Schmidt – người được ông mời vào hội đồng quản trị của mình, người được ông coi là bạn thân – đã cố ý sao chép từ iPhone của Apple. “Tôi sẽ chiến đấu đến hơi thở cuối cùng nếu cần, và tôi sẽ bỏ ra đến đồng xu cuối cùng trong 40 tỷ đô-la của Apple trong ngân hàng để chỉnh đốn lại việc này. Tôi sẽ phá hủy Android, vì đó là một sản phẩm ăn cắp”, Jobs quả quyết.
Rõ ràng ông đã không có cơ hội làm điều đó, dù chắc chắn là ông đã không ngừng đệ đơn kiện Google về việc vi phạm bằng sáng chế, nhưng vô ích. (Hai công ty cuối cùng đã đi đến thỏa thuận vào năm 2014, như một kiểu đình chiến.) Tính đến quý đầu tiên của năm 2018, hệ điều hành Android của Google đã chạy trên 86% điện thoại thông minh trên toàn thế giới, vượt khá xa iOS của Apple, dù iPhone vẫn kiếm tiền rất tốt.
Tuyên bố của Jobs có thể hơi khoa trương nhưng không phải là không có cơ sở. Sự thật là Eric Schmidt từng là thành viên hội đồng quản trị của Apple (chính xác là ông đã giữ vị trí đó trong nhiều năm, kể cả sau khi ông gia nhập Google vào năm 2001 với tư cách giám đốc điều hành). Và rõ ràng là ông tiếp thu một số ý tưởng hay từ Apple. Android được phát triển trong những năm đó và xét trên nhiều phương diện, nó gần như giống hệt hệ điều hành iOS của Apple. Thật là một sự trùng hợp lạ lùng khi sau đó Schmidt đã bị sa thải khỏi hội đồng quản trị của Apple vào năm 2009.
Song, “vay mượn” ý tưởng của đối thủ cạnh tranh cũng không hẳn là điều mới lạ trong thế giới công nghệ. Ví dụ, vào năm 2003, Facebook đã mua lại công ty khởi nghiệp về an ninh mạng của Israel tên là Onavo để theo dõi hoạt động của các đối thủ cạnh tranh và sao chép bất cứ thứ gì có khả năng tạo ra lợi nhuận. Đó là một hệ thống cảnh báo “sớm” trong nội bộ ngành, có thể báo động cho Facebook biết về những đối thủ khởi nghiệp đang hoạt động tốt, đồng thời cung cấp cho Facebook những thông tin chi tiết đến bất thường về những gì người dùng đang làm trên nền tảng của đối thủ.
Về bản chất, Onavo là một dạng gián điệp hợp pháp ở cấp độ doanh nghiệp, nó mang về những thông tin tình báo mà Facebook có thể sử dụng để làm suy yếu đối thủ cạnh tranh hiện tại, đồng thời loại bỏ vô số dự án kinh doanh đang còn trong giai đoạn thai nghén. Ví dụ, vào năm 2016, Facebook bắt đầu chú ý đến Snapchat, công ty đối thủ trở nên vô cùng phổ biến trong giới trẻ. Đặc điểm nổi bật nhất của Snapchat là tính tạm thời (thay vì được hiển thị trên “tường” mãi mãi, các tin nhắn gửi qua Snapchat sẽ tự động biến mất ngay sau khi được đọc) và các hiệu ứng động (người dùng có thể thêm vào hình ảnh của chính họ tai và râu mèo). Thật trùng hợp (hoặc không) khi đúng vào thời điểm này, công ty Instagram của Facebook tung ra một tính năng gọi là Stories (Câu chuyện) với các điểm đặc trưng tương tự của Snapchat. Đầu năm 2019, Facebook thông báo sẽ đóng cửa “quả cầu tiên tri” kỹ thuật số Onavo, sau khi tạp chí TechCrunch đăng bài cáo buộc Facebook đã trả tiền dưới dạng thẻ quà tặng trị giá 20 đô-la để dụ dỗ trẻ em và thiếu niên cài đặt một ứng dụng gián điệp trên điện thoại của chúng.
*
Tất cả những sự kiện trên đều được những tác giả như London Levy, Ken Auletta hay Walter Issacson đề cập chi tiết trong sách của họ. Nhưng điều quan trọng ở đây là sự tương đồng giữa Android với iOS chắc chắn đã cho ta thấy rõ Google sẵn sàng đi lệch hướng đến mức nào so với những lý tưởng ban đầu họ từng có. Đầu những năm 2000, khi Google tiến dần đến những khoản lợi nhuận hiển nhiên của ngày IPO – giấc mơ của mọi doanh nhân cũng như nhà đầu tư ở Thung lũng Silicon – dường như công ty này không còn lý do gì để giả vờ rằng họ là một thứ gì khác ngoài một công ty “thủy quái”, đang tìm cách kiếm tiền bằng mọi giá để chuẩn bị ra mắt trên thị trường đại chúng. Còn câu triết lý nổi tiếng “Đừng trở nên xấu xa” của họ thì sao? “Thật là nhảm nhí”, Jobs nói.
Sự thay đổi ý thức hệ của Google được thể hiện rõ rệt nhất khi họ tuyển dụng Schmidt vào năm 2001. Thời điểm đó, Google vẫn đang phát triển mô hình quảng cáo và vẫn chưa nhận thức rõ mô hình này có thể trở thành một mỏ vàng. Các nhà đầu tư cảm thấy hai “cậu nhóc” thiên tài của công ty cần có sự giám sát của “người lớn” – một nhà quản lý cứng rắn có thể biến những ý tưởng xuất sắc của công ty thành giá cổ phiếu tăng vọt. Page và Brin táo bạo đề xuất với các nhà đầu tư rằng Steve Jobs là ứng cử viên duy nhất mà họ sẽ cân nhắc, nhưng các nhà đầu tư đã nói rõ rằng hai anh chàng này đang hoang tưởng khi nghĩ rằng họ có thể mời vào ban quản trị một người như Jobs, một huyền thoại xoay chuyển tình thế vốn đang điều hành hai công ty đại chúng. Họ cần một người nào đó thông minh và hiểu biết, nhưng đủ khiêm tốn để đóng vai ca sĩ dự bị cho hai nhà sáng lập – hoặc ít nhất là không mong đợi bản thân trở thành một ngôi sao. Đó là khi đối tác nổi tiếng John Doerr đến từ công ty Kleiner Perkins gợi ý mời Eric Schmidt, người đang là giám đốc điều hành của công ty mạng Novell và trước đó là giám đốc công nghệ của Sun Microsystems. Schmidt lúc này đã ngoài bốn mươi tuổi. Ông mặc vét. Ông hiểu rõ những điểm mấu chốt. Ông đồng thời cũng là một kỹ sư thực thụ, một người có thể nói cùng ngôn ngữ với hai nhà sáng lập.
Như nhiều nhân vật trong giới tinh hoa ở Thung lũng Silicon, Schmidt lớn lên trong một gia đình khá giả ở Thành phố Falls Church, bang Virginia. Mẹ ông là một nhà tâm lý học, còn cha ông là giáo sư của Đại học Johns Hopkins. Tiếp bước những người trong phả hệ của mình, Schmidt trở thành một sinh viên xuất sắc, giành được đến tám giải thưởng ưu tú trong các hoạt động thể thao cũng như khoa học ở trường, và tốt nghiệp Đại học Princeton với bằng kỹ sư điện. Sau đó ông lấy bằng Thạc sĩ và Tiến sĩ tại Đại học California, Thành phố Berkeley. Schmidt là một người đam mê công nghệ, từng làm lập trình viên tại Bell Labs và Xerox PARC thuở mới vào nghề. Nhưng đồng thời, ông cũng có sự nhạy bén trong kinh doanh và các kỹ năng xã hội (ít nhất là so với phần còn lại ở Thung lũng) cần thiết cho việc quản lý. Vì thế, ông nhanh chóng thăng tiến tại Sun Microsystems, nơi ông bắt đầu ở vị trí quản lý phần mềm vào năm 1983.
