• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Đừng trở nên xấu xa
  3. Trang 9

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 8
  • 9
  • 10
  • More pages
  • 20
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 8
  • 9
  • 10
  • More pages
  • 20
  • Sau

Chương 4Nền kinh tế mới

Tôi không phải kiểu người thích xưng tội công khai. Nhưng đến đây, tôi thấy mình cần thừa nhận một sự thật: tôi từng làm việc cho một công ty Internet. Thời điểm năm 1999, hầu như bất kỳ ai dưới bốn mươi tuổi với nhiều hoài bão cũng đều tìm cách gia nhập các doanh nghiệp Internet. Internet từng là một điều mới lạ nay đã nhanh chóng trở thành một dịch vụ tiện ích thông thường, khi khả năng kết nối được cải thiện và các công ty cáp/viễn thông bắt đầu sử dụng cáp băng thông rộng (kết quả là hàng triệu ki-lô-mét cáp đã được lắp đặt trong thập niên tiếp theo). Trong khoảng thời gian từ 1990 đến 1997, tỷ lệ hộ gia đình sở hữu máy vi tính tại Mỹ đã tăng từ 15% lên 35%. Khái niệm “lướt web” dần trở nên phổ biến trong các cuộc trò chuyện, mọi người bắt đầu bán hàng trên eBay và kiểm tra email trên Yahoo hoặc America Online. Trong khi đó, Amazon cũng phát triển nhanh đến mức Jeff Bezos được tạp chí Times vinh danh là Nhân vật của năm 1999 – đây là năm mà hoạt động mua sắm trực tuyến trong dịp Giáng sinh của người Mỹ tăng gấp đôi, và Bezos đã giành được phần lớn các đơn đặt hàng.

Thị trường không chỉ trở nên sôi động mà còn góp phần tạo ra thứ sẽ trở thành một vụ “vỡ bong bóng” về sau này. Đó là thời kỳ của những khoản tiền dễ kiếm và lãi suất thấp, không khác gì khoảng thời gian ngay trước cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, hay nói chính xác là sự lặp lại của chính giai đoạn đó. Một trong những tác nhân đã xuất hiện vào thời kỳ này và góp phần gây ra bong bóng dot-com chính là Đạo luật Cứu trợ Người nộp thuế năm 1997. Đạo luật này đã hạ mức thuế trần trên lợi nhuận biên ở Hoa Kỳ từ 28% xuống còn 20%, khiến nhiều người quan tâm hơn đến việc trở thành nhà đầu cơ. Trên thực tế, bản thân chủ tịch Alan Greenspan của Cục Dự trữ Liên bang cũng từng khuyến khích hoạt động đầu cơ khi ông đưa ra những dự đoán khả quan về giá trị cổ phiếu; nhưng trớ trêu thay, hành động của ông chỉ góp phần gây ra một tình trạng mà ông gọi là “sự thịnh vượng bất hợp lý” trên thị trường. Xét theo một phương diện nào đó, tất cả những việc này xảy ra là do tác động của Đạo luật Viễn thông năm 1996, cũng như nhiều quy định tương tự đã thiên vị Big Tech và cho phép các công ty Internet “lách” khỏi nhiều điều luật phức tạp mà các tổ chức khác phải tuân thủ.

Chính trong khoảng thời gian đó, tôi đã có cơ hội nhảy vào làn sóng dot-com với tư cách là một nhà đầu tư mạo hiểm (thật đấy, tôi không đùa đâu). Nhưng thị trường lúc bấy giờ vốn dĩ đã đạt đỉnh, và dấu hiệu cho thấy điều đó là các nhà đầu tư triệu phú sẵn sàng thuê một nhà báo chưa từng làm việc trong lĩnh vực công nghệ-tài chính như tôi để theo dõi “các hợp đồng truyền thông B2C25 trên toàn châu Âu”, chấp nhận trả mức thù lao lên tới sáu con số và giao cho tôi hàng ngàn quyền chọn cổ phiếu. Tuy bây giờ có vẻ hiển nhiên, nhưng thật ra mọi thứ vẫn còn khá mơ hồ vào mùa thu năm 1999, khi tôi bị hấp dẫn bởi công ty ươm mầm tài năng công nghệ Antfactory – một tổ chức khởi nghiệp trong mảng đầu tư mạo hiểm được khai sinh từ sự hợp tác giữa cựu nhân viên ngân hàng đầu tư và những nhà đầu tư chứng khoán mới nổi, với mục tiêu “cao cả” là trở thành một Idealab của châu Âu. Mặc dù Antfactory không được lãnh đạo bởi một doanh nhân sáng tạo cỡ vua trái phiếu Bill Gross của Idealab, nhưng trong thời đại của những khoản tiền dễ kiếm và sự tự tin thái quá, họ đã bằng cách nào đó thuyết phục được những nhà đầu tư “cá mập” trao cho họ đến 120 triệu đô-la để đầu tư vào các công ty khởi nghiệp dot-com ở châu Âu.

25 B2C là từ viết tắt của “Business-to-customer”, dùng để chỉ giao dịch kinh tế giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng.

Antfactory tìm đến tôi vì tôi vừa viết cho tờ Newsweek một bài viết trang bìa về sự bùng nổ Internet ở châu Âu với dòng tít thu hút sự chú ý: “Châu Âu lên cơn sốt Internet. Các triệu chứng đã quá rõ ràng: hàng loạt công ty mạng ra đời, những chiếc Ferrari bóng loáng được dùng để chiêu dụ nhân tài, và các doanh nhân trẻ tự tin xác lập chủ quyền trên không gian ảo”. (Thú thật là bây giờ tôi có hơi ngượng khi viết lại những lời này.) Nếu lúc đó suy nghĩ kỹ càng hơn, có lẽ tôi đã nhận ra làn sóng mình sắp nhảy vào đã bắt đầu chuyển sang giai đoạn thoái trào. Nhìn chung, những câu chuyện được giới thiệu trên trang bìa của các tạp chí kinh tế Mỹ là dấu hiệu đáng tin cậy về tình hình thị trường, và bài viết của tôi cũng không ngoại lệ. Khoảng một năm sau khi bài viết được đăng, thị trường bắt đầu trượt dốc.

Tôi nảy ra ý tưởng cho câu chuyện trang bìa đó trong chuyến đi London cùng Kambiz – chồng tôi khi đó, người vốn lớn lên ở Anh sau khi cha mẹ anh rời Iran do tác động của cuộc cách mạng năm 1979. Như hầu hết những người Iran xa xứ ở London, Kambiz chơi chung với một nhóm hipster26 giàu có, và thông qua những người bạn này, chúng tôi được giới thiệu với một số tay chơi trong lĩnh vực công nghệ đang phát triển mạnh mẽ. Giới tinh hoa công nghệ London thường tập trung ở những khu vực sang trọng nhất của thành phố nhộn nhịp này, chứ không phải ở những vùng ngoại ô biệt lập như các tay tài phiệt Thung lũng Silicon.

26 Hipster là những người theo phong cách tự do, phóng khoáng, thường vượt ra ngoài những xu hướng thông thường của xã hội, đôi khi bị xem là nổi loạn.

Đó là giai đoạn cực thịnh của kỷ nguyên “Cool Britannia”27, khi người ta nhìn đâu cũng thấy tinh thần lạc quan thái quá, thói hành xử trưởng giả, và tất nhiên là cả ma lực của đồng tiền. Thời điểm đó, Đảng Lao động mới (tương đương với cánh nghiệp đoàn của Đảng Dân chủ đang chi phối quyền lực ở Mỹ) vẫn được nhiều người ủng hộ, còn Tony Blair thì được xem là Bill Clinton (theo nghĩa tốt) phiên bản Anh. Từ giới tài phiệt muốn hưởng ưu đãi thuế đến những người Mỹ đang tìm cách kiếm tiền nhanh, tất cả đều đổ xô đến London. Và mọi thứ – nhất là giá bất động sản – dường như chỉ thay đổi theo một hướng duy nhất: tăng lên. Hầu hết các kế hoạch kinh doanh đều được phác thảo trên khăn ăn của những câu lạc bộ độc quyền dành riêng cho hội viên, ví dụ như Soho House hay Home House – tòa nhà 18 phòng bắt chước kiểu dinh thự thời Georgia nằm trên đường Portman Square ở khu Marylebone. Đây đều là những nơi mà chỉ có những người nước ngoài giàu có và giới “trọc phú” bản địa mới đủ tiền sinh sống và vui chơi tại đó.

