Email là “món quà” không ngừng mang đến sự bất ngờ. Suốt nhiều năm, Facebook và Google luôn tự gắn mác họ là những người ủng hộ tự do, dân chủ hóa thông tin và kết nối thế giới. Nhưng khi đọc email nội bộ của họ, bạn thường sẽ thấy một câu chuyện khác. Vào mùa đông năm 2018, khi các nhà lập pháp Anh công bố một loạt email của Facebook từ năm 2012 đến năm 2015, kiểu hành xử hai mặt của các nhà quản lý cấp cao trong công ty này đã được hé lộ.
Không có gì ngạc nhiên khi mọi công ty lớn đều tập trung theo đuổi một mục tiêu duy nhất là tăng trưởng. Đó là mục đích cuối cùng của chủ nghĩa tư bản, hay ít nhất là của loại chủ nghĩa tư bản đang tồn tại ở Mỹ và hầu hết các nước châu Âu tại thời điểm này. Nhưng điều ít ai ngờ đến là các gã khổng lồ công nghệ đã lợi dụng chính những quy định chống cạnh tranh để duy trì và thậm chí là đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng của họ, theo những cách chắc chắn sẽ gây ra sự phản đối dữ dội đối với chính sách khi được áp dụng ở lĩnh vực khác.
Đầu tiên là cách Facebook sử dụng quy mô và tầm ảnh hưởng của mình để đè bẹp đối thủ cạnh tranh. Khi mạng lưới của họ phát triển, Facebook trở thành một công ty độc quyền. Họ vận hành một nền tảng – giống như hệ thống đường sắt hoặc một loại tiện ích hằng ngày – mà nhiều người buộc phải sử dụng nếu muốn tiếp cận những đối tượng nhất định. Do đó, Facebook có thể yêu cầu gần như bất cứ thứ gì họ muốn từ những người cần sử dụng mạng lưới cũng như dữ liệu của họ để phát triển công việc kinh doanh. Tương tự, đối với bất kỳ ai và vì bất kỳ lý do gì, trang mạng này cũng có thể từ chối, không cấp quyền truy cập vào kho dữ liệu người dùng khổng lồ họ có (dù kho dữ liệu này chính là lý do duy nhất khiến các doanh nghiệp khác quan tâm đến việc sử dụng Facebook).
Theo thông tin được thể hiện trên 250 trang email và tài liệu do các nhà lập pháp Anh công bố, chỉ những công ty không được xem là đối thủ cạnh tranh của Facebook như Airbnb, Lyft, Netflix, Ngân hàng Royal của Canada và một số công ty không liên quan đến công nghệ... mới được ưu tiên truy cập dữ liệu. Còn những công ty mà Facebook đã xác định là đối thủ cạnh tranh (như ứng dụng video Vine thuộc sở hữu của Twitter chẳng hạn) sẽ bị từ chối cấp quyền truy cập Facebook, thậm chí là bị chặn khỏi tất cả các mạng lưới của ông lớn này. Thật vậy, sau khi Twitter ra mắt Vine vào năm 2013, Facebook đã khóa quyền truy cập của Twitter đối với dữ liệu bạn bè trên Facebook theo lệnh Zuckerberg.
Không những vậy, các email đã cho thấy Zuckerberg từng nói đến việc tính phí các lập trình viên khi họ truy cập vào dữ liệu người dùng của Facebook, đồng thời buộc họ phải chia sẻ dữ liệu người dùng mà họ đã thu thập được. Gã khổng lồ này thậm chí còn xem xét việc hạn chế truy cập một số loại dữ liệu nhất định, trừ khi lập trình viên đồng ý mua quảng cáo trên Facebook. Zuckerberg viết: “Việc chia sẻ dữ liệu không có lợi cho chúng ta, trừ khi mọi người cũng chia sẻ với chúng ta và dữ liệu đó có thể giúp chúng ta gia tăng giá trị. Nói tóm lại, tôi cho rằng mục đích của các nền tảng... là thúc đẩy mọi người chia sẻ với Facebook”. Trong một email phản hồi, Sheryl Sandberg đã tán thành ý tưởng của vị CEO. Trong nội dung trao đổi về việc “khiến thế giới trở nên cởi mở và kết nối chặt chẽ hơn” mà cô ta và Zuckerberg đã cố giấu kín, Sandberg viết: “Tôi nghĩ điều quan trọng cần hiểu là chúng ta cố gắng tối đa hóa việc chia sẻ trên Facebook chứ không chỉ là chia sẻ chung chung cho thế giới”.
Dường như khi nói đến việc phát triển mạng lưới, không có gì là giới hạn. Điều này cũng không có gì lạ, bởi như chúng ta sẽ tìm hiểu, mạng là nơi các giá trị tồn tại. Và Facebook cần phát triển mạng lưới của họ bằng mọi giá. Đó là lý do tại sao các nhà quản trị chấp nhận thực hiện những chiến dịch PR nhiều rủi ro để các ứng dụng Android được cho phép ghi nhận lịch sử cuộc gọi của người dùng. Đây là hành vi xâm phạm quyền riêng tư ở một cấp độ mới – nó tạo ra nhiều dữ liệu có thể khai thác hơn, từ đó gia tăng khả năng phát triển của Facebook.
HỆ ĐIỀU HÀNH CUỘC SỐNG
Năm 2011, cùng khoảng thời gian mà nhiều cơ quan chính quyền Mỹ cũng như các cơ quan quản lý châu Âu và châu Á bắt đầu xem xét những hoạt động cạnh tranh của Google, FTC mở cuộc điều tra với trọng tâm xoay quanh cáo buộc rằng Google đang thâu tóm quyền lực độc quyền trên nhiều thị trường khác nhau và sẽ sử dụng quyền lực độc quyền này để đánh bại các đối thủ cạnh tranh nếu có thể. Vụ kiện một phần bắt nguồn từ những khiếu nại của Yelp – một dịch vụ tìm kiếm phổ biến ở Mỹ, chuyên về những thông tin đặc thù và đậm chất địa phương, ví dụ như dịch vụ giữ trẻ ban ngày nào là tốt nhất Portland hoặc nơi nào có món Thái ngon nhất Boston.
Rắc rối bắt đầu từ nhiều năm trước, khi Yelp – lúc đó chỉ là một công ty khởi nghiệp non trẻ – ký một thỏa thuận với Google, cho phép gã khổng lồ tìm kiếm này được sử dụng một số nội dung của Yelp, bao gồm cả những bài đánh giá về các dịch vụ địa phương mà người dùng đã đăng trên nền tảng này. Đây thực chất là một thỏa thuận đôi bên cùng có lợi: nó cho phép Google, nền tảng lúc đó chưa thật sự có dịch vụ tìm kiếm thông tin địa phương, truy cập vào những nội dung cụ thể trên Yelp; và nó giúp Yelp, nền tảng đang cần thu hút sự chú ý của mọi người, tăng lưu lượng truy cập. Jeremy Stoppelman – người đã sáng lập Yelp cùng doanh nhân công nghệ Russel Simmons – cho biết: “Thời điểm đó, chúng tôi nghĩ làm bạn với Google sẽ tốt hơn là đối đầu với họ”. Hơn nữa, khi đó Yelp vẫn đang dựa vào Google để tạo lưu lượng truy cập. Suy cho cùng, Google vẫn là “đại lộ” tìm kiếm mà hầu hết người dùng đều tìm đến, nhờ vào hiệu ứng mạng lưới vốn mang lại nhiều lợi ích cho những tay chơi lớn nhất.