Sun Microsystems có một nền văn hóa chuyển động nhanh, biết tận dụng phong trào phần mềm “mã nguồn mở”, nghĩa là đưa mã nguồn lên một nền tảng mở và cho phép các nhà lập trình chia sẻ công việc hoặc ý tưởng nhằm nhanh chóng mở rộng hệ sinh thái của công ty. Mã nguồn mở có thể mang đến nhiều lợi ích. Nhiều nhà kinh tế và chuyên gia công nghệ cho rằng nó có vai trò thiết yếu đối với sự sáng tạo và tăng trưởng kinh tế, vì nó cho phép các doanh nhân công nghệ phát triển dựa trên ý tưởng của nhau, hoàn toàn trái ngược với cách tiếp cận “kín cổng cao tường” của Apple. Tuy nhiên, mã nguồn mở cũng có thể gây khó khăn cho các công ty trong việc bảo vệ tài sản trí tuệ của họ. Điều này đã trở thành một vấn đề nổi cộm nhiều năm sau đó, khi những gã khổng lồ công nghệ như Google hay Apple bắt đầu vận dụng sức mạnh của họ để định hình lại hệ sinh thái sáng tạo cho phù hợp với các mục tiêu chiến lược của riêng họ.
SCHMIDT CHI PHỐI WASHINGTON
Trong vòng một năm sau khi đến Google, Schmidt đã xây dựng được một đội ngũ và phát triển một mô hình kinh doanh thành công. Vấn đề tiếp theo cần giải quyết là bảo vệ mô hình kinh doanh đó. Công cụ tìm kiếm của Google rất ấn tượng; nhưng nếu muốn tiếp tục kiếm tiền từ dữ liệu mà nó tạo ra, công ty cần đảm bảo rằng nó luôn miễn phí, dễ truy cập, không bị cản trở bởi bản quyền, quy tắc bảo mật hay bất cứ loại tài sản trí tuệ nào được cấp bằng sáng chế có khả năng gây khó khăn cho Google trong việc nắm bắt nhiều lưu lượng truy cập nhất có thể. Điều đó đòi hỏi một chiến lược rõ ràng về mặt pháp lý và quy định, cũng như một nhóm luật sư và các nhà vận động hành lang (chính thức và không chính thức) để đệ trình những nguyện vọng của Google lên các nhà lập pháp ở Washington. Vì vậy, Schmidt, Page, Brin và một vài người trong cuộc khác bắt đầu phỏng vấn các ứng cử viên cho vị trí lãnh đạo bộ phận pháp chế của công ty.
Lúc này, bức tranh tổng thể có thêm sự góp mặt của Peter Harter, một nhà vận động hành lang hàng đầu cho Thung lũng Silicon, người trước đó từng lãnh đạo bộ phận pháp chế của công ty dịch vụ máy tính Netscape và giúp công ty này thành công trong các vụ kiện chống độc quyền chống lại Microsoft. Harter là một luật sư chuyên về sở hữu trí tuệ và là một người trong ngành công nghệ, nhưng đồng thời ông cũng hiểu về chính trị. Ông là người đi đầu khi thế hệ công nghệ trước Big Tech chuẩn bị “chiến đấu” với hệ thống pháp lý và cũng là người có quan hệ rộng ở cả Washington lẫn Thung lũng Silicon. Harter từng làm việc với Eric Schmidt để vận động hành lang về các vấn đề liên quan đến quy định kiểm soát xuất khẩu phần mềm mã hóa khi Schmidt còn là giám đốc công nghệ ở Sun Microsystems, và sau đó là về các vấn đề chống độc quyền khi Schmidt làm tại Novell. Khi còn công tác tại Netscape, Harter từng làm việc với luật sư Kent Walker, người mà ông gọi là “kẻ dọn bãi chiến trường” tại Google. Không những thế, Harter cũng từng đồng hành với người trong nội bộ Google như David Drummond, cố vấn bên ngoài đầu tiên và đang là giám đốc pháp chế của gã khổng lồ công nghệ này. Sau khi rời Netscape, Harter đã tự thành lập một công ty chuyên tư vấn các vấn đề liên quan đến quy định của chính phủ và có một danh sách dài các khách hàng, trong đó có cả những công ty danh tiếng như Microsoft. Tôi biết Harter là một kẻ bảo thủ không biết hối lỗi – kiểu người sẽ chế nhạo (tất nhiên là theo một cách hài hước) những người ăn chay và người theo chủ nghĩa tự do giả tạo – nhưng ông cũng là người sẵn sàng làm việc cho bất kỳ ai có đủ khả năng chi trả cho mình. Vì vậy vào năm 2002, khi một nhà điều hành của Google tên là Omid Kordestani gọi đến và ngỏ ý mời Harter tham gia cuộc thảo luận về các vấn đề liên quan đến quyền riêng tư có thể gây hại cho mô hình của Google, ông đã bị hấp dẫn.
Harter hào hứng nhận lời mời đến Googleplex – một khuôn viên rộng lớn ở Thành phố Palo Alto, được đầu tư tốt hơn nhiều so với nhiều trường đại học ở East Coast – để gặp Schmidt, Page, Brin cùng một số nhà điều hành khác, họp liên tục nhiều ngày. Harter cho biết: “Google tìm cách đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng doanh thu và có được mức định giá IPO tốt nhất. Chúng ta bắt đầu thấy sự ra đời của điện thoại thông minh, video trực tuyến, rất nhiều mã nguồn mở, và hoạt động chia sẻ ngang hàng (peer-to-peer) được hiện thực hóa nhờ nền tảng chia sẻ nhạc Napster34”. Harter nhận định: “Khi nhìn vào vụ kiện Napster, Google có thể dễ dàng nhận thấy họ cần một lộ trình gia tăng sức ảnh hưởng ở Washington để vượt qua bất kỳ sự phản đối nào”.
34 Napster là dịch vụ chia sẻ âm nhạc được khởi xướng bởi Sean Parker – người sau này là chủ tịch sáng lập Facebook – cuối cùng bị đóng cửa vì vi phạm bản quyền.
Harter hiểu rằng để đảm bảo quyền lợi của họ, Google cần hạ tiêu chuẩn về tài sản trí tuệ và ưu tiên quyền truy cập dữ liệu người dùng; và theo lời chia sẻ của nhiều người khác, nhân viên của Google cũng hiểu điều đó. Trên thực tế, đó là một trong những lợi thế cạnh tranh chính của họ. Như Shoshana Zuboff đã đề cập trong quyển The Age of Surveillance Capitalism (tạm dịch: Thời đại của chủ nghĩa tư bản giám sát), Page, Brin và Schmidt (cùng với Hal Varian) là những người đầu tiên ở Thung lũng Silicon nắm bắt được khái niệm “thặng dư hành vi”, theo đó trải nghiệm của con người bị xem như tư liệu sản xuất trong cơ chế thị trường của chủ nghĩa tư bản giám sát để tạo thành ‘hành vi’. Nói một cách đơn giản, điều này có nghĩa là mọi thứ chúng ta làm, nói và nghĩ – trên không gian mạng và trong nhiều trường hợp là ngoài đời thực – đều có nguy cơ bị các công ty nền tảng sử dụng để kiếm tiền. Tất cả hoạt động của con người – từ những bài đăng, video đến sách báo và các phát minh của chúng ta – đều có nguy cơ bị biến thành nguyên liệu thô để Big Tech thương mại hóa. Trong sách, Zuboff viết: “Google trong chủ nghĩa tư bản giám sát cũng giống như Ford hay General Motors trong chủ nghĩa tư bản dựa trên hàng hóa được sản xuất hàng loạt”. Hầu như mọi thứ chúng ta làm đều có thể được khai thác bởi những gã khổng lồ nền tảng, nhưng chỉ khi họ có thể giữ cho các thông tin luôn miễn phí. Điều này có nghĩa là họ khiến giá trị của dữ liệu cá nhân luôn không rõ ràng, phớt lờ vấn đề bản quyền nội dung hoặc làm cho các loại tài sản trí tuệ khác trở nên khó bảo vệ hơn.