27 “Cool Britannia” là thời kỳ của sự kiêu hãnh gia tăng trong lịch sử văn hóa Anh nửa sau thập niên 90. Đại diện cho cảm giác lạc quan mới sau những hỗn loạn của thập niên 70 và 80, Cool Britannia có nhiều cột mốc quan trọng như chiến thắng của Tony Blair thuộc Đảng Lao động mới trước John Major của Đảng Bảo thủ, hay sự thành công của các nhóm nhạc đình đám như Spice Girls, Blur và Oasis.

Trên thực tế, Home House là nơi tôi có cuộc phỏng vấn đầu tiên với các đối tác của Antfactory – tổ chức đã liên hệ tôi sau khi bài viết của tôi được công chúng nước Anh và quốc tế đón nhận. Người đầu tiên gọi cho tôi là Rob Hersov, một doanh nhân gốc Nam Phi đang làm ăn tại London và từng ủng hộ Rupert Murdoch. Rob là người đã thành lập Sportal – “nền tảng” (hay đơn giản là trang web) chuyên tin thể thao của toàn châu Âu, có quan hệ hợp tác với các kênh và đội thể thao địa phương như Juventus của Ý, Bayern Munich của Đức hay Paris Saint-Germain của Pháp. Nhưng ngoại trừ những cái tên nổi tiếng, trang web này thật sự không có gì đặc biệt. Trong khi đó, bản thân Rob là một người làm marketing cừ khôi. Đặc điểm đáng nhớ nhất ở ông là mái tóc vàng gợn sóng và nụ cười tươi hết cỡ. Ông khiến tôi liên tưởng đến chàng búp bê Ken lái chiếc Range Rover và có một người vợ thuộc giới thượng lưu.

Vài tuần sau khi bài viết được đăng tải, Rob gọi cho tôi và đưa ra một lời mời thú vị: tham gia một công ty khởi nghiệp giàu tiềm năng đặt tại London, tìm cách phát triển “quy mô” và “sức mạnh tổng hợp” trong thị trường Internet còn chưa phân mảnh của châu Âu. Không như Mỹ nơi có 250 triệu người dùng đang nói cùng một ngôn ngữ và có nhu cầu ngày càng tăng đối với cùng một thứ trên mạng, châu Âu là một tập hợp nhiều quốc gia, mỗi quốc gia lại có nền văn hóa riêng và thị trường riêng. Đồng Euro chỉ mới bắt đầu kết nối những người trẻ tuổi mê tiệc tùng, ăn mặc kiệm vải, không ngừng uốn éo theo điệu nhạc techno sôi động trong các câu lạc bộ, từ đảo Ibiza ngoài khơi Địa Trung Hải của Tây Ban Nha đến Thủ đô Berlin của Đức. Họ không cần ngôn từ – chủ nghĩa lạc quan là ngôn ngữ chung của họ.

Đó là thời điểm mà các nước châu Âu cuối cùng cũng xích lại gần nhau trong một liên minh kinh tế-chính trị, một thỏa thuận vốn được xem là cuộc thử nghiệm vĩ đại nhất lịch sử trong công cuộc toàn cầu hóa đầy thiện chí. Và như Rob giải thích, Antfactory sẽ ở ngay trung tâm của cuộc thử nghiệm đó, tạo đòn bẫy phát triển cho toàn bộ nền kinh tế quy mô mới giàu tiềm năng này. Họ sẽ tìm những công ty dot-com tốt nhất châu Âu trong từng lĩnh vực như cụ thể – như du lịch, âm nhạc, tài chính, sức khỏe – và kết hợp tất cả với nhau để tăng cường sự hiện diện toàn cầu cũng như giá trị cổ phiếu. Các sàn giao dịch từ London, Frankfurt đến Paris sẽ cạnh tranh nhau để đưa những công ty mới đó lên sàn. Mọi người đều sẽ giàu có. Mọi thứ nghe thật hợp lý: suy cho cùng, tại sao lại cần tới sáu trang web đặt vé khác nhau (cho Pháp, Ý, Tây Ban Nha…) khi chúng ta có thể nhập tất cả thành một?

Lời đề nghị của Rob lúc đó có vẻ khá hấp dẫn đối với tôi, một phóng viên đang dành hàng giờ trong một văn phòng tối tăm và ngột ngạt giữa Thành phố New York để viết lại những bài viết chán ngắt được gửi về từ nước ngoài. Tại Mỹ, những công ty như Yahoo, eBay và Amazon đang bắt đầu lên như diều gặp gió; và cuộc chuyển đổi từ ấn phẩm in sang trực tuyến vẫn không ngừng diễn ra – những tạp chí bóng bẩy và trang tin hoành tráng dành riêng cho việc luận bàn về nền kinh tế kỹ thuật số mọc lên như nấm, nổi bật trong số đó có Wired, Fast Company, Industry Standard và Red Herring. Tại Newsweek, tất cả chúng tôi đều bắt đầu có cảm giác rằng thế giới của mình sắp không còn như trước. Đúng là những bữa tối miễn phí vẫn được cung cấp cho các biên tập viên đang làm việc trên tầng áp mái ốp gỗ, nơi trước kia là phòng hội nghị của General Motors. Nhưng trước nỗi lo sợ của “những người của thế hệ cũ” vốn đã sống đủ lâu để trải nghiệm những tiện nghi của thời đại trước, tòa soạn đang bắt đầu cắt giảm (thường là quá mức) các khoản phí cho những bữa ăn khuya khi chúng tôi làm việc trễ. Và đây cũng là dấu hiệu cho thấy thị trường đang trải qua một cơn địa chấn.

Một dấu hiệu khác là sự giàu lên của những người như Laurel Touby, một trong những cây bút tự do của Working Woman – tạp chí kinh doanh cuối cùng tôi làm việc còn xuất bản phiên bản giấy. Laurel đã rời ngành báo chí để phát triển một cộng đồng kết nối được cô gọi là “mediabistro”, dành riêng cho các loại hình sáng tạo trong lĩnh vực truyền thông trực tuyến. Laurel không phải là một phóng viên siêu sao, nhưng cô là một doanh nhân nhạy bén và là một người chủ trì duyên dáng tại các cuộc hội họp do cô tổ chức trong các quán bar ở khu Lower East Side, nơi cô thường choàng một chiếc khăn choàng cổ lông xù và có màu sặc sỡ để mọi người có thể nhận ra cô. Tôi từng tham dự một số sự kiện của Laurel, tất cả đều rất vui. Chúng tôi thỉnh thoảng cũng gặp nhau, uống nước và tâm sự về sự suy thoái của ngành truyền thông, hay về việc chúng tôi hầu như không thể sống ở Thành phố New York với mức lương của một phóng viên. Tôi nhớ có lần tôi đã nói: “Laurel, em thật sự nên bỏ nghề báo và bắt đầu kinh doanh đi”. Cô thật sự đã làm vậy và cuối cùng phát triển cộng đồng kết nối không chính thức cô tạo ra trước đó cho những cây bút tự do thành mediabistro.com – một trang web tập trung vào thị trường công việc thuộc mảng truyền thông và PR, dành cho các nhà văn, phóng viên và biên tập viên. Về sau, trang web này được một công ty công nghệ mua lại với giá 23 triệu đô-la. Sở hữu 60% cổ phần trang web, Laurel nhanh chóng mua một căn hộ tuyệt đẹp (đến mức nó được đăng trên tờ New York Times), kết hôn và trở thành một người chuyên đầu tư vào các công ty khởi nghiệp.

Tất nhiên khi tôi xem xét lời đề nghị của Rob, tâm trí tôi đã không ít lần gợn lên ý nghĩ đổi những yêu cầu khắc nghiệt (và cả khoản tiền lương thậm chí còn khắc nghiệt hơn) của cuộc đời phóng viên để lấy sự giàu có của thế giới Internet. Tôi vốn đã có kế hoạch sang Anh sinh sống – cha chồng tôi bị ốm, và chúng tôi định chuyển đến gần nhà cha mẹ anh ở Thành phố Brighton. Không chỉ công ty hiện tại sẵn sàng chuyển địa điểm làm việc cho tôi mà hai tờ báo danh tiếng khác – The Wall Street Journal và tạp chí Time chi nhánh châu Âu – còn muốn mời tôi về làm việc, và tôi định dành vài ngày để suy nghĩ trước khi đưa ra quyết định. Tôi yêu nghề báo, và tôi cảm thấy biết ơn khi có nhiều lựa chọn. Song, cả ba lựa chọn trên đều sẽ đi theo những quỹ đạo có thể đoán trước: viết thêm nhiều bài đinh, có cơ hội trở thành biên tập viên cấp cao hoặc người phụ trách chuyên mục, được tăng lương từ từ ở mức 2% mỗi năm. Trong khi đó, Antfactory mang đến một cái gì đó mới và vốn dĩ rất hấp dẫn đối với một phóng viên kinh tế: cơ hội tham gia cuộc chơi, thay vì chỉ viết về nó. Tôi nói với những người đàn ông (tất nhiên rồi) ở Antfactory rằng tôi sẽ đến gặp họ ở London và thảo luận về lời đề nghị của họ. Tôi mất không ít thời gian để nghĩ xem mình sẽ mặc bộ trang phục nào đến cuộc họp, cuối cùng tôi quyết định chọn một bộ vét theo phong cách cổ điển của những năm 1950 và một đôi giày cao gót quai dây của Sigerson Morrison. Điều này thể hiện một thực tế là vào thời điểm đó, tôi hiểu về thời trang nhiều hơn là về công nghệ.