Ngay từ đầu, Yelp cũng như nhiều “công cụ tìm kiếm dọc”36 tương tự đã hoạt động trong một lĩnh vực tìm kiếm rất khác so với Google: họ xử lý những nội dung thuộc phạm vi hẹp hơn với độ chính xác cực kỳ cao, chứ không phải chỉ “kiếm ăn” từ những thông tin “phổ quát” như Google. Tuy vậy, khi việc tìm kiếm những thông tin mang tính địa phương ngày càng trở nên phổ biến, Google quyết định lấn sâu hơn vào sân chơi này. Thêm vào đó, sự trỗi dậy của điện thoại thông minh cùng với sự lớn mạnh của Amazon cũng gây thêm áp lực cho Google, buộc họ phải tìm cách củng cố vị thế của mình trên một thị trường công nghệ rộng lớn hơn. Nếu muốn trở thành “hệ điều hành cuộc sống của mọi người”, Google không thể đứng ngoài bất kỳ phân khúc nào – dù lớn hay nhỏ – trên thị trường tìm kiếm. Vì vậy, vài năm sau khi ký thỏa thuận với Yelp, Google chủ động thêm tính năng “tìm kiếm địa phương” trên nền tảng của họ và cho phép người dùng đánh giá cũng như chấm điểm các dịch vụ, như Yelp đã làm. Với nỗi lo (tất nhiên là hoàn toàn chính đáng) rằng Google đang cố tình sao chép mô hình kinh doanh của mình, Stoppelman quyết định không gia hạn hợp đồng với Google. Hai năm sau đó, Google tìm cách mua lại Yelp với mức giá khổng lồ là 550 triệu đô-la nhưng không thành công.
36 “Công cụ tìm kiếm dọc” (vertical search engine) là thuật ngữ dùng để chỉ những công cụ tìm kiếm chỉ tập trung vào một số lĩnh vực và nhóm thông tin nhất định.
Đó cũng là lúc mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm. Luther Lowe – giám đốc chính sách của Yelp, một trong những người đứng sau nỗ lực kêu gọi cơ quan quản lý chú ý đến những thủ đoạn chống cạnh tranh của Google – cho biết: “Thời điểm đó, một nửa số lượt tìm kiếm trên điện thoại thông minh đều là về những thông tin đặc thù, mang tính địa phương”. Vì vậy để nắm bắt lượng truy cập này, Google – theo Lowe suy luận – đã hiển thị kết quả tìm kiếm địa phương của mình phía trên thông tin của Yelp cũng như của các đối thủ cạnh tranh khác, với chiêu bài là việc này sẽ giúp giao diện thân thiện với người dùng hơn và cho ra kết quả tìm kiếm “hữu ích hơn”. Tất nhiên, như hàng loạt tài liệu phức tạp của FTC đã chỉ rõ, “hữu ích hơn” ở đây được định nghĩa đơn giản là bất cứ điều gì có lợi hơn cho Google.
“Thời điểm đó, họ có một động lực rất lớn để bành trướng sức mạnh thống trị mạng lưới của mình bằng cách thu hút mọi người qua bản sao Yelp của riêng họ”, Lowe nhận định. Trong biên bản họp vô tình bị rò rỉ sau một yêu cầu công khai hồ sơ được đăng trên tạp chí The Wall Street Journal, các cán bộ của FTC đã ghi nhận những số liệu ước tính cho thấy việc tạo ra một sân chơi bình đẳng hơn sẽ khiến Google phải chịu “lỗ đến 154 triệu đô-la mỗi năm” trong mảng tìm kiếm sản phẩm. Tài liệu này cũng ghi nhận: “Trong một số lĩnh vực cụ thể mà Google đã có sẵn thông tin tìm kiếm địa phương (như địa điểm mua sắm chẳng hạn), Google nhận thấy họ thật sự cần đầu tư nhiều hơn và thực hiện thêm các biện pháp nhằm tăng lưu lượng truy cập đến những dịch vụ họ cung cấp”. Kết quả là nhiều chỉ thị đã được đưa ra từ các cuộc họp ở cấp quản trị, yêu cầu tiến hành các biện pháp nhằm ngăn chặn cạnh tranh, bất chấp điều đó tác động thế nào đến chất lượng tìm kiếm. (Một chú thích cuối trang có ghi: “Larry cho rằng [Google] cần được hiển thị nhiều hơn”.) Và điều này có nghĩa là bản thân gã khổng lồ sẽ luôn được ưu tiên ở những vị trí hàng đầu của kết quả tìm kiếm. “Khi thuật toán của Google xác định những trang web địa phương (như Yelp hay CitySearch) có nội dung phù hợp với truy vấn của người dùng, Google sẽ tự động trả về kết quả tìm kiếm có Google Local nằm ở vị trí hàng đầu [trong danh sách kết quả].”
Như các tài liệu rò rỉ đã thể hiện, cách tiếp cận chống cạnh tranh “bằng mọi giá” của Google vốn bắt nguồn từ những lãnh đạo ở cấp cao nhất của công ty. Trong một phần nội dung, Marissa Mayer – thời điểm đó đang quản lý các dịch vụ về định vị, bản đồ, địa phương của Google – đã đưa ra những lý lẽ ủng hộ việc sử dụng các thuật toán tìm kiếm có lợi cho các dịch vụ của chính Google. Ở một phần khác, chuyên gia cấp cao về kinh tế của Google là Hal Varian thừa nhận: “Nhìn từ góc độ chống độc quyền, tôi rất vui khi thấy [comScore] đánh giá thấp thị phần của chúng ta”.
Nhiều năm qua, Lowe đã luôn tìm cách để chứng minh cho các cơ quan quản lý trên ba lục địa khác nhau thấy rằng Google đã cố tình dành cho các sản phẩm của chính họ sự ưu tiên đặc biệt. Ông cho biết: “Động cơ chủ chốt của Google là trở thành nền tảng trung gian cho mọi hoạt động trên Internet”. Google biết rằng họ có thể tận dụng sức mạnh mạng lưới và hệ sinh thái của mình để xóa sổ những đối thủ cạnh tranh như Yelp khỏi Internet. Lowe nói: “Nhiều năm trước, nếu sử dụng điện thoại Android có cài sẵn ứng dụng Google Places thì khi nhấp vào ứng dụng đó, có thể bạn sẽ đọc được bài đánh giá của Yelp về một nhà hàng hoặc một địa điểm nào đó, nhưng lại không thấy bất kỳ đường dẫn hay thông tin trích nguồn nào”.
Điều đó đã thay đổi vào năm 2011, khi Yelp tìm đến các tổng chưởng lý bang và nhiều nhà làm luật khác để trình bày câu chuyện phức tạp về việc Google đang gây bất lợi cho các đối thủ cạnh tranh trong những lĩnh vực mà họ muốn phát triển kinh doanh. Lowe kể rằng trong một hội nghị ở Hawaii, các thành viên của Yelp đã có phần thuyết trình hấp dẫn đến mức thu hút được sự chú ý lắng nghe của nhiều tổng chưởng lý (một số người sau đó còn tiến hành khởi kiện Google). Lowe cho hay trong buổi hội nghị hôm đó có cả người của Google, và “trông họ cứ như vừa nhìn thấy ma vậy”. Mặc dù sau hội nghị, Google đã cải thiện phần nào cách xử lý dữ liệu nội dung của Yelp, nhưng “thiệt hại đã xảy ra, và Google cũng đã thu thập đủ lượt theo dõi cũng như đánh giá cho nền tảng của riêng mình nên họ không cần Yelp nhiều như trước nữa”. Tuy vẫn tồn tại nhưng Yelp phải rất vất vả mới duy trì được thị phần, và tất nhiên họ chỉ là một nển tảng rất nhỏ so với quy mô của Google. Hiệu ứng mạng đã phát huy tác dụng.