Những điều Zuboff viết hoàn toàn khớp với những gì Harter chia sẻ với tôi về cuộc họp của ông ở Googleplex. Ông nói thời điểm đó, Schmidt, Page và Brin đã suy nghĩ rất nhiều về những vấn đề như chính sách chống độc quyền, bản quyền, chia sẻ tập tin và quyền riêng tư. “Một trong những câu hỏi được đặt ra là: Làm thế nào để tránh được những gì đã xảy ra với Napster?”. Ông tóm lược chiến lược mà ông nghĩ Google nên thực hiện nếu muốn bảo vệ tốt nhất lợi ích của công ty: chi thật nhiều tiền vào việc gia tăng sức mạnh vận động hành lang để đảm bảo Google sẽ không phải trả tiền cho tài sản trí tuệ và các nội dung mà mô hình tìm kiếm của công ty đang kiếm tiền từ đó, và đấu tranh để duy trì các quy định miễn trừ để không phải chịu trách nhiệm về những gì người dùng làm trên nền tảng của họ. “Tôi nói với họ: ‘Về cơ bản, các anh phải vận động hành lang mạnh hơn những bên khác, chuẩn bị sẵn sàng cho các vụ kiện tụng và tạo nền tảng để chống đỡ cho các vụ kiện đó trên các phương tiện truyền thông, trong chính sách và cộng đồng chính trị’. Tôi nhớ Eric đã gật đầu và nói: ’Tôi nghĩ điều đó nghe có vẻ hợp lý’”. Đáng buồn (hoặc có lẽ không) cho Harter, ông đã không trở thành giám đốc chính sách công của Google. Cuối cùng vào tháng Một năm 2004, vị trí này đã thuộc về Andrew McLaughlin, người sau đó đã làm việc cho Tổng thống Obama với tư cách phó giám đốc công nghệ Hoa Kỳ. (Một đại diện PR của phía Google từng nói với tôi rằng họ “không nhớ” nội dung của toàn bộ cuộc họp.) Nhưng Harter thì nói: “Những gì họ triển khai sau này về cơ bản chính là chiến lược mà chúng tôi đã thảo luận vào ngày hôm đó”.
NGƯỜI SÁNG TẠO VÀ NGƯỜI ỨNG DỤNG
Google, Apple, Facebook và những ông trùm công nghệ khác thường tự định vị mình trong các cuộc tranh luận công khai là “những người sáng tạo”, và điều đó đúng ở một thời điểm nào đó. Như chúng ta đã thấy, vào thời điểm các công ty này lên sàn, hầu hết những sáng tạo đột phá nhất và hữu ích nhất của họ đều trở thành chuyện của quá khứ. Sau IPO, cuộc chơi của họ chỉ còn thiên về ứng dụng công nghệ – cả của họ lẫn của người khác – để đạt được lợi thế về mô hình kinh doanh. Trong lĩnh vực công nghệ cũng như trong hầu hết các lĩnh vực khác, việc trả tiền càng ít càng tốt để tiếp cận những dữ liệu và tài sản trí tuệ chất lượng nhất đã trở thành mục đích duy nhất. Một trong những cách mà Google và các công ty Big Tech khác đã thực hiện để đạt được lợi thế về tài sản trí tuệ là thúc đẩy một cuộc đại tu trong hệ thống bằng sáng chế đã được áp dụng hơn ba mươi năm của Hoa Kỳ. Cuộc vận động hành lang của các gã trùm công nghệ đạt đỉnh điểm vào năm 2011 khi Luật Sáng chế Mỹ (America Invents Act – AIA) được thông qua.
Để hiểu tầm quan trọng của sự kiện đó, bạn cần hiểu cách hoạt động của luật sáng chế đã bảo vệ những nhà sáng tạo trước đó. Hãy tưởng tượng bạn là người sáng lập một công ty công nghệ sinh học nhỏ ở Mỹ. Bạn đã bỏ ra hàng triệu đô-la và dành nhiều năm để phát triển một bộ xét nghiệm chẩn đoán bệnh huyết học mới. Bạn sắp tạo nên một cuộc cách mạng trong lĩnh vực của mình. Nhưng sau khi AIA được thông qua, bạn khó có được bằng sáng chế cho phát minh có tiềm năng thay đổi cục diện của mình hơn, vì hệ thống các quy định từng có thể bảo vệ phát minh của bạn đã có sự thay đổi về danh sách những gì có thể và không thể được cấp bằng sáng chế, cũng như về cách mà những nhà sáng tạo được phép bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của họ.
Ví dụ, sau khi AIA được thông qua, dù bằng sáng chế đã được cấp, nhưng quyền sử dụng chúng vẫn có thể bị thách thức trong một hệ thống phân xử không có tòa án, tạo điều kiện cho các công ty khác nhanh chóng làm mất hiệu lực quyền sở hữu trí tuệ của bạn. Khi không thể kiếm tiền đơn thuần từ khoản đầu tư của mình, nhiều công ty nhỏ, các nhà phát minh và những nhà sáng tạo bắt đầu chuyển tiền cùng ý tưởng của họ sang những nơi khác, chẳng hạn như châu Âu và một số khu vực của châu Á. Các nhà cung cấp và nhân tài cũng bắt đầu chuyển đến đó. Dù tình trạng này không bắt nguồn từ một vấn đề duy nhất, nhưng tôi đã nghe nhiều nhà đầu tư, doanh nhân, học giả, giới vận động hành lang và luật sư ở Mỹ – kể cả một số người đã góp phần tạo ra AIA – nhận định rằng hệ thống luật sáng chế của Hoa Kỳ đã thay đổi sai hướng. Theo họ, trong hơn mười lăm năm qua, nó đã chuyển từ một hệ thống được cho là quá tích cực trong việc cấp bằng sáng chế, sang một hệ thống mà những bộ óc hàng đầu của đất nước không thể kiếm tiền từ các nghiên cứu của họ nữa. Tất nhiên, tình trạng này có thể gây những hậu quả nghiêm trọng đối với khả năng cạnh tranh của Hoa Kỳ trong một thế giới mà hầu hết các giá trị kinh tế đều nằm ở tài sản trí tuệ.
Những thay đổi này vốn đã nhen nhóm từ mười năm trước đó theo nhiều cách khác nhau. Từ trước cả khi AIA được thông qua, Tối cao Pháp viện đã đưa ra hàng loạt phán quyết như trong vụ eBay với MercExchange năm 2006, Mayo Collaborative Services với Prometheus Laboratories năm 2012 và Alice Corp với Ngân hàng CLS năm 2014. Những phán quyết đó khi kết hợp với AIA sẽ khiến bằng sáng chế ở Hoa Kỳ trở nên khó lấy hơn và cũng khó bảo vệ hơn đối với các công ty không có sức mạnh pháp lý và vận động hành lang. Có lẽ vì vậy mà nhiều công ty hiện nay thường than phiền về cái gọi là “sự xâm phạm hiệu quả”: các đối thủ lớn hơn đơn giản là sao chép hoặc cuỗm mất tài sản trí tuệ mà họ muốn, sau đó thỏa thuận với chủ sở hữu tài sản ở bên ngoài tòa án và chi trả mức giá thấp hơn giá trị trọn vẹn của tài sản trí tuệ đó. Có rất ít công ty tiếp tục theo đuổi công trình của họ vì sợ bị cộng đồng công nghệ tẩy chay.
Làm thế nào mà chúng ta lại rơi vào tình thế này? Quay lại đầu những năm 2000, khi bong bóng dot-com đổ vỡ, nhiều công ty không còn sở hữu tài sản nào có giá trị ngoại trừ bằng sáng chế của họ; loại tài sản này sau đó được mua lại bởi các công ty tài chính hoặc tổ chức công nghệ lớn hơn nhằm cố gắng sinh lời từ chúng. Cùng lúc đó, hệ sinh thái do các nhà cung cấp phần mềm tạo ra cho thị trường điện thoại thông minh và Internet thương mại bắt đầu mở rộng. Việc gây khó khăn cho quyền xin cấp và bảo vệ bằng sáng chế là một giải pháp tuyệt vời đối với Big Tech, vì dù những công ty này tất nhiên cũng có tài sản trí tuệ riêng cần bảo vệ, nhưng họ cũng đang ngày càng kiếm được nhiều tiền hơn từ dữ liệu và tài sản trí tuệ do những người khác tạo ra. Phần lớn các công ty nhỏ cũng có những ý tưởng và công nghệ hợp pháp cần được bảo vệ. Nhưng đồng thời, cũng có một số “kẻ lừa đảo bằng sáng chế” chỉ tập trung chơi trò kinh doanh pháp lý, nộp càng nhiều bằng sáng chế càng tốt để khiến các công ty lớn phải trả tiền cho họ để sử dụng các công nghệ họ đã đăng ký sở hữu.