Hóa ra, mức độ am hiểu công nghệ của phía đối tác cũng không nhiều hơn tôi. Rob hoạt động chủ yếu trong ngành công nghiệp giải trí và kinh doanh xa xỉ phẩm. Có hai người xuất thân từ lĩnh vực tài chính: một người từng làm cho công ty Salomon Brothers, một người là cựu nhân viên ngân hàng đầu tư Morgan Stanley. Trong số các đối tác còn có một anh chàng người Mỹ tuy có gương mặt điển trai nhưng cũng có phần chán chường tên là Charles Murphy. Anh mặc một bộ vét được đặt may riêng trên phố Savile Row nổi tiếng, và so với một anh chàng sắp bước vào ngành dot-com thì anh có vẻ trang trọng bất thường trong cả cách ăn mặc lẫn phong thái. Tiếp đến là Harpal Randhawa, nhà đầu tư người Ấn Độ đã sáng lập Antfactory, có tài ăn nói và thường kiếm tiền từ các thị trường mới nổi theo những cách mà tôi không thật sự hiểu. Nhưng vị CEO mới, một người cũng tên Rob nhưng là Rob Bier, lại có vẻ dễ hiểu hơn đối với tôi. Anh là một người Mỹ lạc quan với tinh thần không gì là không thể từng làm đối tác của công ty tư vấn Monitor. Rob Bier, giống như Eric Schmidt của Google, là “người giám sát” tại Antfactory.

Tôi làm phóng viên đủ lâu để nhận ra không ai trong số họ là chuyên gia hàng đầu. Mặc dù vậy, việc có thể tham gia một vườn ươm công nghệ cao với tư cách đối tác và theo dõi các giao dịch ở đỉnh cao của cuộc bùng nổ dot-com có vẻ là một ý tưởng đáng suy ngẫm. (Và London dù theo khía cạnh khách quan nào thì vẫn có môi trường sinh sống tốt hơn một vùng ngoại ô nào đó của Thung lũng Silicon.) Tôi đoán nguy cơ dự án thất bại có thể lên tới 60%. Nhưng các đối tác có đủ tiền để tài trợ dự án trong vài năm, và thời điểm đó tôi không có con hay bất cứ vấn đề tài chính nghiêm trọng nào. Thêm vào đó, những quyền chọn cổ phiếu họ trao cho tôi có thể thật sự có giá trị. Và trong trường hợp xấu nhất – tôi tự nhủ – tôi sẽ quay lại làm phóng viên kinh tế với vốn kiến thức công nghệ phong phú hơn nhiều.

NHỮNG CHIẾC FERRARI BÓNG LOÁNG

Chúng tôi chuyển đến London vào tháng Mười Hai năm 1999, và tôi ngay lập tức lao vào thị trường dot-com. Tại đây, tôi nhanh chóng bắt gặp một nền tảng tương tự đứa con tinh thần của Laurel: trang web kết nối kết hợp săn đầu người được gọi là First Tuesday. Nền tảng này được phát triển bởi cựu phóng viên của tạp chí Financial Times là Nick Denton – người sau này đã xây dựng trang tin tức Gawker – và một người đang đầu tư ở Thung lũng Silicon tên là Julie Meyer. Cả hai người họ đều là doanh nhân chứ không phải kỹ sư công nghệ. Trên thực tế, những gì thật sự mang tính kỹ thuật chỉ diễn ra ở Thành phố Cambridge, Estonia (quốc gia có cộng đồng lập trình viên chi phí thấp đang phát triển mạnh) và Scandinavia (khu vực vốn đã khá phát triển về mảng thiết bị di động); trong khi DNA của hoạt động khởi nghiệp ở London vẫn còn phản chiếu DNA của chính thành phố này: coi trọng đồng tiền và khả năng đạt được các thỏa thuận.

Và cả hai thứ này đều không hề thiếu. Cứ vài phút trôi qua lại có thêm những việc làm mới (và công ty mới) được đăng lên trang First Tuesday. Chỉ sau vài tháng, quán bar nơi Nick và Julie tổ chức các buổi họp mặt hằng tháng đã không còn đủ chỗ để chứa hàng trăm người háo hức thuộc đủ loại tầng lớp, thường xuyên chen chúc nhau đến tràn ra tận cửa. Đến năm 1999, First Tuesday đã mở rộng phạm vi hoạt động sang 25 thành phố khác, và không ít nhà đầu tư đã “xếp hàng” để góp vốn cho họ. Việc các nhà đầu tư mạo hiểm chấp nhận chi trả hàng triệu đô-la để tham gia một dự án chỉ có vai trò như đầu mối dẫn đến các dự án khác tưởng chừng như là một hiện tượng “chỉ có ở Mỹ”. Nhưng theo lời chia sẻ của Nick Denton vào thời điểm đó, những doanh nhân và nhà đầu tư đứng đằng sau First Tuesday vốn đã xem bản thân họ là “những con người có tinh thần Mỹ”, vừa có sức hút của người Mỹ vừa có cốt cách của người châu Âu.

Tại các sự kiện kết nối ở First Tuesday, Denton và Meyer luôn tạo điều kiện để người tham gia nhìn thấy tiền đang ở đâu. Họ cho các nhà đầu tư tiềm năng đeo bảng tên có chấm đỏ trên ve áo, còn các “nhân tài” đeo bảng tên có chấm màu xanh lá cây. Người có chấm đỏ – hiếm hơn và chắc chắn là có sức thu hút hơn – thường sẽ rời khỏi buổi kết nối trong tình trạng “kiệt sức”, sau vài giờ “chiến đấu” với những người đeo chấm xanh nhiệt thành bên ly rượu vang rẻ tiền và thức ăn nhẹ do ban tổ chức cung cấp. First Tuesday tuyên bố đây là cách mà 100 triệu đô-la giao dịch đã được chốt. Tôi không thật sự tin họ, nhưng cũng không hoàn toàn không tin. Dù thế nào đi nữa, có một thực tế rất rõ ràng: bạn có thể kiếm tiền trong các buổi gặp gỡ đó, giữa một khung cảnh vui vẻ và đầy những con người hào nhoáng.

Trong số những câu chuyện thành công được biết đến nhiều hơn có câu chuyện của Ernst Malmsten (người có vẻ ngoài như ca sĩ Elvis Costello phiên bản Bắc Âu) và đối tác của anh là Kajsa Leander (cựu người mẫu của công ty Elite). Khi còn ở Thụy Điển, họ đã sáng lập bokus.com, trang web từng có thời điểm là nền tảng bán sách trực tuyến lớn thứ ba thế giới. Sau khi bán công ty vào năm 1998, Malmsten và Leander bắt đầu chuyển sự chú ý sang thị trường thời trang; họ đặc biệt nhắm đến nhóm khách hàng trẻ tuổi và am hiểu công nghệ, những người mà họ nghĩ là sẵn sàng xuống tiền để sở hữu những sản phẩm khó tìm như giày thể thao Vans hay áo thun Cosmic Girl. Hóa ra Bernard Arnault, người đứng đầu tập đoàn LVMH chuyên kinh doanh hàng xa xỉ toàn cầu, và nhà bán lẻ Benetton của Ý cũng có suy nghĩ tương tự. Trang Boo.com của Malmsten và Leander nhanh chóng huy động được ba vòng vốn lớn, mở văn phòng trên phố Carnaby và ra mắt đồng thời ở bảy quốc gia. Một cặp đôi sáng giá khác là Brent Hoberman (cựu sinh viên Đại học Eton) và Martha Lane Fox (con gái của một nhà sử học thuộc Đại học Oxford) đã thành lập Lastminute.com, một trang web du lịch thành công chuyên cung cấp các ưu đãi tuyệt vời cho những kỳ nghỉ giờ chót. Sau một thời gian, họ đưa công ty lên sàn chứng khoán với tổng giá trị cổ phiếu được chào bán lần đầu lên tới 577 triệu bảng Anh.