Vụ kiện sau cùng đã bị bác bỏ, và đây là một quyết định rất bất thường bởi khuyến nghị khởi kiện vốn do chính cơ quan quản lý cạnh tranh của FTC đưa ra. Nhiều nguồn tin tôi tìm hiểu cho biết họ cảm thấy quyết định đó xuất phát từ sức mạnh vận động hành lang của Google ở Washington: gã khổng lồ này không chỉ đưa những lãnh đạo cấp cao của công ty đến gặp trực tiếp các chính trị gia, mà còn tài trợ cho nhiều nghiên cứu có lợi cho họ (một số nghiên cứu đã được thực hiện bởi những học giả như Joshua Wright, người gia nhập FTC ngay trước khi vụ kiện bị bác bỏ).
Trước những lo ngại của công chúng, Kent Walker – giám đốc pháp lý của Google – không trực tiếp phủ nhận mà chỉ tìm cách xoa dịu: “Liên quan đến chuyện vận động hành lang, điều quan trọng cần lưu ý là vụ kiện đã được xem xét bởi các cán bộ chuyên nghiệp từ cả ba đơn vị trực thuộc FTC là Cục quản lý cạnh tranh, Cục Kinh tế cùng Văn phòng Tổng cố vấn; và tất cả đều nhận thấy Google đã thực hiện đổi mới vì lợi ích của người dùng”. Dù trong ấn tượng của tôi, Walker là một người tử tế đang cố gắng thu dọn những rắc rối pháp lý mà công ty vướng phải, nhưng tôi không thật sự tin những lời ông nói. Xét cho cùng, không phải tự nhiên mà vụ việc lại dần chìm vào quên lãng sau khi cựu cố vấn Renata Hesse của Google được bổ nhiệm làm chủ tịch ủy ban chống độc quyền tại Bộ Tư pháp (và Larry Page đến gặp các quan chức FTC).
Song, vấn đề vẫn còn tồn tại. Trên thực tế, cả hai chính đảng ở Mỹ đã nhận được những lời kêu gọi mới về việc mở lại vụ kiện. Cùng lúc đó, Google cũng phải đối mặt với giới lập pháp của EU trong các cuộc điều tra tương tự về việc liệu họ có tiến hành những thủ đoạn chống cạnh tranh và loại bỏ các công ty tìm kiếm nhỏ hơn hay không. Năm 2018, Google phải trả cho EU một khoản tiền phạt khổng lồ là 4,3 tỷ Euro vì đã vi phạm luật chống độc quyền, lạm dụng quyền lực để thao túng thị trường điện thoại di động. Khoản tiền này cao gần gấp đôi so với án phạt của một năm trước đó, khi họ bị cáo buộc là ưu tiên hiển thị dịch vụ mua sắm của mình trên các đối thủ cạnh tranh trong kết quả tìm kiếm.
Vụ kiện năm 2017 xoay quanh cặp vợ chồng Adam và Shivaun Raff, hai kỹ sư lập trình đã trở thành doanh nhân khi ra mắt một trang web so sánh giá trực tuyến tại Vương quốc Anh vào năm 2006. Hai chuyên gia lập trình này đã nghĩ ra một thuật toán rất có ích cho việc truy vấn những thông tin mua sắm cụ thể, ví dụ như hãng hàng không nào có chuyến bay giá rẻ nhất từ Glasgow đến Madrid vào thứ Ba, hay máy hút bụi nào có bộ lọc HEPA tốt nhất. Việc này nghe có vẻ dễ, nhưng thật ra rất phức tạp: các truy vấn chi tiết và cụ thể như vậy thật sự khó đáp ứng hơn nhiều so với kiểu truy vấn các thông tin phổ biến, chung chung. Tuy vậy, vợ chồng nhà Raff đã giải quyết được bài toán khó này; và chỉ trong vòng bốn mươi tám giờ sau khi ra mắt, trang Foundem của họ đã được vô số người tiêu dùng truy cập để tìm kiếm mọi loại sản phẩm, từ máy tính đến các thiết bị gia dụng.
Nhưng sau đó, lượng truy cập đột ngột chững lại, Shivaun Raff cho biết. Bà hẹn gặp tôi năm 2017, sau khi đọc bài viết của tôi trên tạp chí Financial Times về việc các công ty Big Tech sử dụng hiệu ứng mạng để độc chiếm thị trường. Nói một cách cụ thể hơn, trong trường hợp của Foundem, lưu lượng truy cập từ Google đã khựng lại. Trong khi các công cụ tìm kiếm khác (bao gồm cả Yahoo và MSN Search) vẫn để Foundem nằm trong nhóm đầu của danh sách kết quả, còn Google chôn vùi nền tảng mới nổi này xuống đáy danh sách. Và vì người dùng chỉ chú ý đến năm kết quả tìm kiếm đầu tiên – như nhiều nghiên cứu đã chứng mình – Foundem dĩ nhiên là bị trục xuất khỏi thế giới Web.
Cách thức hiệu quả mà Google đã sử dụng để loại bỏ cả Yelp lẫn Foundem khỏi những vị trí hàng đầu trong kết quả tìm kiếm – và qua đó ngăn chặn các doanh nghiệp này trở thành đối thủ cạnh tranh của họ – có nhiều điểm tương đồng với cách mà các “doanh nghiệp tiện ích” khác như đường sắt hay mạng viễn thông đời đầu từng thực hiện để kiềm chế đối thủ cạnh tranh và giữ chân khách hàng: họ cấp quyền cho người dùng truy cập mạng lưới của họ (hoặc không) với bất kỳ mức phí nào họ thích, theo bất kỳ cách nào họ muốn. Chẳng hạn vào năm 1900, sáu doanh nghiệp đường sắt Mỹ sở hữu và kiểm soát tới 90% thị trường than antraxit37, khiến người mua than phải trả mức giá cao, còn những công ty này thì thu được những khoản lợi nhuận khổng lồ. Dĩ nhiên, tình trạng đó đã khiến các công ty kinh doanh than độc lập gặp nhiều khó khăn trong việc phân phối sản phẩm trong mạng lưới của họ. Vấn đề cuối cùng cũng được khắc phục nhờ một “điều luật về hàng hóa” đã tách riêng việc cung cấp nền tảng với hoạt động thương mại. Một điều luật tương tự về sau cũng được áp dụng cho các lĩnh vực như ngân hàng, nhằm đảm bảo những công ty thuộc sở hữu của ngân hàng không cạnh tranh với chính các khách hàng của họ trong nhiều ngành khác nhau (dù những điều luật này vẫn còn kẽ hở, và có công ty đã tìm được cách lách luật).
37 Than đá antraxit là loại than đá có ánh kim và có hàm lượng các-bon cao nhất (đến 98%) trong các loại than tự nhiên, vì thế khi đốt sẽ cho năng lượng cao nhất.