Thời điểm Barack Obama nhậm chức vào năm 2009, câu chuyện lừa đảo bằng sáng chế đang bùng nổ. Đó là câu chuyện đã được đẩy đến đỉnh điểm bởi nhiều công ty Big Tech, những tổ chức vừa tự tác động vừa sử dụng các đơn vị vận động hành lang để thúc đẩy dự luật về bằng sáng chế. Luật này thành lập một cơ quan phân xử ngoài tòa án: Hội đồng Kháng nghị và Xét xử Bằng sáng chế. Ý tưởng ban đầu là để tiết kiệm thời gian và tiền bạc bằng một quy trình phân xử không thông qua tòa án. Trên thực tế, các vấn đề về bằng sáng chế trước kia phải mất ba năm với chi phí trung bình 2 triệu đô-la để giải quyết giờ chỉ mất mười tám tháng và tốn khoảng 200.000 đô-la. Cuộc tranh luận về những kẻ lừa đảo bằng sáng chế ngày càng có vẻ như chưa từng tồn tại. Nhưng các tập đoàn công nghệ lớn nhất, đặc biệt là Google, đã vận động rất mạnh để có thêm những quy định chống bằng sáng chế vào năm 2013. Những công ty ủng hộ đạo luật bổ sung này cho rằng nó sẽ loại bỏ những sai lệch pháp lý xung quanh các vấn đề như địa điểm phân xử, từ đó cắt giảm chi phí kiện tụng.
Nhưng một số nhà quản lý và lập pháp ban đầu ủng hộ cuộc cải cách bằng sáng chế đã bắt đầu cảm thấy toàn bộ quá trình này đang bị lợi dụng để thúc đẩy một chương trình chống cạnh tranh được thực hiện bởi Big Tech. David Kappos, người từng là chủ tịch Văn phòng Sáng chế và Thương hiệu Hoa Kỳ (United States Patent and Trademark Office – USPTO) dưới thời Obama (người đã thông qua vòng pháp lý đầu tiên của AIA) và lúc bấy giờ đang là luật sư của Cravath, Swaine & Moore, cho biết: “Thật sốc khi thấy người trong ngành công nghệ quyết liệt kêu gọi vòng thứ hai về luật cấp bằng sáng chế ngay sau tất cả những gì chúng ta vừa làm với AIA và thậm chí trước cả khi AIA có hiệu lực”. Công bằng mà nói, Kappos là đại diện của Qualcomm và cũng là một trong những người chỉ trích hệ thống hiện tại – những quy định chỉ vừa giải quyết xong một cuộc tranh chấp bằng sáng chế kéo dài nhiều năm ở ba châu lục giữa Qualcomm với Apple. Nhưng ông và công ty pháp lý ông làm việc cũng đại diện cho cả những khách hàng ở phía còn lại của cuộc tranh luận. Ông kết luận: “Đến cuối cùng, mục đích thật sự của chương trình đã lộ ra. Đợt cắt giảm mạnh mẽ thứ hai này đối với hệ thống bằng sáng chế là một mưu đồ thương mại, được thiết kế không phải để ngăn chặn lạm dụng mà là để cắt giảm chi phí chuỗi cung ứng bằng cách làm giảm giá trị phát minh của người khác”.
Đạo luật mới sau cùng đã được đưa ra Quốc hội. Cùng thời điểm đó, cựu giám đốc tài sản trí tuệ Michelle Lee của Google cũng tiếp quản vị trí người đứng đầu USPTO. Năm 2013, Nhà Trắng đưa ra một báo cáo đáng báo động về sự lộng hành của những kẻ lừa đảo bằng sáng chế và tác động phá hoại của họ, đổ trách nhiệm cho họ là đã gây ra đến 2/3 số vụ kiện bằng sáng chế. Tuy nhiên, nghiên cứu sau đó do Văn phòng Trách nhiệm Chính phủ phi đảng phái thực hiện đã điều chỉnh con số đó thành 1/5, đồng thời đưa ra các dữ liệu cho thấy số người bị kiện về bằng sáng chế gần như không đổi trước và sau AIA. Trong một bài nghiên cứu năm 2013 có tựa đề Trolls and Other Patent Inventions (tạm dịch: Những trò lừa đảo và các phát minh khác về bằng sáng chế), giáo sư Zorina Khan của Đại học Bowdoin viết: “Xu hướng lịch sử về tỷ lệ kiện tụng so với số bằng sáng chế được cấp rõ ràng không củng cố các tuyên bố rằng việc kiện tụng trong những thập niên qua đã ‘bùng nổ’ trên mức bình thường về dài hạn”. Hơn nữa – cô lập luận – một số thay đổi về pháp lý dường như chỉ nhằm giải quyết “nhu cầu phù du của các nhóm lợi ích cứng rắn nhất tại một thời điểm” và “không nhất quán với các nguyên tắc cơ bản của hệ thống sở hữu trí tuệ Hoa Kỳ”.
Thật vậy, một số người cho rằng hệ thống phân xử bằng sáng chế đã trở thành lá chắn cho những người bị buộc tội vi phạm bằng sáng chế. Hầu hết các phán quyết đều chống lại chủ sở hữu bằng sáng chế, và điều này khiến Randall Rader – cựu thẩm phán của Tòa Phúc thẩm Liên bang nơi phụ trách các kháng nghị về bằng sáng chế – gọi đó là “biệt đội tử thần” của tài sản trí tuệ. Một thẩm phán khác của Tòa án Liên bang hiện đã nghỉ hưu là Paul Michel cũng kịch liệt phản đối hệ thống này, ông cho rằng sự lược bỏ quá mức các quy định và việc hội đồng phân xử thay thế tòa án đưa ra các phán quyết đang hút cạn cả sức mạnh của hệ thống bằng sáng chế lẫn khả năng cách tân của Mỹ. Trước những gì mà ông và những người khác cho là hoạt động vận động hành lang của các công ty công nghệ lớn, ông nói: “Hiệu ứng [chống bằng sáng chế] tích lũy qua các phán quyết của Tối cao Pháp viện khi kết hợp với AIA đã có tác động lớn hơn mong đợi. Giá trị của bằng sáng chế đang lao dốc, hoạt động cấp phép và đầu tư vốn vào nhiều công nghệ đang suy giảm. Luật AIA đã gây hại nhiều hơn là lợi”.
Tôi không thể đếm xuể trong số những nhà công nghệ và đầu tư mạo hiểm tôi từng tiếp xúc những năm gần đây, có bao nhiêu người nói rằng họ đơn giản sẽ không đầu tư vào các lĩnh vực mà Google hoặc Facebook hoặc Amazon hoặc Apple có khả năng tham gia, vì họ không muốn phải đối mặt với những vấn đề nan giải trong việc bảo vệ công nghệ mã nguồn mở và/hoặc bảo vệ bằng sáng chế của mình trước các gã trùm này – những công ty chắc chắn có nhiều thời gian hơn và nắm rõ cơ chế pháp lý hơn họ. Như nhà công nghệ Jaron Lanier nhận xét, hầu như mọi tài sản sinh lời cao nhất – như thuật toán PageRank của Google hay hệ sinh thái khép kín của iPhone – luôn thuộc sở hữu độc quyền thay vì thuộc về cộng đồng. “Mặc dù phương pháp tiếp cận mở có thể tạo ra những bản sao thú vị và bóng bẩy, nhưng nó lại không được tốt như vậy đối với việc tạo ra các bản gốc đáng chú ý”, Lanier nói về thực tế mà Big Tech tận dụng mã nguồn mở để gia tăng khả năng kiếm lợi nhuận từ sự sáng tạo của người khác, nhưng hiếm khi cho phép đối thủ cạnh tranh tiếp cận các mã nguồn đang mang đến sức mạnh cho công nghệ chủ chốt của chính họ.