Ngay cả First Tuesday về sau cũng được bán lại với giá xấp xỉ 50 triệu đô-la. Nhưng điều đáng nói là hành động của Meyer: thừa nhận First Tuesday chỉ “xuất hiện đúng nơi, đúng thời điểm”. Đây là điều hiếm thấy trong thế giới dot-com. Nhiều doanh nhân thông thái và sáng suốt nhưng không thành công tôi từng gặp đều có những lý do khác nhau cho thất bại của họ, còn những người đã thành công lại đều có một điểm chung: họ luôn nghĩ sự thành công của mình đơn thuần được tạo nên năng lực vốn có của bản thân, yếu tố may mắn thường không được kể đến.

Đa số các doanh nhân xuất hiện khắp London những ngày đó là người Mỹ hiểu biết công nghệ. Đó thường là những người đến từ Thung lũng Silicon, muốn tìm kiếm những con đường “ít người đi” nơi họ có thể tận dụng để làm giàu. Một số người, chẳng hạn như Josh Hannah – đồng sáng lập Flutter.com, cựu sinh viên Trường Kinh doanh Stanford chơi poker chung nhóm với chồng tôi – đã đến London để lập các trang cá cược thể thao, việc mà bạn không dễ làm ở Mỹ. Josh đã đến thành phố này vài năm trước với hành trang là một kế hoạch kinh doanh và tinh thần năng động của người Mỹ. Giống như các công ty dot-com và nhiều công ty công nghệ khác ngày nay, văn phòng của Josh cũng đầy những thanh niên mê máy tính mặc áo phông và mang dép lê, tuy trông có vẻ vô tư hay thậm chí là hơi ngốc nghếch nhưng thật ra lại tham vọng và nhanh nhạy chẳng khác gì nhân sự của các tập đoàn lớn mạnh. Tôi nhớ tôi từng tranh luận với Josh về sự cần thiết của việc cân bằng giữa công việc với cuộc sống, điều mà ông luôn gạt bỏ và tuyên bố là không thật sự khả thi đối với một công ty khởi nghiệp (có lẽ đúng là vậy). Mọi vất vả của Josh đã được đền đáp: Flutter hợp nhất với nền tảng cá cược trực tuyến Betfair.com, và công ty này sau đó đã có một đợt chào bán cổ phiếu lần đầu tiên ra công chúng (Inital Public Offering – IPO) đạt 2,2 tỷ đô-la trên Sàn Giao dịch Chứng khoán London.

Josh không phải là người duy nhất. Cuối năm 1999, dù bản thân các công ty ở London vẫn chưa đủ lớn mạnh, nhưng những câu chuyện từ thành phố này đã bắt đầu sánh ngang với những truyền thuyết từ Thung lũng. Tôi từng nghe về một cuộc chiến tuyển dụng khi nhiều công ty dot-com cùng săn đón một giám đốc điều hành. Những nhà đầu tư của một trang web về dịch vụ tài chính đã mời vị giám đốc đó đi ăn trưa. Khi ông đến nơi, một nhà tuyển dụng đã hỏi ông có thấy những chiếc xe đang đậu trong bãi không. Nhà tuyển dụng này sau đó đã chỉ vào một chiếc Ferrari mới toanh và nói nếu ông ký hợp đồng với họ thì họ sẽ ngay lập tức trao cho ông chìa khóa xe. Sau khi trả lời là không thích xe màu đỏ, vị giám đốc quay sang ký hợp đồng với một công ty khởi nghiệp khác, cũng đang tha thiết muốn mời ông.

Suy cho cùng, đó là những năm 90 náo nhiệt, và Thung lũng Silicon không phải là nơi duy nhất có nhiều sự huyên náo. Nếu thập niên 80 bắt đầu thời đại của lòng tham thì những năm cuối thập niên 90 đã càng củng cố nó. Đó là thời đại của Clinton và Blair, những nhà lãnh đạo đã “kế thừa” Reagan và Thatcher trong việc bãi bỏ phần lớn các quy định thị trường. Đó là thời kỳ mà những vết tích cuối cùng của thế hệ trước – từ phong trào lao động cho đến quan niệm xưa cũ về cuộc sống thoải mái khi về hưu với đồng hồ vàng và lương hưu – dần biền mất và được thay bằng hình ảnh hào nhoáng của Gordon Gekko, hay những bà mẹ thường xuyên đọc tạp chí Money và hy vọng trở thành triệu phú cổ phiếu sau một đêm. Những nhà tài chính của Phố Wall lúc đó đang kiếm được rất nhiều tiền, nhưng vẫn không nhiều bằng các chuyên gia công nghệ của Thung lũng Silicon – những kẻ khoác lên người sự hào nhoáng của đồng tiền và tự cho rằng mình đã kiếm được những đồng tiền đó khi tạo ra giá trị thực dưới hình thức công ty. Tất nhiên, phần lớn giá trị đó về sau được chứng minh là chỉ nằm trên giấy.

Những nhà đầu tư mạo hiểm trên phố Sand Hill đã rót hàng triệu đô-la vào các công ty dot-com của Thung lũng Silicon, và các nhà đầu tư Anh đang cố noi theo. Những ngân hàng ở châu Âu muốn có tỷ suất lợi nhuận cao hơn cũng cố nhảy vào guồng máy kiếm tiền dễ dàng của phong trào khởi nghiệp. Những tay chơi có tiếng ở châu Âu như ngân hàng ING của Hà Lan hay Credit Suisse First Boston – công ty con của gã khổng lồ tài chính Credit Suisse đến từ Thụy Sĩ – đã ráo riết săn lùng các thương vụ mới, thậm chí là nhờ các ngân hàng đầu tư Mỹ giúp họ nhận diện những mục tiêu sáng giá nhất.

Antfactory cũng cố xác định những mục tiêu như thế. Nhưng rõ ràng là lực lượng nòng cốt của đội ngũ này không thật sự có những kỹ năng cần thiết để có thể thành công. Hầu hết các dự án mà chúng tôi từng cân nhắc đều là bản sao của những công ty khởi nghiệp đã ra mắt và thành công, hoặc là những nỗ lực thiếu khôn ngoan nhằm tạo ra các nhánh Internet của những thương hiệu kinh điển hiện có. Bản thân tôi từng được giao nhiệm vụ quản lý dự án Peoplenews, một nền tảng về cơ bản là phiên bản trực tuyến của các tờ tạp chí “lá cải” lúc bấy giờ. Nhưng mọi thứ đều không có vẻ khả quan: chúng tôi không trình làng được bất kỳ thứ gì thật sự sáng tạo, chỉ là cố gắng tạo ra một sản phẩm gì đó có “.com” ở phần đuôi. Tôi nhớ mình đã đến chỗ làm mỗi ngày với cảm giác là mọi người chỉ đang giả vờ bận rộn, nghiên cứu những ý tưởng không có kết quả trong không gian làm việc mở – kiểu không gian mà tôi luôn tin là chỉ tác động tiêu cực đến khả năng hoàn thành công việc của mỗi người (vì không ai có thể suy nghĩ khi những người xung quanh cứ liên tục nói chuyện). Mặc dù những nhà sáng lập cố duy trì luồng giao dịch và báo chí không ngừng viết những câu chuyện tích cực đến ngây ngô về vườn ươm công nghệ “cây nhà lá vườn” ở London nhưng bên trong, Antfactory đã dần trở về với bản chất thật sự của nó – một nhóm cựu nhân viên ngân hàng của thành phố đang tìm cách kiếm tiền nhanh chóng.

Nếu nhìn toàn cảnh, bạn sẽ thấy đó là xu thế chung của toàn bộ cuộc bùng nổ dot-com cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000. Ở Thung lũng Silicon xa xôi, những công ty như Google, Amazon, PayPal và một vài công ty khác đang tạo ra các thị trường ngách bền vững – rồi cuối cùng chiếm luôn thị trường đó. Nhưng ngoài số đó ra, vẫn còn nhiều công ty khác. Trong bài Economic Scene (tạm dịch: Bối cảnh kinh tế) được viết cho tờ New York Times vào năm 2001, Hal Varian của Google nhận định: “Hệ quả tất yếu của người thắng có tất cả là kẻ thua không có gì, và chắc chắn sẽ luôn có nhiều kẻ thua cuộc hơn người chiến thắng”. Có lẽ đúng là vậy. Nhưng làn sóng hỗn loạn của hoạt động tài chính được thúc đẩy không chỉ bởi những tác nhân thị trường điển hình. Bây giờ nhìn lại, đó là biểu hiện của mối liên hệ ngày càng chặt chẽ giữa các thủ đô tài chính và trung tâm công nghệ trên thế giới với các hành lang quyền lực ở những thành phố như Washington hay Brussels. Và như nhà kinh tế học Mancur Olson từng cảnh báo nhiều thập niên trước, đó sẽ là khởi đầu của một vấn đề lớn đối với toàn bộ nền kinh tế chính trị, theo đó giới tinh hoa giàu có sẽ dùng tiền để mua cả hệ thống chính trị.