Internet hiển nhiên chính là “đường sắt” trong thời đại chúng ta, là một cơ sở hạ tầng công cộng thiết yếu mà phần lớn hoạt động thương mại và trao đổi thông tin trên thế giới đều đang vận hành trên đó. Hệ thống Internet ngày nay cũng đang có những vấn đề rất giống với tình trạng từng được các nhà lập pháp thế kỷ 19 gọi là “vấn đề đường sắt”. Khi nghiên cứu tư liệu để viết sách, tôi tình cờ đọc được quyển Railroads: Their Origins and Problems (tạm dịch: Đường sắt – Nguồn gốc và vấn đề). Đó là một quyển sách mỏng, dễ đọc, được viết vào năm 1878 bởi Charles Francis Adams Jr, cựu cán bộ điều hành và quản lý đường sắt, người không chỉ đặt nền móng cho sự phát triển của ngành đường sắt ở cả châu Âu lẫn Mỹ mà còn đấu tranh buộc ngành này phải phục vụ công chúng thay vì chỉ một số nhà tư bản công nghiệp. Trong chương The Railroad Problem (tạm dịch: Vấn đề đường sắt), Adams viết: “Như hàng loạt vụ việc đã cho thấy, các điều luật thương mại hiện hành vẫn còn nhiều kẽ hở trong những quy định về cách những người vừa sở hữu hệ thống giao thông hiện đại vừa độc quyền kinh doanh trên hệ thống đó”. Nếu đổi tên chương sách của Adams thành The Internet Problem (tạm dịch: Vấn đề Internet), chúng ta sẽ có một bản tóm tắt tương đối chính xác về bối cảnh hiện tại.
Amazon chiếm hơn một phần ba tổng doanh thu bán lẻ trực tuyến tại Mỹ. Tuy nhiên, đây chỉ là con số do công ty tự đưa ra để thay thế cho tỷ lệ ước tính trước đó: một nửa. Lý do Amazon đưa ra để giải thích cho sự thay đổi này là số liệu ban đầu chưa loại trừ hoạt động bán hàng của bên thứ ba. Dù sao đi nữa, động thái đó cũng làm dấy lên nghi ngờ rằng gã khổng lồ này đang tìm cách điều chỉnh các con số để tránh bị cơ quan chống độc quyền sờ gáy. Google chiếm đến 88% thị phần tìm kiếm ở Mỹ và 95% tổng số lượt tìm kiếm trên điện thoại di động. Có đến hai phần ba người dân Mỹ là người dùng của Facebook, công ty hiện sở hữu bốn trong tám ứng dụng truyền thông xã hội hàng đầu sau khi mua lại Instagram và WhatsApp. Tất cả những công ty này cùng với Apple – công ty ngàn tỷ đô đầu tiên trên thế giới – đều bị chỉ trích vì đã lợi dụng hệ sinh thái khổng lồ của họ để dành sự ưu tiên cho các sản phẩm và dịch vụ họ cung cấp, không cho các đối thủ cạnh tranh bước vào mạng lưới của mình. Đây là vấn đề cố hữu của việc vừa sở hữu một nền tảng vừa tiến hành kinh doanh trên nền tảng đó.
Nhưng độc quyền là cáo buộc mà cả Google lẫn những gã khổng lồ công nghệ khác đều không sẵn sàng thừa nhận. Kent Walker lập luận thất bại của các đối thủ cạnh tranh như Yelp hay Foundem không liên quan gì đến những việc Google đã làm: “Có rất nhiều thước đo kinh tế đáng tin cậy cho thấy sự suy yếu của những dịch vụ đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, không liên quan đến những cải tiến về kết quả tìm kiếm của Google”. Walker cho rằng không chỉ Google mà những tập đoàn công nghệ khác như Amazon cũng cho ra kết quả tìm kiếm chính xác hơn. Có thể những gì ông nói là đúng, nhưng như vậy cũng có nghĩa là lĩnh vực tìm kiếm đang chứng kiến cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt giữa những gã khổng lồ, đang nắm trong tay sức mạnh ngăn chặn các công ty nhỏ hơn gia nhập thị trường. (Trên thực tế, Amazon đã dần trở thành đối thủ chính của Google trong mảng tìm kiếm.)
Về phần vợ chồng nhà Raff, họ vẫn tin rằng Google đã cố tình loại họ khỏi thị trường. Sau khi lưu lượng truy cập sụt giảm, vợ chồng Raff – vốn quen biết nhiều người trong Google cũng như có quan hệ rộng trong cộng đồng công nghệ toàn cầu – đã tìm cách đối thoại trực tiếp với công ty này nhưng không có kết quả gì. Dù ai cũng biết Google đã dành nhiều năm để xây dựng dịch vụ Google Shopping (trước đây gọi là Froogle), nhưng gia đình Raff vẫn không nghĩ rằng gã khổng lồ đang cố tình phá hoại.
Shivaun Raff cho biết: “Suốt ba năm rưỡi, chúng tôi đã tìm đến nhiều kênh khác nhau, cả chính thức lẫn không chính thức. Nhưng chúng tôi chưa bao giờ nhận được bất kỳ phản hồi xác đáng nào để hiểu chuyện gì đã xảy ra”. Cùng lúc đó, họ bắt đầu đọc được những câu chuyện tương tự trên trang web của các lập trình viên, về những doanh nhân đã có cách tiếp cận quá sát với mô hình kinh doanh cốt lõi của đại gia công nghệ này và hoàn toàn bị đẩy khỏi cuộc chơi. Một số doanh nhân đã kể về trải nghiệm “bỗng dưng biến mất khỏi kết quả tìm kiếm” giống hệt vợ chồng Raff, hoặc khẳng định Google đã gây áp lực lên các khách hàng của họ. Một số người khác thuật lại những vụ kiện gây nhiều thiệt hại tài chính đến mức các công ty nhỏ buộc phải ngừng hoạt động. Bản thân Adam và Shivaun Raff đã rất nỗ lực và xây dựng được cơ sở dữ liệu người dùng lên đến hơn 2 triệu người; nhưng tiền tiết kiệm của họ đồng thời cũng cạn dần và khi không có lưu lượng truy cập từ Google, họ phải vất vả “giật gấu vá vai” để nuôi sống doanh nghiệp của mình. “Google chính là cánh cổng. Nếu bạn bị loại khỏi hệ sinh thái của họ, bạn sẽ chết”, Shivaun chia sẻ.
Cuối cùng, họ quyết định “ngừng cư xử như những người Anh lịch thiệp” (theo cách nói của Shivaun) và gửi đơn kiện đến các cơ quan quản lý. Chính từ vụ kiện này, Foundem đã trở thành nguyên đơn chính trong vụ điều tra chống độc quyền do Ủy ban châu Âu khởi động năm 2009, nhắm vào nền tảng tìm kiếm Google Search. Cuộc điều tra được tiến hành dưới sự lãnh đạo của Margrethe Vestager, ủy viên quản lý cạnh tranh đanh thép của EU, người đã đưa ra phán quyết chống lại Google vào năm 2017. Theo luật EU, Google có mười tám tháng để tìm cách điều chỉnh các thuật toán của mình và loại bỏ sự thiên vị trong kết quả tìm kiếm. Nhưng đến cuối năm 2018, vợ chồng nhà Raff đã gửi thư đến ủy viên này và trình bày rằng họ không có lòng tin đối với “cơ chế xếp hạng đã được điều chỉnh” của Google, thứ vẫn đang hoạt động dựa trên thuật toán “bí mật” của công ty này. Họ viết: “Đã hơn một năm trôi qua kể từ khi Google đưa ra ‘biện pháp khắc phục’ dựa trên đấu giá, nhưng những tổn hại do hành vi bất hợp pháp của Google gây ra cho người tiêu dùng, môi trường cạnh tranh và sự đổi mới vẫn không thuyên giảm. Do đó, chúng tôi kính mong quý ủy ban hãy bắt đầu thủ tục tố tụng đối với hành vi không tuân thủ của Google”.