Tương tự, Gary Lauder – nhà đầu tư mạo hiểm là hậu duệ của đại gia ngành mỹ phẩm Estée Lauder – từng chia sẻ với tôi: “Bạn cần một hệ thống bằng sáng chế có thể đảm bảo những hành vi phù hợp, có nghĩa là một hệ thống buộc những người ứng dụng sản phẩm sáng tạo phải trả tiền cho những nhà sáng chế chứ không được sao chép hoặc ăn cắp chúng”. Là người từng rót hơn nửa tỷ đô-la tài trợ cho gần một trăm công ty và sáu mươi quỹ đầu tư mạo hiểm trong hơn hai mươi tám năm qua, trong đó có cả GoTo/Overture (công ty đấu giá trực tuyến đã bị Google sao chép ý tưởng mà chúng ta tìm hiểu ở Chương 2), Lauder đã công khai kêu gọi chính phủ thiết lập một hệ thống bằng sáng chế mạnh mẽ hơn. “Chúng ta cần bảo vệ hệ sinh thái khởi nghiệp rộng lớn hơn, nơi đang tạo ra phần lớn việc làm. Đó là một vấn đề thiết yếu đối với nền kinh tế của chúng ta. Hiện tại, những người ứng dụng đang sao chép những nhà sáng tạo. Sau này, cả hai sẽ bị sao chép và thay thế bởi những thứ hàng nhái rẻ tiền của nước ngoài.”
THÔNG TIN PHẢI ĐƯỢC “MIỄN PHÍ”
Bên cạnh bằng sáng chế, có một loại sáng tạo khác đang bị Big Tech thương mại hóa: những nội dung mà các nghệ sĩ, nhà văn, nhà làm phim và nhiều người khác tạo ra để kiếm sống. Hãy xem xét các chiến thuật Big Tech đã triển khai để làm suy yếu luật bản quyền – rào cản có thể ngăn chặn sự phát triển của bất kỳ công ty Big Tech nào đang kiếm được rất nhiều từ các nội dung sáng tạo nhưng lại không phải là người tạo ra nội dung đó. Trên thực tế, Google, Facebook và những tay chơi lớn khác trong mảng nền tảng là những bên hưởng lợi chính từ Đạo luật Bản quyền Thiên niên kỷ Kỹ thuật số (Digital Millennium Copyright Act – DMCA). Được Bill Clinton ký vào năm 1998, đạo luật này bảo vệ các nhà cung cấp dịch vụ trực tuyến khỏi nguy cơ bị truy tố trách nhiệm vì vi phạm bản quyền, nếu nhà cung cấp không biết gì về hành vi vi phạm. Không có gì ngạc nhiên khi DMCA được ủng hộ bởi nhiều chính trị gia và người theo chủ nghĩa tự do tại California mà các nhóm lợi ích ở Thung lũng Silicon đang âm thầm tài trợ.
Về cơ bản, DMCA cho phép các nền tảng “bắt nạt” những người sáng tạo nội dung (thật ra là bất kỳ ai đưa nội dung lên mạng), buộc họ phải từ bỏ những sản phẩm của mình một cách miễn phí nếu muốn người khác có thể tìm thấy chúng trên các nền tảng lớn nhất, đồng thời chấp nhận thực tế rằng các nền tảng sẽ là những bên hưởng lợi chính từ nội dung của họ về mặt tiền bạc theo cấp số nhân. Suy cho cùng, giống như không một nhà phát minh nhỏ nào có bằng sáng chế có thể đấu lại Big Tech, một nhà văn hay nhạc sĩ cũng không thể tự mình tiến hành một cuộc chiến pháp lý để cố gắng thu tiền bản quyền từ những ông lớn như Facebook hay Google. Thậm chí, họ cũng khó có thể hiểu các công ty này đã kiếm được bao nhiêu tiền khi liên kết các nội dung và dẫn dắt các đơn vị quảng cáo đến nội dung đó như một phần trong mô hình kinh doanh mạng xã hội và tìm kiếm của họ.
Ví dụ, hãy xem xét cuộc chiến kéo dài hàng chục năm giữa Google với vô số tác giả và nhà xuất bản về dự án Google Print – sau này được đổi tên thành Google Books. Việc sao chụp (scan) từng trang của từng quyển sách trên thế giới từ lâu đã là nỗi ám ảnh của Page và Brin – xét cho cùng, đó là một tham vọng điển hình tầm cỡ Google. Hai nhà sáng lập này biết rằng phần lớn sách trên thế giới đều được bảo vệ bản quyền trước việc sao chép và phân phối trái phép. Nhưng giống như thường lệ, các thành viên Google cảm thấy những quy tắc phiền phức như vậy không áp dụng với họ. Thêm vào đó, họ cũng không thể hiểu tại sao lại có người nghĩ rằng việc các tác giả kiếm tiền từ sách lại tốt hơn là toàn thế giới có thể truy cập thông tin miễn phí. Với những lý do như vậy, vào năm 2002, họ bí mật bắt đầu dự án scan sách. Trong quyển In the Plex, nhà báo công nghệ Steven Levy đã dành hẳn 20 trang để nói về dự án này: “Sự bí mật là một biểu hiện khác của sự nghịch lý trong một công ty lúc thì tin vào sự minh bạch lúc lại hành động chẳng khác gì Cơ quan An ninh Quốc gia”. Đến thời điểm đó, Schmidt vốn đã xác định “cái xấu là những gì Sergey nói là xấu” và hoàn toàn ủng hộ dự án mà ông tuyên bố là “tuyệt vời” đó.
Nhưng ngành xuất bản không đồng tình với Schmidt. Năm 2005, một số nhà xuất bản với sự đại diện của Hiệp hội Nhà xuất bản Hoa Kỳ đã đệ đơn kiện Google về hành vi “sao chép hàng loạt và có hệ thống toàn bộ sách được bảo vệ bản quyền”. Không lâu sau đó, Hiệp hội Tác giả cũng đâm đơn kiện, và hai vụ kiện được gộp lại thành một. Cũng dễ hiểu khi các nhà xuất bản và các tác giả muốn tác phẩm của họ vẫn được bảo vệ bản quyền và họ được quyền chọn tham gia hoặc không tham gia dự án sách của Google. Nhưng trưởng ban kinh tế Hal Varian của Google lý luận rằng điều đó sẽ hủy hoại toàn bộ dự án vốn phụ thuộc vào số đầu sách được scan. Khoảng 75% số sách mà Google nhắm đến vẫn còn hiệu lực bản quyền, và Varian cũng như các thành viên khác của Google biết rằng nhiều – thậm chí là hầu hết – tác giả có thể sẽ không muốn tham gia.
Sau cùng, hai bên quyết định dàn xếp: Google cam kết chỉ hiển thị một số đoạn trích trong những quyển sách có bản quyền, đổi lại họ sẽ trở thành đơn vị phân phối độc quyền phiên bản kỹ thuật số của những đầu sách đã ngừng ấn hành. Google – thời điểm đó đang kiếm được khoảng 10 tỷ đô-la doanh thu hằng năm – chỉ phải trả 125 triệu đô-la để lập một tổ chức đăng ký quyền sở hữu sách cũng như để thuê luật sư tổ chức hệ thống và thu xếp các khoản thanh toán. Đây thật sự là một “cuộc xoay chuyển ngoạn mục” của Big Tech. Brewster Kahle, người đứng đầu Internet Archive – tổ chức phi lợi nhuận từng muốn thực hiện dự án scan sách của riêng họ – đã nhận định (chính xác) rằng Google đã trở thành một nhà độc quyền thông tin. Ngay cả chuyên gia luật kỹ thuật số Lawrence Lessig vốn ủng hộ nhiều chính sách mà các nền tảng công nghệ thúc đẩy cũng nói rằng thỏa thuận của Google đã biến họ thành “một hiệu sách kỹ thuật số, không phải thư viện kỹ thuật số”. Ý của Lessig là dù Google luôn lập luận rằng toàn bộ dự án được thực hiện vì lợi ích của người dùng, nhưng cuối cùng chính Google mới là bên được hưởng lợi nhiều nhất. Nhiều nội dung hơn đồng nghĩa với nhiều cơ hội bán quảng cáo hơn.