Trong khi ngành công nghệ chỉ mới tăng cường nỗ lực vận động hành lang trong khoảng thời gian từ giữa những năm 2000 đến nay thì vài năm trước đó, Phố Wall và Washington đã thành công trong việc vận động để thông qua những quy tắc mới liên quan đến quyền chọn cổ phiếu – hệ quả là những định giá vượt giá trị thực được đưa ra một cách hời hợt chẳng khác gì người ta ném xúc xắc trên bàn cá cược, góp phần thổi phồng bong bóng tài sản đến một kích thước lớn khủng khiếp. Cuộc điều chỉnh này diễn ra dưới thời Clinton, nhà cầm quyền vốn nhận được sự ủng hộ của cả Phố Wall lẫn Thung lũng Silicon. Bill Clinton – một trong những chính trị gia xuất sắc nhất mọi thời đại – đã tập hợp được một liên minh ủng hộ đông đảo trong Đảng Dân chủ, từ phe tiến bộ (những người thích thông điệp tranh cử của ông về việc thu hẹp khoảng cách bất bình đẳng), cho đến phe chú trọng kinh doanh (những người thích cách tiếp cận của ông trong tự do thương mại, tự do kinh tế). Trong đội ngũ của Clinton có người ủng hộ của cả hai phe, ví dụ như nhà kinh tế học tiến bộ từng đoạt giải Nobel Joseph E. Stiglitz đứng đầu Hội đồng Cố vấn Kinh tế, hoặc những đảng viên theo chủ nghĩa tân tự do như Bob Rubin và Larry Summers làm trong Bộ Tài chính. (Phó tham mưu của Summers là Sheryl Sandberg, cựu sinh viên xuất sắc của Harvard, về sau sẽ vận dụng lối tư duy “thị trường biết tự định hướng” để tạo ra hiệu ứng vô cùng mạnh mẽ ở cả Google lẫn Facebook.)

Những chiến dịch vận động đó cuối cùng đã dẫn đến xung đột về quyền chọn cổ phiếu – loại tiền giấy đã trở thành nguồn sống của Thung lũng Silicon và vật đặt cược hợp pháp trong sòng bạc phát triển từ cuộc bùng nổ dot-com. Cụ thể hơn, trước khi được chính quyền Reagan hợp pháp hóa vào năm 1982, việc mua lại cổ phiếu (các công ty đẩy giá cổ phiếu của chính họ bằng cách mua lại chúng trên thị trường mở) vốn là một vấn đề gây nhiều tranh cãi và được xem là một phương thức bất hợp pháp nhằm thao túng thị trường. Vào thời điểm đó, hoạt động này vẫn chưa thật sự đóng vai trò gì quan trọng trong hệ thống pháp lý nhiều lỗ hổng, bị chi phối bởi những khoản tiền tăng vọt và những quyết định tồi tệ của các doanh nghiệp; nhưng mọi thứ đã thay đổi vào những năm 1990 khi các công ty công nghệ của “nền kinh tế mới” thành công vận động chính phủ Clinton chống lại những nỗ lực nhằm giới thiệu các chuẩn mực kế toán mới buộc doanh nghiệp phải giảm giá trị cổ phiếu của họ trên sổ sách.

Nói cách khác, như Stiglitz đã chỉ ra, các công ty muốn những nhà quản trị cấp cao của họ có thể “mua cổ phiếu của công ty với giá thấp hơn thị trường nhưng sau đó lại coi như giá trị cổ phiếu không hề sụt giảm sau khi đổi chủ”. Khi những ý tưởng như thế được ủng hộ bởi cả những người thuộc phe bảo thủ lẫn những đảng viên chủ chốt của Đảng Dân chủ như Thượng nghị sĩ California là Barbara Boxer và Dianne Feinstein, đó là dấu hiệu cho thấy sức tác động của các cuộc vận động hành lang tài chính và công nghệ.

Chính quyền Clinton cũng ủng hộ ý tưởng trên. Họ quy định rằng thu nhập của CEO chỉ có thể được khấu trừ tối đa 1 triệu đô-la tiền thuế, nhưng lại không đặt ra bất kỳ giới hạn nào về mức khấu trừ cho những khoản thù lao “theo hiệu suất” trên 1 triệu đô-la, tạo cho các CEO cơ hội thu về những khoản tiền thậm chí còn lớn hơn được chi trả dưới dạng quyền chọn cổ phiếu. Stiglitz cho rằng đây là một trong những “di sản” phiền phức được để lại từ nhiệm kỳ của Bill Clinton: “Khi thông qua luật miễn giảm thuế đối với thù lao theo hiệu suất, họ chẳng có bất kỳ động thái nào để xác định liệu sự tăng giá cổ phiếu có liên quan đến hiệu suất hoạt động hay không. Bất kể giá trị cổ phiếu tăng là kết quả xuất phát từ nỗ lực của ban quản trị công ty, từ chính sách hạ lãi suất hay sự điều chỉnh giá dầu, điều luật thiên vị đó vẫn được thông qua”.

Tệ hơn, khi luật thuế dần được nới lỏng để dành sự ưu tiên cho vốn vay hơn là vốn chủ sở hữu (ngày nay, nợ ký quỹ của các công ty đang ở mức cao kỷ lục vì họ nhận được nhiều lợi ích về thuế khi vay vốn), nó đã tạo thêm nhiều động lực để các công ty thao túng giá cổ phiếu bằng cách mua lại. Stiglitz nhận xét: “Sự bùng nổ quyền chọn cổ phiếu đã thúc đẩy mọi loại hành vi xấu và làm cho mọi [công ty] đều có vẻ giàu tiềm năng hơn thực tế. Tất cả những điều này là nguyên nhân trực tiếp của cái mà tôi gọi là ’kế toán sáng tạo’ – hoạt động điều chỉnh sổ sách đang tàn phá nền kinh tế của chúng ta”.

Chuyện mua lại cổ phiếu đã trở thành một vấn đề thậm chí còn nghiêm trọng hơn sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, khi những công ty như Apple và Google lợi dụng lãi suất cực thấp (vốn được đưa ra nhằm thúc đẩy nền kinh tế dưới tác động của cuộc khủng hoảng) để phát hành vô số trái phiếu trên thị trường nợ Mỹ, dùng số tiền thu được để trả cho các cổ đông giàu nhất dưới hình thức cổ phiếu mua lại và cổ tức, từ đó làm tăng tỷ lệ phân chia tài sản. Nhưng trước khi điều đó diễn ra, một vấn đề khác đã xuất hiện vào đầu năm 2000: cuộc bùng nổ dot-com bắt đầu đổ vỡ. Vào ngày 10 tháng Ba năm 2000, các chỉ số trên sàn NASDAQ đạt đỉnh. Ba ngày sau đó, tin tức về việc Nhật một lần nữa lâm vào suy thoái đã gây ra tình trạng bán tháo cổ phiếu trên toàn cầu, dẫn tới “cuộc rút vốn hàng loạt” điển hình – các nhà đầu tư bắt đầu bán phá giá những cổ phiếu đã yếu sẵn và có những vấn đề mà trước đó được che đậy bởi “kế toán sáng tạo”. Ngày 20 tháng Ba, tạp chí Barron’s đăng câu chuyện trang bìa có tựa đề Burning Up: Warning – Internet Companies Are Running Out of Cash, Fast (tạm dịch: Tin nóng: Cảnh báo – Các công ty Internet đang cạn tiền rất nhanh). Các công ty bắt đầu đưa ra những báo cáo doanh thu hoàn toàn trái ngược, và các nhà đầu tư bắt đầu nhận ra nhiều công ty khởi nghiệp từng được ca ngợi thật ra đều hữu danh vô thực. Hồi kết đã đến khi Cục Dự trữ Liên bang quyết định tăng lãi suất. Những “khoản tiền dễ kiếm” chính thức cạn kiệt.