Dù chúng ta hiện đã biết phán quyết cuối cùng của EU nhưng vào thời điểm đó, vợ chồng Raff đã rất vất vả để tiếp tục cuộc chiến của mình. Một mặt, họ buộc phải quay lại công việc tư vấn để trang trải cuộc sống; mặt khác, họ vẫn nỗ lực duy trì Foundem – như một cách để thể hiện quyết tâm giành chiến thắng trong cuộc chiến pháp lý chứ không phải để kiếm tiền. Hai chuyên gia lập trình chia sẻ: “Chúng tôi sẽ không bỏ cuộc. Họ sẽ phải thay đổi cách họ hoạt động”.
SỨC MẠNH CỦA HỆ SINH THÁI
Đối thủ cạnh tranh khiến Google lo ngại không phải là các doanh nghiệp mới nổi mà là những gã khổng lồ khác, chẳng hạn như Amazon – công ty duy nhất hiện vẫn ngang tài ngang sức với đại gia mảng tìm kiếm. Thay vì tìm kiếm thông tin chung về sản phẩm, nhiều người tiêu dùng giờ đây đã bắt đầu tìm kiếm ngay trên trang Amazon khi cần mua sắm, đồng nghĩa với việc các khoản tiền quảng cáo cũng sẽ chạy vào túi của ông trùm bán lẻ này. WPP – đơn vị thầu quảng cáo lớn nhất thế giới, đứng ra mua quảng cáo thay cho các công ty lớn trên toàn cầu – đã chi 300 triệu đô-la “trên danh nghĩa của khách hàng để mua quảng cáo trên Amazon vào năm ngoái”, và khoảng 75% trong con số 300 triệu đó được rút từ ngân sách lẽ ra sẽ chi cho Google. Vậy nên, không có gì ngạc nhiên khi Google cứ lo lắng dè chừng xem Jeff Bezos đang làm gì.
Tất cả những điều này đã làm sáng tỏ một sự thật không mấy dễ chịu: nền kinh tế Internet được cho là phi tập trung đã sinh ra những tay độc quyền lạnh lùng, lợi dụng quyền lực để cản trở sự tăng trưởng của các công ty khởi nghiệp, phá hoại thị trường lao động và giảm số lượng việc làm mới. Trải qua hai thập niên, hơn 75% các ngành công nghiệp Mỹ đã chứng kiến sự tập trung ngày càng gia tăng cả về của cải lẫn tầm ảnh hưởng. Nếu so sánh số liệu này với giai đoạn sau Thế chiến thứ hai – thời kỳ Mỹ có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất – bạn sẽ thấy có một sự tương phản đáng kinh ngạc. Theo Viện Brookings, vào năm 1954, sáu mươi công ty lớn nhất nước Mỹ chiếm chưa đến 20% GDP quốc gia. Ngày nay, chỉ hai mươi công ty hàng đầu đã chiếm hơn 20%.
Vì sao điều này lại xảy ra? Tất nhiên, một trong những lý do là sự cạnh tranh toàn cầu đã tạo nhiều áp lực hơn lên các doanh nghiệp Mỹ, buộc họ phải từ bỏ việc chia đều “miếng bánh” còn lại sau chiến tranh với người lao động, các tập đoàn khác cũng như cộng đồng địa phương. Một nguyên nhân khác là do luật chống độc quyền thay đổi. Nhưng vẫn còn một nguyên do ít ai nghĩ đến, đó là hiệu ứng mạng song hành cùng mô hình kinh doanh của mảng công nghệ nền tảng. Dù sự tập trung thị trường diễn ra ở mọi lĩnh vực, nhưng rõ nhất vẫn là trong nền kinh tế thông tin. (Theo Viện Nghiên cứu Toàn cầu McKinsey, những ngành hoạt động dựa vào cơ sở dữ liệu và tài sản trí tuệ – loại tài sản có thể độc quyền hóa và vận dụng ở bất kỳ đâu trên thế giới – như công nghệ, dược hay tài chính là những ngành dễ xảy ra tập trung nhất.)
Đó chính là những thách thức về kinh tế và chính trị của thời đại chúng ta. Cựu chủ tịch Hội đồng Cố vấn Kinh tế Jason Furman tin rằng sự tập trung đang tạo ra rào cản đối với việc gia nhập nhiều thị trường trọng điểm. Học giả David Autor cũng liên hệ sự hợp nhất doanh nghiệp với việc công nhân kiếm được ít tiền hơn. Một nghiên cứu mới của Viện McKinsey cũng cho thấy điều tương tự, đồng thời nêu rõ công nghệ đã cắt giảm phần thu nhập của người lao động trên “miếng bánh” kinh tế như thế nào. Ngoài ra còn có bằng chứng cho thấy một nhóm nhỏ những công ty “siêu sao” đang vượt trội hơn hẳn các công ty khác, không chỉ về mặt lợi nhuận mà còn cả về năng suất. Nói cách khác, các công ty hàng đầu – đặc biệt là trong những mảng vận dụng kỹ thuật số nhiều nhất như công nghệ, tài chính hay truyền thông – đang hoạt động vô cùng hiệu quả, trong khi những công ty khác không thật sự phát triển. Kết cục là tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế đã bị ảnh hưởng.
Ý tưởng cho rằng nền kinh tế hiện tại là “sàn đấu của những gã khổng lồ” đã được củng cố bởi một phân tích của Viện McKinsey vào năm 2018, trong đó xem xét gần sáu ngàn công ty đại chúng cũng như tư nhân lớn nhất thế giới đang chiếm khoảng 65% tổng thu nhập trước thuế của doanh nghiệp toàn cầu, mỗi công ty đều có doanh thu hằng năm lớn hơn 1 tỷ đô-la. Trong nhóm này, 10% doanh nghiệp dẫn đầu – những công ty “siêu sao” – tạo ra 80% lợi nhuận kinh tế (được tính bằng cách lấy số vốn đầu tư của một công ty nhân với lợi nhuận thu được rồi chia cho chi phí sử dụng vốn). Riêng 1% doanh nghiệp đứng đầu chiếm đến 36% miếng bánh lợi nhuận. Chúng ta đã biết nhóm 10% này bao gồm những ai. Đó chính là Big Tech (Facebook, Apple, Amazon và Google) cùng những công ty có thể khai thác giá trị của các tài sản vô hình như phần mềm, dữ liệu, quyền sáng chế và thương hiệu (không chỉ trong lĩnh vực công nghệ mà cả trong tài chính, công nghệ sinh học và dược phẩm). Chúng ta cũng biết rằng hiệu ứng mạng đã giúp các công ty này nắm bắt thị trường một cách nhanh chóng trên quy mô lớn, mang lại cho họ những lợi ích mà thế giới khởi nghiệp thường gọi là “lợi thế của người mở rộng đầu tiên”.