Vậy tại sao các tác giả và nhà xuất bản lại đồng ý với sự dàn xếp này? Vì họ không biết còn cách nào tốt hơn. Tương tự tình thế của những người buộc phải chấp nhận các khoản thế chấp dưới chuẩn từ các ngân hàng lớn, trong thỏa thuận giữa các nhà xuất bản với Google cũng có một sự bất cân xứng khổng lồ về mặt thông tin, khi mà gã trùm công nghệ này đang nắm giữ khá nhiều thông tin mật quan trọng về việc dữ liệu số thu được từ hoạt động tìm kiếm nội dung sách có thể mang về khoản lợi nhuận lớn đến thế nào. Google hiểu rõ thế giới kỹ thuật số mới mà thực tế là đang được chính họ tạo ra và thống trị. Các nhà xuất bản thì không, và họ không thể làm gì khác hơn ngoài việc nhanh chóng ngăn chặn gã khổng lồ Big Tech nuốt mất thị phần của họ.
Ngành xuất bản không chỉ thiếu thông tin cần thiết để hiểu được tác động lâu dài của việc kiếm tiền từ nội dung thông qua quảng cáo nhắm mục tiêu, mà còn không có thời gian để suy nghĩ về điều đó. Họ phòng thủ theo cách mà nhiều lĩnh vực ngày nay đang cố phòng thủ khi giao dịch với Thung lũng Silicon, sau hàng loạt vụ sáp nhập chớp nhoáng (ví dụ, ngành thực phẩm đã đề cao cảnh giác sau khi Amazon thâu tóm Whole Foods). Big Tech chơi tấn công, trong khi phần còn lại của nền kinh tế chỉ phòng thủ. Nhưng bất cứ người hâm mộ thể thao nào cũng biết, phòng thủ không phải là một chiến lược tốt. Giống như hầu hết chúng ta – những người háo hức sử dụng và trở thành một phần của thứ lung linh gọi là World Wide Web – các tác giả và nhà xuất bản cũng không hiểu được sự thật là họ đang đồng lõa với ý tưởng mà Thung lũng Silicon muốn mọi người tin vào: thông tin phải miễn phí và mọi giá trị do người khác tạo ra đều là một thứ hàng hóa có thể được khai thác với giá rẻ, bất kể đó là sách, nhạc hay một loại nội dung nào khác.
Chỉ khi quyền lợi của những ông lớn khác như Microsoft và Amazon cũng bị xâm phạm, tình hình mới bắt đầu thay đổi phần nào. Thỏa thuận của Google khiến họ gặp khó khăn trong một phần quan trọng của thị trường xuất bản, và họ muốn lấy lại thị phần đó. (Khuôn mẫu này về sau đã dẫn đến một số tình huống như Google và Amazon thường xuyên chiến đấu để lấn sâu hơn vào thị trường của nhau, hoặc các doanh nghiệp khổng lồ khác trở thành những nhóm quyền lực phản đối sức mạnh độc quyền của Big Tech.)
Trước áp lực của khoảng 143 nhóm cả phi lợi nhuận lẫn khu vực tư nhân, Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đã xem xét vấn đề này và thừa nhận rằng họ đã cấp cho Google quá nhiều quyền chống cạnh tranh, rằng dự án scan và bán sách của Google là một vấn đề độc quyền. Larry Page gọi thách thức pháp lý này là một “trò hề đối với nhân loại”, còn Sergey Brin viết một bài tuyên truyền trên tờ New York Times để bảo vệ những nỗ lực của Google. Tại phiên tòa năm 2010, luật sư Daralyn J. Durie của Google lập luận: “Việc vi phạm bản quyền là xấu khi công ty không trả thù lao và làm tổn hại đến lợi ích kinh tế của chủ sở hữu”. Đó là một lập luận thông minh, vì nó chuyển sự chú ý của công chúng sang thực tế rằng Google xét cho cùng chỉ đang tạo điều kiện cho việc bán sách, đồng thời né tránh sự thật là Google cũng trở thành người được hưởng nhiều lợi ích từ kho nội dung bản quyền khổng lồ. Cuối cùng vị thẩm phán đã ra phán quyết có lợi cho Google với lý do là dự án mang lại “lợi ích công đáng kể”. Còn việc Google hiện đang độc quyền bán bản kỹ thuật số của khoảng 30.000 quyển sách được cho là ít quan trọng hơn.
Việc thương mại hóa nội dung và chuyển giao tài sản từ người sáng tạo sang các công ty nền tảng càng trở nên nóng lên sau khi Google mua lại YouTube, công ty chuyên về nội dung do người dùng tạo ra, vào năm 2006. Đó là một động thái góp phần củng cố loại chính sách công nghiệp mà họ đang giới thiệu đến thế giới (hoặc ít nhất là theo cách mà một thành viên Google cấp cao từng nói với tôi): mọi người có thể kiếm tiền từ việc thực hiện nội dung trên YouTube, thay vì được trả tiền cho sự sáng tạo của mình thông qua bản quyền. Theo tác giả Jonathan Taplin của quyển Move Fast and Break Things, vấn đề là bạn sẽ cần khoảng 2 triệu lượt xem để kiếm được khoảng 20.000 đô-la mỗi năm – không hẳn là bằng một công việc tầm trung. Hoặc bạn trở thành một ngôi sao YouTube, hoặc bạn ở dưới đáy của kim tự tháp lao động miễn phí – điều mà các nhà phê bình như Taplin cho rằng đã trở thành một trò chơi “tổng bằng 0” cho tất cả mọi người trừ các nhà công nghệ. Dù đúng là các công ty công nghệ mới đã khiến những phần việc kém quan trọng như lái xe hay mua sắm có thể được tiến hành dễ dàng hơn, nhưng họ cũng dựa vào các đầu vào “tự sản xuất” của người khác như nội dung của người dùng và các phần mềm mã nguồn mở. Việc sáng tạo nội dung hay lập trình trên mã nguồn mở thực chất là những công việc không được trả công, được thực hiện trên quy mô lớn.
Tài liệu từ vụ kiện giữa công ty giải trí Viacom International với YouTube năm 2007 đã hé lộ cách Google nhìn những người tạo ra nội dung mà họ đang kiếm tiền dựa trên đó. Chuỗi email trao đổi giữa các lãnh đạo cấp cao nhất (bao gồm Schmidt, Page và Brin) cho thấy các thành viên Google đã gây áp lực nhằm buộc Viacom không tính phí bản quyền càng nhiều đoạn video do họ sản xuất càng tốt và cung cấp những nội dung này miễn phí trên mạng – nơi Google có thể dễ dàng tìm kiếm hơn (và nhờ đó kiếm được nhiều tiền hơn).
Việc đưa mọi thứ lên mạng miễn phí phần lớn mang lại lợi ích cho các nền tảng chứ không phải cho người sáng tạo nội dung, bởi điều đó giúp gia tăng lưu lượng truy cập, đồng nghĩa với việc gia tăng doanh thu. Mức độ truyền thông và quảng bá mà người sáng tạo nội dung có thể nhận được từ các nền tảng trực tuyến là cực kỳ ít ỏi, và chắc chắn không thể đem về mức doanh thu họ có thể có khi phân phối nội dung qua nhiều kênh truyền thống hơn. Ngay cả hiện tại, trừ một vài ngoại lệ, việc kiếm được những khoản thù lao lớn khi viết lách cho các ấn phẩm truyền thống hoặc sản xuất chương trình cho các kênh truyền hình vẫn được cho là dễ dàng hơn so với khi làm việc cho một hãng truyền thông trực tuyến. Nhưng thời điểm đó, điều này không hoàn toàn rõ ràng đối với các hãng phim hoặc nhà xuất bản, và cho đến mãi sau này họ mới nhận ra. Còn trong vụ kiện năm 2007, các kênh truyền hình lớn cuối cùng đã quyết định tốt hơn là nên hợp tác với YouTube vì họ tin rằng số lượng người xem sẽ bù đắp doanh thu từ bản quyền. Tòa án phán quyết rằng miễn là YouTube không bị người sáng tạo nội dung “đánh dấu đỏ” (red flag), các điều luật trong DMCA vẫn cho phép YouTube đăng tải các video mà không cần lo lắng về vấn đề vi phạm bản quyền.