CUỘC SỤP ĐỔ DOT-COM

Khi cuộc khủng hoảng nổ ra, không chỉ những cái tên được nhiều người biết đến như Pets.com, mà hàng ngàn công ty khác cũng bị đóng cửa hoặc mua lại, chẳng hạn như eToys.com, Excite, Global Crossing, iVillage... Công ty Marimba được thành lập bởi Kim Polese – nữ hoàng Java tôi từng phỏng vấn nhiều năm trước trong chuyến đi đầu tiên đến Thung lũng Silicon – đã thất bại chỉ vài năm sau khi Polese được tạp chí Time vinh danh là một trong những “người Mỹ có ảnh hưởng nhất” vào năm 1997. Và ở London, công ty Boo.com mà tôi đề cập ở phần trước cũng phải đóng cửa văn phòng sau khi chi một khoản tiền lên tới 125 triệu đô-la cho các mẩu quảng cáo trên tạp chí, rượu sâm-banh tại văn phòng, vé máy bay hạng nhất và những bữa tiệc xa hoa trong khi lại bỏ bê việc đầu tư xây dựng một trang web thật sự có khả năng hoạt động. Trên thực tế, có nhiều công ty dot-com sụp đổ đến mức nhiều trang web đã được tạo ra chỉ để ghi nhận biên niên sử nhiều biến động của những công ty đó. Trang chủ của Yahoo cũng xuất hiện trong cái gọi là “dot-com Flop Tracker”, danh sách liệt kê các công ty dot-com ngừng hoạt động; chỉ có điều, nền tảng công nghệ có nguồn gốc từ Mỹ này là một trong số ít những trang web đã phát triển mạnh và có chỉ số tăng trưởng luôn ở mức hàng chục.

Đó là những vụ sụp đổ hợp pháp cuối những năm 1990, đầu những năm 2000. Và ngay sau đó là những vụ gian lận mà người ta bắt đầu chú ý đến, như họ vẫn thường làm khi thị trường chạm đáy. Ở cả Mỹ lẫn châu Âu những năm đó, nhiều cuộc điều tra của chính phủ và hàng trăm vụ kiện đã được tiến hành đối với các ngân hàng đầu tư, nhà phân tích và công ty công nghệ. Nhiều công ty nổi tiếng nhất châu Âu đã vướng vào các vụ bê bối với những cáo buộc khác nhau, từ cố ý đẩy giá cổ phiếu xấu cho đến giao dịch nội gián hoặc nhận hối lộ. Chẳng hạn, các nhà hoạt động vì quyền lợi cổ đông đã kiện ngân hàng Deutsche của Đức về hành vi bán phá giá 44 triệu cổ phiếu của Deutsche Telekom chỉ hai ngày sau khi một nhà phân tích của chính họ đưa ra khuyến nghị mua cổ phiếu này.

Một số nhà đầu tư châu Âu và châu Á thậm chí còn nhờ đến Melvyn Weiss – vị luật sư nổi tiếng cứng rắn của Manhattan – để xúc tiến những vụ kiện tập thể chống lại các ngân hàng Phố Wall và công ty công nghệ, bao gồm một số đơn vị có trụ sở tại châu Âu. Ví dụ, ngân hàng Credit Suisse First Boston – tổ chức có tên trong 49 trên tổng số 138 vụ kiện của Weiss – bị cáo buộc đã tăng phần trăm hoa hồng và nhận tiền hối lộ từ những khách hàng muốn giành quyền đầu tư trong một hạng mục IPO tiềm năng. Rất nhiều tay chơi lớn đã bị gọi tên, trong đó có cả Frank Quattrone, ông chủ của ngân hàng đầu tư công nghệ gây tranh cãi Credit Suisse First Boston. Những ngôi sao như Henry Blodget – chuyên gia phân tích nghiên cứu công nghệ của Oppenheimer, đồng thời cũng là người đầu tiên đoán trước được sự thành công của Amazon – bị buộc tội đẩy giá các cổ phiếu công nghệ mà ông biết là có vấn đề. Blodget cuối cùng bị kết tội gian lận chứng khoán, phải nộp phạt 2 triệu đô-la, bồi thường 2 triệu đô-la và bị cấm hoạt động trong ngành. Sau này, ông chuyển sang làm phóng viên công nghệ.

Đến cuối năm 2000, tôi ước gì mình vẫn là một phóng viên. Và ý muốn này xuất hiện trước cả khi mọi thứ chạm đáy: sự sụp đổ của Enron và WorldCom28 chỉ mới bắt đầu, và mặc dù thị trường đang đi xuống nhưng nó vẫn chưa chạm mức thấp nhất (cuối thời kỳ suy thoái dot-com, thị trường chứng khoán đã mất đến 5.000 tỷ đô-la vốn hóa thị trường). Nhưng khi đó, Antfactory đã trở thành một nơi làm việc tồi tệ. Charles Murphy luôn có vẻ chán chường; thậm chí, ông đã bị trầm cảm khi Heather vợ của ông – một nhà leo núi người Mỹ tóc vàng có dáng người nhỏ nhắn – bỏ ông để đến với ông trùm sòng bạc Nam Phi lớn tuổi có làn da rám nắng, Sol Kerzner. Nỗi đau thất bại của Murphy trở thành chủ đề bàn tán của giới săn tin ở London, những tờ báo lá cải sốt sắng đưa tin Heather đã đưa những đứa con của họ đến sống tại Paradise Island – một trong những khu nghỉ mát ở Caribbean của Kerzner. Mỗi sáng khi đi ngang văn phòng làm việc có vách bằng kính của Murphy, tôi sẽ thấy ông ngồi đó, tay ôm đầu. Ngay cả sự hài hước vui vẻ của Rob Bier cũng biến mất và được thay bằng thái độ “hãy nắm bắt những gì bạn có thể nắm bắt khi chúng vẫn còn tốt đẹp”. Không có gì ngạc nhiên khi đội ngũ chuyên viên ngân hàng và chuyên gia tư vấn trẻ từng tranh giành cơ hội gia nhập Antfactory nhanh chóng thưa dần.

28 Enron và Worldcom là hai công ty lớn, thường được nêu tên trong các vụ bê bối gian lận báo cáo tài chính chấn động thế giới thời điểm diễn ra cuộc khủng hoảng dot-com.

Bữa tiệc dường như đã thật sự kết thúc. Tôi quyết định rời Antfactory và quay về Newsweek để làm phóng viên mảng kinh tế châu Âu theo kế hoạch B mà tôi đã vạch ra từ trước.

Không lâu sau đó, chuyện gì đến rồi cũng đến. Vào tháng Chín năm 2001, các nhà đầu tư của Antfactory mất kiên nhẫn với ban lãnh đạo, yêu cầu họ trả lại khoản tiền 120 triệu đô-la và đóng cửa công ty. Tôi nghe nói nhiều năm về sau, Rob Bier đã trở thành một nhà đào tạo cho các CEO châu Á ở Singapore, còn Harpal Randhawa tinh anh và nhạy bén đã dấn thân vào lĩnh vực kinh doanh kim cương ở Zimbabwe. Nhìn chung, họ thành công hơn nhiều người sau cuộc sụp đổ. Về phần Charles Murphy, sau khi trở lại Hoa Kỳ làm việc cho các quỹ đầu tư nổi tiếng, ông dính vào vụ bê bối Bernie Madoff29 vì một công ty mà ông làm việc sau Antfactory đã đầu tư tiền cho Madoff theo lời giới thiệu của ông. Không thể duy trì lối sống hào nhoáng như trước, và không thể giữ nổi ngôi nhà phố sang trọng ở khu Upper East Side, Murphy chìm vào tuyệt vọng. Tháng Ba năm 2017, ông nhảy lầu tự tử từ tầng 24 của khách sạn Sofitel tại Thành phố New York.

29 Bernie Madoff (1938-2021) là một nhà tài phiệt Phố Wall từng giữ chức chủ tịch sàn giao dịch chứng khoán NASDAQ. Ông đồng thời cũng là tay siêu lừa bị căm ghét nhất thị trường chứng khoán với vụ lừa đảo lớn nhất lịch sử chứng khoán thế giới bằng mô hình Ponzi (lấy tiền nhà đầu tư sau trả cho nhà đầu tư trước và lợi dụng tiền của họ để tự kinh doanh). Số tiền Madoff đã lừa các nhà đầu tư được ước tính là lên tới 65 tỷ đô-la Mỹ.

LIỆU LẦN NÀY SẼ KHÁC?