Quá trình này càng được thúc đẩy khi chúng ta chuyển từ một nền kinh tế “hữu hình” (dựa trên các hàng hóa vật chất) sang một nền kinh tế phụ thuộc nhiều hơn vào những thứ “vô hình” như tài sản trí tuệ, ý tưởng và dữ liệu. Jonathan Haskel và Stian Westlake – hai học giả người Anh đã đề cập đến vấn đề này trong quyển sách xuất sắc của họ Capitalism Without Capital (tạm dịch: Chủ nghĩa Tư bản không vốn) – tin rằng sự chuyển đổi trên đã đảo ngược các quy luật thông thường của lực hấp dẫn kinh tế. Google và Facebook không cần phải xây dựng thêm nhà máy, mua thêm nguyên liệu thô hay thuê thêm nhân viên cho các dây chuyền lắp ráp để chiếm thêm thị phần. Và đây chính là lý do vì sao họ có thể phát triển nhanh hơn nhiều so với những gã khổng lồ trong quá khứ. Trong nền kinh tế ngày nay, người thua thường sở hữu nhiều tài sản hữu hình như nhà máy và thiết bị hơn, còn người thắng quan tâm hơn đến việc tận dụng những thứ vô hình.
Hiệu ứng mạng chính là trung tâm của sự chuyển đổi đó. Dù được tạo thành từ người dùng Twitter, tài xế Uber, chủ nhà Airbnb hay người có tầm ảnh hưởng trên Instagram… mạng lưới luôn có giá trị hơn nhiều so với bất kỳ mắt lưới đơn lẻ nào bên trong nó. Điểm mấu chốt ở đây chính là cơ chế “người dùng thu hút người dùng”, và những tay chơi nào chiếm được nhiều thị phần nhất trong thời gian nhanh nhất sẽ sớm thống trị toàn bộ ngành công nghiệp. Điều này không chỉ đúng với mỗi Google, như chúng ta đã thấy. Nhưng nếu là một doanh nghiệp lớn, có khả năng tận dụng dữ liệu và tài sản trí tuệ trên các mạng lưới, bạn sẽ dễ chiếm giữ thị phần hơn. Những tài sản vô hình đó có thể giúp doanh nghiệp mở rộng quy mô nhanh hơn và lớn hơn rất nhiều so với các sản phẩm và dịch vụ của mô hình kinh doanh cũ. Các doanh nghiệp có hệ sinh thái mạng lưới (networked business) chính là ví dụ điển hình của những gì phát triển lớn mạnh sẽ tiếp tục lớn mạnh hơn nữa.
Nhưng như Varian và Carl Shapiro đã nhận định, vòng lặp phản hồi này có mặt trái của nó: “Phản hồi tích cực [trong các nền tảng] cũng có thể khiến kẻ yếu thế càng yếu thế hơn”. Hay nói cách khác, ngay cả các siêu sao của thời đại mạng lưới cũng có thể gục ngã, thường là do họ tự đánh gục nhau, chứ không phải do những cái tên mới nổi.
*
Chỉ cần nhìn vào ngành công nghiệp xe hơi, bạn sẽ thấy sự chuyển đổi kỹ thuật số đã tác động đến các công ty truyền thống sâu sắc thế nào. Hiện tại, khoảng 90% giá trị của một chiếc xe hơi nằm ở phần cứng; nhưng khi xe tự hành và các ứng dụng kỹ thuật số ngày càng phát triển, tỷ lệ này chắc hẳn sẽ thay đổi đáng kể. Morgan Stanley dự đoán rằng với xe tự hành, 40% giá trị chiếc xe sẽ nằm ở phần cứng, 40% ở phần mềm, và 20% ở những nội dung phát trên xe (gồm cả các trò chơi, quảng cáo lẫn dịch vụ tin tức được kích hoạt bởi phần mềm). Sự thay đổi này phần nào được thúc đẩy bởi thực tế là Millennials muốn chiếc xe hơi của họ có tất cả những ứng dụng họ yêu thích. Nhưng đồng thời nó cũng phản ánh một thực tế khác: khi bạn ngồi trong một chiếc xe tự hành, bản sắc thương hiệu sẽ không còn nữa.
“Nếu không cầm lái, người tiêu dùng sẽ ít quan tâm hơn đến loại xe mà họ sử dụng” là nhận định của Nick Johnson, giám đốc công ty Applico, đơn vị đã tư vấn cho các nhà sản xuất xe hơi lớn về sự chuyển đổi trên. Johnson cũng là tác giả của Modern Monopolies (tạm dịch: Kẻ độc tài thời hiện đại), quyển sách nói về tác động mà những gã khổng lồ ở Thung lũng Silicon gây ra cho các công ty và lĩnh vực khác. Trong thế giới ngày nay, xe hơi không còn là loại tài sản bạn sẽ chạm vào và cảm nhận hay sẽ dùng để “chưng diện” như một món trang sức đắt tiền, mà chỉ là một vật bạn sử dụng – như điện thoại chẳng hạn. Và trong trường hợp này, những yếu tố quan trọng chính là phần mềm và các ứng dụng được phát triển trên nền tảng phần mềm bên trong chiếc điện thoại, chứ không phải lớp vỏ nhựa hay kim loại bên ngoài như Nokia và BlackBerry từng tuyên bố. Thật vậy, theo một khảo sát gần đây được thực hiện bởi nhà sản xuất xe hơi BMW, 73% người dùng cho biết họ sẽ chuyển sang sử dụng xe của thương hiệu khác nếu nó có tích hợp nhiều ứng dụng kỹ thuật số.
Đây cũng là thách thức mà General Motors đang phải đối mặt. Vào năm 2018, Donald Trump và các quan chức Bộ Lao động đã lên tiếng chỉ trích GM về việc công ty này quyết định cắt giảm 14.300 công nhân (dù một phần nguyên nhân là vì họ phải đóng cửa năm nhà máy ở Mỹ và Canada). Mặc dù cả cựu tổng thống lẫn các đoàn thể ở Mỹ đều tập trung vào những luận điểm xoay quanh việc GM đã mang cơ hội việc làm của công nhân Mỹ sang cho Trung Quốc và Mexico, thách thức lớn nhất mà GM phải đối mặt không phải là về chi phí lao động, nguồn gia công hay thuế nhập khẩu thép. Vấn đề của công ty này chính là câu hỏi liệu họ có thể tiếp tục nắm giữ một phần lớn giá trị kinh tế của ngành công nghiệp xe hơi trong thời đại mạng lưới hay không, khi xe cũng dần trở thành một vật dụng thông minh. Đây cũng là câu hỏi nan giải dành cho mọi ngành nghề khác, từ bán lẻ (gần như đã bị Amazon triệt tiêu) đến chăm sóc sức khỏe (đang bị đe dọa bởi cả Amazon lẫn Google), tài chính (hiện chịu nhiều sức ép từ ngành công nghệ tài chính – một sự kết hợp giữa nền tảng công nghệ với dịch vụ ngân hàng), sản xuất…
Không có gì ngạc nhiên khi những doanh nghiệp sở hữu công nghệ tiên tiến nhất về ứng dụng và phần mềm tự động chính là các công ty công nghệ như Google, Apple hay Baidu... và tất cả đều đang đổ tiền vào việc phát triển các nền tảng cũng như công nghệ xe tự hành. Hiện tại, người lái xe hơi đã có thể phát nhạc, xem thông tin định vị và truy cập mọi dữ liệu mà họ có thể truy cập trên điện thoại. Nhưng một khi xe bắt đầu được thiết lập nhiều nền tảng hơn, người lái xe sẽ có thể nắm bắt mọi dữ liệu, từ mức nhiên liệu, nhiệt độ động cơ đến các chỉ dẫn về an toàn. Việc cung cấp những thông tin này hiện vẫn nằm trong khả năng của các nhà sản xuất xe hơi, nhưng quan trọng là làm thế nào để kiếm tiền từ những dữ liệu đó bằng các sản phẩm và dịch vụ mới.