Về phần Google, những vụ kiện này đã giúp họ có được hàng chục tỷ đô-la doanh thu từ những sản phẩm được đưa lên mạng ngày càng nhiều của các nhà văn, nhà sản xuất, nhạc sĩ, nhà làm phim và người dùng thông thường. Dữ liệu và nội dung miễn phí do người dùng tạo ra là mạch máu của các công ty công nghệ nền tảng. Tất cả nền tảng đều được xây dựng dựa trên những dữ liệu đó: mọi bài đăng, mọi lượt “thích”, mọi lượt tìm kiếm (trên Google hoặc Amazon) đều là nguyên liệu thô của Big Tech. Nhưng nói vậy không có nghĩa là điều này không mang lại lợi ích gì cho người dùng, người sáng tạo nội dung hay các nhà phát triển, chỉ là lợi ích mà các công ty nền tảng thu được lớn hơn rất nhiều so với những người đó. Hãy tưởng tượng General Motors hoặc Ford không phải trả bất kỳ chi phí gì khác ngoài nhân công – không phí nguyên liệu, không phí nhà xưởng hay bất cứ phí gì cần thiết cho quá trình sản xuất, chỉ có tiền lương trả cho công nhân. Tiếp đến, hãy tưởng tượng họ chỉ cần một phần nhỏ số công nhân mà họ hiện có để tạo ra xe hơi. Đó chính là sự khác biệt giữa mô hình kinh doanh kỹ thuật số và mô hình công nghiệp.
Trong tình huống này, không có gì ngạc nhiên khi Big Tech sẵn sàng làm bất cứ điều gì cần thiết để giữ nguyên các lỗ hổng luật pháp đang cho phép họ vượt qua những hạn chế đối với việc kiếm tiền từ dữ liệu và nội dung của người dùng, kể cả việc vận dụng sức mạnh truyền thông để loại bỏ dự luật Đình chỉ Hoạt động Vi phạm Bản quyền Trực tuyến (Stop Online Piracy Act – SOPA), một đạo luật nhằm hạn chế quyền truy cập vào các trang web lưu trữ hoặc góp phần lan truyền những nội dung vi phạm bản quyền. Một ngày sau khi dự luật được đưa ra, Google đã đặt một thứ trông giống như một hộp đen lớn trên logo của mình với dòng chữ: “Hãy nói với Quốc hội: Đừng kiểm duyệt Web”. Khi truy cập Google và nhấp vào logo, người dùng sẽ được dẫn đến một liên kết gửi email đã điền sẵn địa chỉ hộp thư của đại biểu Quốc hội. Chiến thuật này đã làm sập máy chủ email của Quốc hội. Dự luật cuối cùng bị rút lại chỉ trong vòng ba ngày.
TÌNH THẾ THAY ĐỔI
Google, Facebook và những công ty công nghệ khác đã cố gắng áp dụng một số chiến thuật tương tự cho hoạt động kinh doanh của họ ở châu Âu vào năm 2019, trước khi EU thiết lập Chỉ thị Bản quyền châu Âu với các quy tắc bản quyền mới, buộc các công ty nền tảng phải chịu trách nhiệm nhiều hơn trong việc xóa những nội dung bản quyền không được cấp phép và/hoặc trả phí sử dụng nội dung (dù tương đối thấp) cho các nhà xuất bản và người sáng tạo nội dung. Chỉ thị đó cuối cùng đã được Nghị viện châu Âu thông qua với tỷ lệ áp đảo, bất chấp chiến dịch bôi nhọ do Big Tech tiến hành nhằm đánh lạc hướng dư luận rằng luật mới sẽ trừng phạt các công ty nhỏ không tuân thủ luật chơi và/hoặc cản trở quyền tự do ngôn luận. Tờ Frankfurter Allgemeine Zeitung hàng đầu của Đức đã đăng tải tiết lộ của một “tay trong” rằng tiền của Google có liên quan đến các “nhà hoạt động” trên YouTube đã lên tiếng phản đối chỉ thị mới. Hóa ra đó không đơn thuần là phong trào của các công dân cảm thấy bất bình, mà của những người đã được Google trả tiền để phản đối – không khác gì việc người nghèo ở các quốc gia như Iran được chính phủ trả tiền để ra mặt chê bai hoặc chỉ trích những ý tưởng có thể gây bất lợi cho chế độ.
Trong khi đó, những người sáng tạo nội dung thực sự rất hài lòng khi chính phủ châu Âu hợp pháp hóa ý tưởng rằng tác phẩm của họ cần được bảo vệ và trả tiền xứng đáng bởi những người sử dụng nó. Giám đốc điều hành Thomas Rabe của tập đoàn truyền thông Đức Bertelsmann chia sẻ trên tờ Financial Times: “[Các nền tảng] hiện đã có một động cơ để không đăng tải những nội dung vi phạm bản quyền và một động cơ lớn hơn để ký các thỏa thuận xin phép sử dụng với chủ sở hữu nội dung đó. Chúng ta phải chấm dứt nền văn hóa miễn phí này trên Internet”.
Việc EU thực hiện một số bước để bảo vệ người sáng tạo nội dung là một dấu hiệu khả quan. Nhưng đó chắc chắn chưa phải là phần kết của câu chuyện. Ví dụ, theo ban biên tập của tờ Financial Times, khi Tây Ban Nha cố đơn phương ban hành các biện pháp tương tự vào năm 2014, Google đơn giản là “tắt dịch vụ tin tức ở đó”. Còn ở Đức, công ty này quyết định “chỉ đưa tin từ các trang web đồng ý cho hiển thị nội dung miễn phí”. Nhưng thành công mà các nền tảng có được nhờ trục lợi từ người sáng tạo nội dung cũng đi kèm cái giá phải trả. Trớ trêu thay, cả Facebook lẫn Google gần đây đều tung ra các dịch vụ nhằm hỗ trợ báo chí địa phương. Nguyên nhân là vì sau nhiều năm vật lộn trong bối cảnh mô hình kinh doanh truyền thống bị phá hủy bởi Big Tech, các tổ chức tin tức địa phương đơn giản là không còn nhiều, và thực trạng này bắt đầu ảnh hưởng đến chính các công ty nền tảng: nếu không còn ai tạo ra nội dung, họ còn gì để kiếm tiền?
Sự đột phá của công nghệ đã gây thiệt hại khổng lồ cho các phương tiện truyền thông và xuất bản, những lĩnh vực đầu tiên bị ảnh hưởng trực tiếp bởi sự trỗi dậy của ngành công nghiệp Big Tech. Báo chí đã suy giảm đáng kể từ giữa những năm 1990, khi Internet thương mại bùng nổ. Theo tờ Columbia Journalism Review, hơn 62% dân số Hoa Kỳ ngày nay xem tin tức trên các mạng truyền thông xã hội, nhiều nhất là trên Facebook.
Nhưng vấn đề bằng sáng chế cho thấy cả các ngành công nghiệp khác lẫn bản thân ngành công nghệ đều phải trả giá cho cách tiếp cận “thông tin phải được miễn phí”. Mặc dù sự phức tạp của chuỗi cung ứng toàn cầu và hoạt động đầu tư khiến chúng ta khó có thể thấy rõ mối quan hệ nhân quả giữa bảo hộ bằng sáng chế với tiến trình đổi mới ở Hoa Kỳ, nhưng xu hướng phát triển trước mắt trông có vẻ không ổn. Theo một nghiên cứu, những thay đổi trong quy định về bằng sáng chế đã khiến nền kinh tế Mỹ bị thiệt hại 1.000 tỷ đô-la. Những năm gần đây, các khoản đầu tư mạo hiểm vào công nghệ sinh học cũng giảm sút, một phần là do lĩnh vực này có một số loại phát minh khó có thể được cấp bằng sáng chế. Nhiều nhà đầu tư tôi từng trò chuyện cho biết họ đang cân nhắc chuyển tiền ra khỏi Hoa Kỳ để đầu tư ở châu Âu hoặc châu Á. Đó tất nhiên là những công việc cần kỹ năng cao mà nước Mỹ cần tìm cách giữ lại.