Tôi thường nghĩ về những năm tháng tăm tối đó và tự hỏi điều gì đã thay đổi trong thế giới công nghệ, điều gì không. Mức độ phát triển của thị trường công nghệ ngày nay cao hơn rất nhiều so với trước kia, từ cơ sở hạ tầng cho đến những sự cách tân mang tính đột phá. Chúng ta vừa bước vào kỷ nguyên của trí tuệ nhân tạo, Internet vạn vật và những lĩnh vực mà nhiều doanh nghiệp đang dựa vào đó để thúc đẩy doanh thu trong tương lai. Việc họ có tăng trưởng được không là câu hỏi chỉ có thể được trả lời trong những năm sắp tới, nhưng có thể nói rằng việc máy móc trao đổi thông tin với nhau sẽ mang lại nhiều ứng dụng thực tiễn và hiệu quả hơn rất nhiều so với các diễn đàn buôn chuyện ngày trước. Chắc chắn, nhiều công ty được thành lập trong thập niên vừa qua sẽ có nhiều quyền lực hơn những công ty của thế hệ trước; bản thân Internet cũng đã trở thành một nền tảng quan trọng của nền kinh tế, có thể tạo ra cơ hội và thúc đẩy sự phát triển về quy mô.

Nhưng điều đó sẽ không đúng với mọi công ty. Có một thực tế đáng lo ngại là lĩnh vực công nghệ ngày nay có nhiều khía cạnh giống với những gì đã diễn ra cuối những năm 1990: những đồng tiền dễ kiếm và hàng loạt ý tưởng sao chép nhau đã tạo ra một quả bong bóng đang xẹp dần. Ở phần sau của quyển sách này, chúng ta sẽ cùng xem xét vụ IPO mờ nhạt của Uber và sự thăng trầm của Jawbone, nhà sản xuất thiết bị đeo công nghệ hiện không còn tồn tại. Ở thời kỳ đỉnh cao, Jawbone đã trao các thiết bị đeo tay có chức năng theo dõi sức khỏe và màu sắc rực rỡ như những chiếc kẹo mút cho các nhân vật cộm cán ở Davos, để rồi chỉ vài năm sau đó họ tự xà xẻo chính mình đem bán. Bạn có thể lập luận rằng Jawbone là nạn nhân của việc tham gia quá sớm vào thị trường (họ ra mắt các thiết bị hỗ trợ Bluetooth vào cuối những năm 1990), hoặc nhận ra quá muộn rằng các tính năng như theo dõi giấc ngủ hay bước đi sẽ sớm được thực hiện bởi các ứng dụng chạy trên hệ điều hành iOS hay Android, thay vì các công nghệ độc lập có thể đảm bảo sự sống còn của các thiết bị và hệ sinh thái của riêng họ.

Nhưng bạn cũng có thể dễ dàng lập luận rằng “kỳ lân công nghệ” này – ở thời điểm thành công nhất từng được định giá tới 3,2 tỷ đô-la và thu hút tiền từ các nhà đầu tư mạo hiểm thành công nhất thế giới như Sequoia Capital, Kleiner Perkins, Andreessen Horowitz và Khosla Ventures – là một nạn nhân của sự thành công của chính mình. Như một ví dụ điển hình của cái gọi là “hiệu ứng gan ngỗng béo”30 (Foie Gras effect), công ty này đã ngốn quá nhiều tiền và đạt mức định giá cao đến mức họ trở nên “to bự” và “béo bở” đến mức không tốt cho “sức khỏe của chính họ”.

30 Foie Gras là một món ăn nổi tiếng của Pháp, được chế biến từ gan của những con ngỗng được nuôi bằng chế độ dinh dưỡng đặc biệt nhằm vỗ béo. Thuật ngữ “hiệu ứng gan ngỗng béo” hoặc “hiệu ứng Foie Gras” được dùng để chỉ việc quá nhiều tiền đầu tư đổ vào một công ty khởi nghiệp non trẻ có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của nó về lâu dài.

Jawbone rốt cuộc phải cầu cạnh Cơ quan Đầu tư Kuwait để có tiền duy trì sự tồn tại. Đây không phải là một dấu hiệu tốt, vì quỹ tài sản của các quốc gia giàu có không hẳn là nguồn tiền thông minh cho Thung lũng Silicon. Những quỹ này có xu hướng đầu tư nhiều nhưng muộn; họ sẵn sàng giải ngân rất nhiều tiền vào những thời điểm mà các bên khác không còn hứng thú đầu tư, hoặc khi các công ty khởi nghiệp muốn tăng mức định giá trước đợt IPO. Trên thực tế, nhiều công ty nền tảng Big Tech từng nhận tiền từ các quốc gia Trung Đông về sau đã phải hối hận. Chẳng hạn, sau khi nhận tài trợ từ chính phủ Saudi Arabia, Uber phải rất vất vả để tách khỏi Thái tử Mohammed bin Salman, kẻ chuyên quyền được cho là đã ra lệnh sát hại nhà báo Jamal Khashoggi (dĩ nhiên ông ta đã phủ nhận cáo buộc này). Ngay sau khi vụ việc vỡ lở, lãnh đạo Uber đã lúng túng tuyên bố rút khỏi một hội nghị đầu tư lớn của Saudi Arabia gọi là “Davos trong sa mạc” (cùng một số doanh nhân cấp cao khác của Hoa Kỳ).

Sự sụp đổ của các công ty như Jawbone và sự ảm đạm của các đợt IPO gần đây chỉ là hai trong số nhiều dấu hiệu của nền kinh tế bong bóng ở Thung lũng. Nợ nần chồng chất là dấu hiệu thứ ba. Chẳng hạn, Netflix từng huy động được 2 tỷ đô-la trong một đợt chào bán trái phiếu rác31 để huy động vốn phát triển những nội dung mới. Thật thú vị khi chờ xem vòng tiếp theo của các đợt IPO được kỳ vọng sẽ diễn ra như thế nào, hoặc có diễn ra hay không. Nhiều công ty công nghệ hàng đầu đã chọn làm doanh nghiệp tư nhân lâu hơn, với hy vọng có thể tăng mức định giá và nâng cao kỳ vọng. Cả Uber lẫn Lyft đều đã có những đợt lên sàn đáng thất vọng khi tôi đang hoàn thành quyển sách này. Và tôi nghĩ họ không phải là những công ty duy nhất không thể đáp ứng kỳ vọng của giới đầu tư; rất có thể cái tên tiếp theo sẽ là SpaceX của Elon Musk. Những báu vật của ngày hôm nay hoàn toàn có nguy cơ trở thành đồ bỏ đi của ngày mai. Khi tôi hoàn thành cuốn sách này, SoftBank – tổ chức đầu tư công nghệ của Nhật – đã hủy bỏ kế hoạch chi 16 tỷ đô-la để mua cổ phần của công ty khởi nghiệp WeWork.

31 Trái phiếu rác (junk bond) – còn được gọi là trái phiếu đầu cơ hoặc trái phiếu rủi ro cao – là loại trái phiếu có giá trị thấp và lãi suất cao, thường được phát hành bởi một công ty cần huy động nhiều tiền trong thời gian ngắn.

Những tay kỳ cựu ở Thung lũng đã nhận ra mặt tối của làn sóng công nghệ này. Nhà đầu tư Tim O’Reilly – giám đốc điều hành của công ty O’Reilly Media kiêm tác giả của WTF? What’s the Future and Why It’s Up to Us (tạm dịch: Tương lai là gì và tại sao nó lại phụ thuộc vào chúng ta?), một quyển sách nói về vai trò của Thung lũng Silicon trong nền kinh tế phân nhánh của Mỹ – cho biết: “Xét trên một phương diện nào đó, Jawbone khiến tôi nhớ đến Palm [nhà sản xuất thiết bị hỗ trợ kỹ thuật số cá nhân trước đây], theo nghĩa là thị trường họ kinh doanh có tồn tại. Nhưng ở một phương diện khác, nó phản ánh sự tài chính hóa của lĩnh vực công nghệ. Jawbone cưỡi trên một làn sóng kỳ vọng mà cuối cùng chỉ mang bản chất đầu cơ và là ‘cơn sốt hoa tulip’32 của thị trường công nghệ”.

32 Cơn sốt hoa tulip diễn ra vào thế kỷ 17 tại Hà Lan, khi giá hoa tulip tăng vọt tới mức bất thường rồi đột ngột sụt giảm. Đây được xem là vụ vỡ bong bóng đã khiến nền kinh tế Hà Lan chịu một cú sốc nặng nề và cũng là bong bóng đầu cơ đầu tiên được ghi nhận trong lịch sử.

Có vẻ như không có quá nhiều thay đổi kể từ năm 2000, khi những công ty khởi nghiệp như Pets.com có thể lên sàn và tăng giá cổ phiếu ngay cả khi họ đang thua lỗ hàng trăm triệu đô-la. Đúng vậy, hệ sinh thái kỹ thuật số kể từ đó đã phát triển, thay đổi và bén rễ sâu hơn. Và đúng vậy, các công ty ngày nay khó mà nhận được tài trợ chỉ bằng cách gắn phần .com vào sau tên của họ. Nhưng bây giờ cũng giống như ngày trước, bạn không nhất thiết phải có lợi nhuận – hoặc đơn giản là được khách hàng trả tiền – để thu hút sự quan tâm của giới đầu tư. Tất cả những gì bạn cần là “người dùng” trong một thị trường ngách hấp dẫn. Tôi luôn cảm thấy có một mánh khóe lừa đảo tinh vi trong toàn bộ mô hình này.