Vậy các công ty nên nghĩ gì về cạnh tranh trong thế giới ngày nay? Một ví dụ về điều không nên làm có thể được rút ra từ trường hợp của Nokia. Bạn còn nhớ gì về nhà sản xuất điện thoại hùng mạnh một thời đến từ Phần Lan? Có lẽ bạn cũng từng sử dụng một trong những thiết bị di động giống như cục gạch của Nokia để gửi những tin nhắn văn bản đầu tiên vào những năm 1990. Sau đó iPhone của Apple xuất hiện, kế đến là hệ điều hành Android của Google. Cả hai công ty này không chỉ làm ra sản phẩm bắt mắt mà còn cung cấp những nền tảng tuyệt vời cho các lập trình viên, tạo điều kiện cho hệ sinh thái của các ứng dụng phát triển. Trong khi đó trên hệ điều hành Symbian của Nokia, việc tự do phát triển ứng dụng hoàn toàn bất khả thi. Đến năm 2011, Nokia tuột dốc không phanh và không bao giờ phục hồi được.
Như Jo Harlow – người đứng đầu Symbian khi đó – đã nói với Financial Times, công ty đơn giản là không đủ nhanh nhạy để chuyển từ “dẫn đầu về thiết bị sang dẫn đầu về phần mềm”. Về cơ bản, nhận định này là đúng. Nhưng nếu nhìn sâu hơn, chúng ta sẽ thấy vấn đề thậm chí còn lớn hơn: Nokia (giống như nhiều hãng khác trước và sau họ) không nhận ra rằng phần lớn giá trị không đơn thuần chuyển từ phần cứng sang phần mềm mà còn là sang nền tảng để phần mềm hoạt động trên đó. Hiệu ứng mạng được tạo nên bởi lập trình viên và người dùng trên các nền tảng này chính là yếu tố tạo ra giá trị, và giá trị này lớn hơn nhiều so với giá trị sản phẩm.
Các hãng xe không đầu hàng. Nhiều năm qua, giám đốc điều hành Mary Barra của GM đã luôn nói về GM như một công ty công nghệ ngày càng phụ thuộc nhiều vào dữ liệu hơn là sắt thép hay nhân lực. Năm 2018, Barra công khai tuyên bố việc GM cắt giảm nhân sự có liên quan đến kế hoạch chuyển đổi tài nguyên sang mảng phát triển xe điện và xe tự hành. Một số nhà sản xuất khác thì quyết định hợp tác với nhau: Ford và Toyota bắt tay triển khai dự án SmartDeviceLink Consortium, một nền tảng mã nguồn mở hoạt động theo bộ giao thức tiêu chuẩn cho phép các ứng dụng trên điện thoại thông minh kết nối với xe. Tuy nhiên, chưa có hãng xe lớn nào cho thấy họ có khả năng hoặc quyết tâm xây dựng những hệ sinh thái nền tảng như những gì các công ty công nghệ lớn đã tạo ra. Đây là một vấn đề, bởi hiệu ứng mạng chỉ thật sự có tác dụng khi một công ty kiểm soát 30% hoặc 40% thị phần, đồng nghĩa với việc những công ty xe hơi lớn trên thế giới cần phải hợp tác với nhau để có thể đạt đủ số phần trăm đó. Đó chắc chắn sẽ là một sự thay đổi lớn khi các doanh nghiệp xem đối thủ cạnh tranh mạnh nhất của mình như những đối tác. Nhưng suy cho cùng, đó cũng có thể là lựa chọn duy nhất họ có. Việc phát triển một hệ sinh thái và đồng thời sở hữu những phần mềm cũng như dữ liệu bên trong hệ sinh thái đó chính là chìa khóa để thành công, không chỉ trong ngành công nghiệp ô-tô mà còn trong nhiều lĩnh vực khác.
CHỦ NGHĨA TÂN TỰ DO BÙNG PHÁT
Bên cạnh tác động mạnh mẽ của hiệu ứng mạng, chúng ta cũng phải xem xét việc nền chính trị tại Thung lũng Silicon đã thay đổi nhiều như thế nào giữa thời hippie của Steve Jobs với kỷ nguyên tự do của Peter Thiel và những người ủng hộ ông, để hiểu được sự lớn mạnh gần như không-gì-ngăn-cản được của các công ty nền tảng như Google hay Facebook. Roger McNamee, người từng làm việc trong ngành công nghệ hơn bốn mươi năm, cho biết: “Đó là một sự thay đổi khổng lồ. Trong khi hầu hết các nhân viên ở Thung lũng Silicon đều theo phe Tự do, hàng ngũ lãnh đạo của những công ty hàng đầu nơi đây lại có xu hướng tin rằng tham lam là tốt”.
Nhưng làm sao họ có thể không tham lam? Từ những năm 1980 đến nay, hầu hết các doanh nghiệp Mỹ đều đi theo học thuyết kinh tế nhỏ giọt và ý tưởng “thị trường biết tự định hướng” vốn được phổ biến bởi Trường phái Kinh tế học Chicago. Đặc biệt, các nền tảng Internet đã được hưởng lợi rất lớn nhờ triết lý chống độc quyền của trường phái này, theo đó miễn là sản phẩm được duy trì ở mức giá rẻ hoặc miễn phí thì tình trạng độc quyền sẽ không xảy ra. Trong quyển Zucked, McNamee đã tóm lược như sau: “Google đã tận dụng vị thế thống trị trong lĩnh vực tìm kiếm để phát triển những mảng kinh doanh đồ sộ về email, hình ảnh, bản đồ, video, công cụ đo năng suất cùng nhiều ứng dụng khác. Trong phần lớn trường hợp, Google đều có thể chuyển lợi thế độc quyền của mình từ hoạt động kinh doanh hiện hữu sang mảng kinh doanh mới”. Khi đọc những quyển sách về lịch sử kinh tế Mỹ, bạn sẽ nhận thấy một điều: quyền lực độc quyền là trọng tâm, thậm chí là mục tiêu phân tích của những người đã khai sinh ngành kinh tế học công nghệ thông tin.
KẺ LỚN MẠNH NGÀY CÀNG LỚN MẠNH
Nền chính trị tân tự do của Thung lũng Silicon đã được đề cập trong công trình nghiên cứu của nhà kinh tế học Hal Varian, người từng gia nhập Google với vai trò cố vấn vào năm 2002. Hal Varian và Eric Schmidt gặp nhau vào năm 2001 tại Viện Aspen, một trong những nơi mà các ông trùm công nghệ cùng “tín đồ” của họ thường tụ họp để thảo luận các ý tưởng lớn. Schmidt chia sẻ với Varian rằng Google đang nghiên cứu một mô hình đấu giá “có thể sẽ mang về một ít lợi nhuận”, đồng thời ngỏ ý mời Varian tham gia và giúp công ty hoàn thiện mô hình đó. Varian thời điểm đó đang làm hiệu trưởng Trường Thông tin Berkeley và là một trong những nhà kinh tế hàng đầu đang nghiên cứu thị trường dữ liệu. Varian là đồng tác giả của quyển sách có tiếng Information Rules: A Strategic Guide to the Network Economy (tạm dịch: Các quy tắc thông tin – Hướng dẫn chiến lược cho nền kinh tế mạng), và tên ông sau đó đã được dùng để đặt cho một quy tắc trong sách – một dạng học thuyết về hiệu ứng nhỏ giọt trong thời đại kỹ thuật số. Quy tắc Varian xác định (một cách sai lệch) rằng hiện tại người giàu đang có những gì, trong tương lai các tầng lớp trung lưu và cuối cùng là giai cấp công nhân cũng sẽ có như vậy nhờ hiệu ứng giảm giá do công nghệ tạo ra. (Nhà phê bình Evgeny Morozov về sau đã diễn giải lại quy tắc này theo một cách có lẽ là chính xác hơn: “Sự xa hoa hiện đã có, chỉ là nó không được phân bổ đồng đều”.)