LIÊN MINH HAY THÔNG ĐỒNG
Các công ty công nghệ lớn có những thỏa thuận kiểu liên minh để bảo vệ tài nguyên có lẽ là quý giá nhất của họ: nhân viên. Hãy thử xem xét thỏa thuận giữa một số công ty Big Tech nhằm ngăn chặn việc săn trộm nhân viên của nhau. Khi các công ty cố giảm chi phí lao động bằng cách ngầm thỏa thuận với nhau và tạo ra tình thế khiến người lao động khó nhận lời mời tuyển dụng của công ty này so với lời mời tuyển dụng của công ty khác, hành vi đó thường được coi là sự thông đồng. Nhưng khi xảy ra ở Thung lũng Silicon, hành vi đó có nghĩa là một hoặc cả hai công ty đều đang cố ngăn cản những tài năng hàng đầu của họ bỏ sang đối thủ cạnh tranh – và mang theo các thông tin, ý tưởng và bí mật độc quyền của họ.
Năm 2011, hồ sơ tòa án cho thấy vào năm 2007, sau khi Steve Jobs gọi điện cho Google để phàn nàn rằng một nhà tuyển dụng của Google đang cố gắng thuê một nhân viên của ông, Schmidt đã viết email gửi cho bộ phận nhân sự của công ty: “Tôi tin rằng chúng ta có chính sách không tuyển dụng từ Apple… Anh có thể ngừng việc này lại và cho tôi biết tại sao nó lại xảy ra không? Tôi cần nhanh chóng phản hồi với Apple”.
Khi còn làm việc ở Google, Schmidt đã lập ra danh sách “Không được liên lạc”, trong đó gồm các công ty mà họ sẽ không khai thác nhân tài. Đây là một động thái khó hiểu về mặt pháp lý, bởi về cơ bản, nó làm hạn chế khả năng tìm được việc làm của các nhân tài ở những công ty có tên trong danh sách. Và hiển nhiên là Schmidt biết điều đó. Theo hồ sơ của một vụ kiện, khi Schmidt được giám đốc nhân sự của Google hỏi qua email về những thỏa thuận không săn trộm đối với đối thủ cạnh tranh, Schmidt đã trả lời rằng ông muốn trao đổi “bằng lời, vì tôi không muốn để lại dấu vết bằng văn bản có thể khiến chúng ta bị kiện sau này”. Một nhân viên chủ chốt của một thượng nghị sĩ Dân chủ cấp cao về sau đã nói với tôi: “Những người đó lẽ ra phải vào tù vì việc đó”. Thay vì thế, Google, Apple và hai công ty khác dính líu đến vụ bê bối này – Adobe và Intel – đã đồng ý bồi thường 415 triệu đô-la theo một thỏa thuận ngoài tòa án.
Như Peter Harter đã nói khi tôi phỏng vấn về trải nghiệm của ông với các thành viên Google: “Những công ty này rất hùng mạnh, rất nhiều tiền cũng như nhiều khả năng tiếp cận các chính trị gia và các nhân tài, đến mức những quy tắc thông thường không được áp dụng với họ”.
*
Nếu những tay chơi lớn nhất này không thể đánh cắp hoặc xâm phạm những tài sản trí tuệ mà họ theo đuổi, họ sẽ đơn giản bỏ ra vài triệu đô-la để mua. Ví dụ, trong mười năm qua, Google đã mua hơn một trăm hai mươi công ty, Facebook đã mua lại bảy mươi chín công ty, còn Amazon mua tám mươi chín công ty. Những vụ mua lại như vậy có thể chỉ là biện pháp phòng thủ, nhưng cũng có khi là kế hoạch tấn công. Chẳng hạn, mục đích của Facebook khi mua lại công ty khởi nghiệp thực tế ảo Oculus vào năm 2014 không phải là để lấn sang lĩnh vực thực tế ảo, mà chỉ nhằm giết chết một hệ điều hành đầy hứa hẹn của một công ty mới nổi, có khả năng sẽ dần trở thành đối thủ cạnh tranh của họ. Tương tự, các vụ mua lại Snapchat, Instagram và WhatsApp cũng là nhằm đảm bảo những công ty này không thể phát triển mạng xã hội mới và thu hút người dùng của Facebook. Alexa của Amazon cũng được phát triển dựa trên công nghệ của một công ty khởi nghiệp chỉ nhận được 5,6 triệu đô-la từ ông trùm bán lẻ, kẻ sau đó đã sao chép gần như toàn bộ công nghệ trợ lý giọng nói này. Tất nhiên, Google là người mua lớn nhất, với hơn hai trăm vụ mua lại được thực hiện trong suốt lịch sử công ty.
Với sự hung hãn của những gã khổng lồ và thực tế là Washington hầu như không làm gì để ngăn chặn những vụ sáp nhập như vậy (vì chúng không được xem là mâu thuẫn với khái niệm “quyền lợi người tiêu dùng” thời Bork về việc hạ giá, một chủ đề mà chúng ta sẽ nói thêm ở Chương 9), không có gì ngạc nhiên khi xung quanh bất kỳ thứ gì mà các công ty nền tảng (có thể) quan tâm lại xuất hiện những “lỗ đen sáng tạo”, trong kinh doanh gọi là “vùng hủy diệt”. Như một số nhà đầu tư mạo hiểm và giám đốc công nghệ từng chia sẻ với tôi, không ai muốn thành lập công ty trong một lĩnh vực mà họ biết Google, Facebook hoặc Amazon có thể sẽ nhảy vào, trừ khi họ muốn tạo ra một dạng “trang trại nhân tài” mà cuối cùng có thể được các đại gia mua lại chỉ để lấy nguồn nhân lực. Đó không phải là phát triển sự sáng tạo hay tạo ra việc làm. Đó là làm cho những gã khổng lồ hiện tại ngày càng giàu thêm.
Và họ thật sự đã trở nên giàu hơn, đạt tỷ suất lợi nhuận hai con số suốt nhiều năm liền với chi phí đầu vào thấp hơn rất nhiều so với hầu hết các doanh nghiệp khác. Trong chưa đầy bốn mươi năm, Apple đã trở thành công ty ngàn tỷ đô đầu tiên trên thế giới, và các công ty công nghệ khác cũng theo sát phía sau. Google lên sàn vào ngày 19 tháng Tám năm 2004, với mức giá sàn 85 đô-la. Đến cuối ngày, con số này đạt khoảng 100 đô-la, tạo ra 900 triệu phú Google. Giá sàn tiếp tục tăng thành 108 đô-la trong ngày giao dịch thứ hai và tăng đến 210 đô-la vào tháng Hai năm 2005. Giá cổ phiếu của Google không ngừng tăng lên, và điều này không có gì ngạc nhiên. Hồ sơ tài chính và dữ liệu IPO được tiết lộ trong thời gian đó đã cho thấy Google không chỉ là một công ty công nghệ. Trang 80 trong bản cáo bạch35 của Google cũng nêu rõ: “Chúng tôi bắt đầu từ một công ty công nghệ và đã phát triển thành một công ty phần mềm, công nghệ, Internet, quảng cáo và truyền thông – tất cả trong một”. AdSense là một cỗ máy in tiền. Nhận ra điều này, Yahoo đã từ bỏ vụ kiện bằng sáng chế để đổi lấy cổ phần của Google. Big Tech đã trưởng thành. Trong những năm sắp tới, Big Tech sẽ còn phát triển nhanh hơn và mạnh mẽ hơn so với những gì chúng ta có thể tưởng tượng, nhờ một loại khoa học công nghệ mới gọi là “Công nghệ thuyết phục bằng máy tính” (captology).
35 Bản cáo bạch là tài liệu do một công ty tự phát hành khi lên sàn nhằm công bố cho người mua chứng khoán những thông tin về bản thân công ty, nêu rõ những cam kết của công ty và quyền lợi cơ bản của người mua... để trên cơ sở đó người đầu tư có thể ra quyết định đầu tư hay không.