Tuy nhiên, như cựu giám đốc điều hành Chuck Prince của Citibank từng châm biếm, “miễn là nhạc còn chơi thì bạn còn đứng dậy nhảy múa”. Trong hơn năm năm qua, có một sự gia tăng đột biến về số lượng “kỳ lân công nghệ” – công ty khởi nghiệp có giá trị vốn hóa thị trường hơn 1 tỷ đô-la – được hỗ trợ bằng vốn đầu tư mạo hiểm. Rào cản gia nhập thấp đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều tay chơi bước vào thị trường và tham gia một cuộc đua chi tiền càng nhiều càng tốt để giành thị phần. Các công ty tư nhân được khai sinh từ chu kỳ kém hiệu quả này không phải là những tổ chức duy nhất trở nên phình to mà bản thân các quỹ mạo hiểm cũng vậy. Những quỹ mạo hiểm hàng tỷ đô-la trước kia chúng ta chưa từng nghe đến giờ đã trở nên rất phổ biến. Năm 2018, Sequoia đã huy động được 8 tỷ đô-la quỹ hạt giống, và SoftBank huy động được một nguồn quỹ khổng lồ lên tới 100 tỷ đô-la.

Tất nhiên, gió to sẽ tạo sóng lớn. Các giám đốc điều hành lịch lãm cùng đội ngũ PR của họ đã kể những câu chuyện hấp dẫn xoay quanh các thiết bị đeo, xe hơi điện, nền kinh tế “chia sẻ” và an ninh mạng. Tiếp đến, họ truyền đi các tín hiệu thị trường về “giá trị” của chính họ bằng những thông báo có liên quan đến những câu chuyện đó, chẳng hạn như Uber mua lại hãng xe tải tự lái Otto với giá 680 triệu đô-la. Sau đó, các nhà đầu tư mạo hiểm và giới đầu tư tư nhân cố gắng duy trì các bong bóng này bằng cách tiếp tục mua thêm cổ phiếu với mức định giá ngày càng cao hơn. Khi ngày càng có nhiều công ty đầu tư mạo hiểm nặng ký tham gia cuộc chơi và làm tăng giá trị của các công ty khởi nghiệp, những người khác cũng phải cố mua theo. Họ chỉ có hai lựa chọn, hoặc tăng mức cược, hoặc rời bỏ cuộc chơi.

Xu hướng này không chỉ tạo hiệu ứng bong bóng trên thị trường IPO mà còn gây bất lợi cho hàng loạt các công ty đại chúng khác, những tổ chức thật sự phải lo lắng về lợi nhuận. Hai ví dụ điển hình là ngành taxi bị Uber xâm lấn và ngành khách sạn bị Airbnb chiếm thị phần. Điều này có thể tốt cho một số nhà đầu tư mạo hiểm, những đơn vị có thể sử dụng giá trị thổi phồng trên sổ sách của các kỳ lân công nghệ để huy động thêm nhiều tiền và tính thêm phí quản lý. Nhưng xét về giá trị kinh tế nói chung, tôi không thể thấy bất kỳ mặt tích cực nào trong xu hướng đó.

Không những vậy, vì vốn được tạo ra từ việc định giá dựa trên các câu chuyện “thần thoại” nhiều hơn là sự thật, nên số tiền đó thường được sử dụng để trả các khoản lương cao ngất ngưởng thay vì đầu tư cho hoạt động R&D hoặc tăng trưởng. Tất nhiên, khi lương tăng vọt thì giá bất động sản, dịch vụ và nhân công cũng tăng theo. Bạn sẽ không khỏi ngạc nhiên khi biết được mức giá của những ngôi nhà lắp ghép theo kiểu trang trại trên Cao tốc 101 băng qua Thung lũng Silicon. Toàn bộ vòng lẩn quẩn này là “cơn điên của đám đông”, như Charles Mackay mô tả trong nghiên cứu có sức ảnh hưởng của ông về tâm lý đám đông được xuất bản vào năm 1841. Vấn đề với tâm lý bầy đàn này là thường chỉ có một số công ty chiến thắng, và những kẻ chiến thắng đó thường là một số ít các công ty có thể tận dụng hiệu ứng mạng của họ để nắm bắt và kiểm soát dữ liệu cũng như hệ sinh thái người dùng. Đó là lý do tại sao tôi luôn hoài nghi về giá trị của hầu hết các tổ chức công nghệ, cả doanh nghiệp tư nhân lẫn công ty đại chúng, ngoại trừ những gã khổng lồ nền tảng cũng như những doanh nghiệp đang phụ thuộc vào việc giữ nguyên các quy định hiện hành trong lĩnh vực thương mại kỹ thuật số.

Nền kinh tế hiện tại có nhiều điểm khiến tôi nhớ về thời gian mình làm việc trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm ở London. Khoảng thời gian đó, cũng như bây giờ, chúng ta đã bước vào giai đoạn cuối của chu kỳ tín dụng, dùng quá nhiều tiền để theo đuổi quá ít giá trị. Và khi đó, cũng như bây giờ, các nhà đầu tư đều trông chờ vào các đợt IPO tiềm năng để châm thêm một chút dầu cho thị trường rõ ràng đã bị lạm phát quá mức. Tất cả chúng ta đều biết thời kỳ đó đã kết thúc như thế nào, ở cả hai bên bờ Đại Tây Dương. Nói như vậy không có nghĩa là thời kỳ đó không tạo ra bất kỳ giá trị nào như chúng ta đang tạo ra ở hiện tại. Tương đương với mỗi nhà bán lẻ thức ăn thú cưng không thành công hoặc một nhà cung cấp áo phông đắt tiền ngừng kinh doanh trong thời kỳ dot-com là hàng ngàn mét cáp băng thông rộng được lắp đặt, tạo nên cơ sở hạ tầng mà Google và nhiều công ty khác hiện đang tận dụng.

Nền kinh tế kỹ thuật số ngày nay có những tiện ích và quy mô kinh tế mà trước kia không có. Nhưng bong bóng ngày nay cũng lớn hơn và nguy hiểm hơn, có tác động sâu rộng hơn. Vốn đầu tư mạo hiểm sụp đổ sau năm 2000 đã tăng lên rồi giảm xuống sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, sau đó lại tăng kỷ lục sau năm 2014. Dù công nghệ đã giúp cho việc thành lập một công ty trở nên ít tốn kém hơn, nhưng thành công ngày nay lại có cái giá đắt hơn rất nhiều. Nguyên nhân xuất phát từ cuộc “chạy đua vũ trang” để xây dựng “công ty khởi nghiệp kỳ lân” tiếp theo. Trong Unicorns, Cheshire Cats, and the New Dilemmas of Entrepreneurial Finance (tạm dịch: Kỳ lân, mèo Cheshire và thế tiến thoái lưỡng nan trong tài chính khởi nghiệp), bài nghiên cứu về sự chuyển dịch trong vốn tài trợ khởi nghiệp, học giả Martin Kenney và John Zysman của Đại học California đã viết: “Mỗi công ty khởi nghiệp đều cố gắng kích hoạt động lực người thắng cuộc giành được tất cả bằng cách nhanh chóng mở rộng quy mô, được thể hiện qua sự tăng trưởng nhanh đột biến và hầu như luôn rất tốn kém, không có định hướng rõ ràng để thu được lợi nhuận”.

Chừng nào các nhà đầu tư còn chấp nhận sự tăng trưởng như một thước đo giá trị, “nhạc vẫn còn chơi”. Nhưng các học giả của Đại học California cũng cảnh báo: “Kỳ lân là những con vật thần thoại”. Trong những năm tới, thực tế tài chính của họ và tính bền vững của mô hình huy động vốn hiện tại sẽ là chủ đề của một số bài kiểm tra cần thiết. Một số dự án mới của các công ty được quảng cáo rầm rộ cuối cùng có thể biến thành những chú mèo Cheshire33, đột ngột biến mất và để lại phía sau nụ cười của những người đã kịp thoát ra trước khi bong bóng vỡ.

33 Mèo Cheshire là một nhân vật hư cấu trong câu chuyện Alice in Wonderland (Cuộc phiêu lưu của Alice ở xứ sở thần tiên), có nụ cười toe toét và khả năng xuất hiện hay biến mất bất cứ khi nào nó muốn.