Cũng trong khoảng thời gian đó, Varian đã có nhiều buổi diễn thuyết và viết nhiều bài báo về những ý tưởng cốt lõi vừa xuất hiện từ nền kinh tế dữ liệu đang ngày càng phát triển. Những ý tưởng đó khiến nhiều người khó có thể tin rằng giới lãnh đạo của các công ty công nghệ nền tảng không hiểu được những tác động sâu rộng và đáng lo ngại mà những đổi mới của họ có thể gây ra cho nền kinh tế, chính trị và xã hội của chúng ta.
Giống như hầu hết các nhà kinh tế học khác, Varian cũng tin vào các học thuyết của Trường phái Kinh tế học Chicago cùng những ý tưởng đa tầng được xây dựng trên khuôn khổ kiến thức đó về hiệu ứng mạng và sức mạnh của big data. Ông hiểu rằng các công ty có thể khai thác hiệu ứng mạng đều là những công ty “nắm giữ phần lớn sức mạnh thị trường”, nhất là khi dữ liệu họ thu thập “tạo cho họ điều kiện thuận lợi để có những quan sát và phân tích tinh tế về hành vi người tiêu dùng”. Khi mở rộng quy mô, những công ty này tận dụng mối quan hệ họ có để nắm giữ một dạng quyền lực độc quyền. Varian đã nói về điều này như sau: “Một mối quan hệ mở rộng giúp người bán hiểu thói quen mua hàng và nhu cầu của khách hàng rõ hơn so với các đối thủ cạnh tranh. Tính năng đề xuất cá nhân hóa của Amazon khá hữu ích đối với tôi, vì tôi từng mua sách trên trang này. Một nhà bán hàng mới sẽ không có thông tin về lịch sử mua hàng của tôi, và do đó sẽ đưa ra những sản phẩm gợi ý không phù hợp bằng”. (Đặc biệt là khi người bán hàng không thể tranh giành lợi thế với một nền tảng thống trị, như trường hợp của Foundem với Google.)
Varian rốt cuộc đã trở thành nhà kinh tế trưởng tại Google nơi ông nhanh chóng trở thành một chuyên gia phân tích có tiếng về lĩnh vực kinh tế học thông tin mới mẻ. Ông thuê cả một đội ngũ các “nhà kinh tế lượng”, những người đã kết hợp lý thuyết tân tự do và phương pháp toán học với dữ liệu để giúp Google kiếm được nhiều tiền nhất có thể. Sau đó ông đã giúp Page, Brin và Schmidt phát triển các thuật toán đấu giá hiệu quả hơn và xây dựng một mô hình đấu giá mà sau này trở thành “mỏ vàng” của Google.
Một trong những nhiệm vụ của Varian là phân tích các tín hiệu trong tất cả những dữ liệu hỗn độn mà Google thu thập được. Ông đã đưa tính hiệu quả của kinh tế học dữ liệu vào việc phân bổ các nguồn lực của công ty, nhờ đó phát triển một mô hình đấu giá có thể tính toán và phân bổ sức mạnh điện toán nội bộ với độ nhạy không kém gì các kế hoạch giao dịch chứng khoán của Phố Wall. Những cải tiến này về sau đã được đề cập trong một bài phân tích có tựa đề Using a Market Economy to Provision Compute Resources Across Planet-wide Clusters (tạm dịch: Vận dụng nền kinh tế thị trường để phân bổ nguồn lực điện toán cho mọi nhóm đối tượng trên toàn thế giới). Dĩ nhiên, những giả thuyết Varian đưa ra về nền kinh tế học dữ liệu mới đều có xu hướng ủng hộ “sân nhà”. Như Shoshana Zuboff đã viết, trong chủ nghĩa tư bản giám sát của Google và các công ty Big Tech khác, “hợp đồng và quy định của pháp luật được thay thế bằng phần thưởng và hình phạt từ một bàn tay vô hình mới”, bàn tay thuật toán của Thung lũng Silicon.
Varian và nhóm của ông là một đội ngũ độc nhất vô nhị, đồng thời cũng là dấu hiệu báo trước về một kỷ nguyên mới khi hầu hết các công ty lớn đều sẽ thuê rất nhiều nhà khoa học và kinh tế học dữ liệu. Những quy luật chi phối hoạt động thương mại – như hầu hết các quy luật khác theo quan điểm của Big Tech – đã “được tạo ra để bị phá vỡ”.
NGƯỜI QUẢN LÝ NIỀM TIN?
Nói một cách công bằng, những người tiên phong như Varian đều thừa nhận mô hình kinh doanh mạng lưới mới mẻ đang được Google và nhiều gã khổng lồ khác ở Thung lũng Silicon theo đuổi thật sự có nhiều nhược điểm, bao gồm cả nhược điểm lớn: quyền riêng tư. Bất ngờ thay, năm 2011, Varian lại tuyên bố rằng với tư cách người dùng, ông không muốn các nền tảng chia sẻ thông tin cá nhân của ông với một bên thứ ba khi ông chưa đồng ý. Tuy nhiên, ông kết luận đây không phải là một vấn đề đáng lo, vì việc bán thông tin cho bên thứ ba khi chưa có sự đồng ý của người dùng sẽ khiến người dùng mất lòng tin và không mang lại hiệu quả kinh tế cho các nền tảng.
Dù sao thì Varian cũng tự ý thức được điều đó tốt hơn cấp trên của ông là Eric Schmidt. Trong phim tài liệu Inside the Mind of Google (tạm dịch: Bên trong bộ não của Google) do đài CNBC thực hiện năm 2009, khi Eric Schmidt được hỏi liệu mọi người có nên tin rằng Google sẽ giữ kín những bí mật riêng tư nhất của họ không, ông trả lời: “Tôi nghĩ điều quan trọng là nhận định của mọi người. Nếu có điều gì đó không muốn cho người khác biết, có lẽ bạn không nên làm điều đó ngay từ đầu”. Câu trả lời này có nghĩa là: Quyền riêng tư của bạn không phải là vấn đề của chúng tôi.
Theo nhà kinh tế học Paul Romer từng đoạt giải Nobel, việc đa số chúng ta sẵn sàng đánh đổi quyền riêng tư để sử dụng chiếc iPhone mới bóng bẩy có liên quan đến một thực tế: có sự bất cân xứng thông tin rất lớn trong thị trường công nghệ. Ông đặt câu hỏi: “Liệu hai bên có đủ hiểu biết để xác định giao dịch đang diễn ra có lợi hay bất lợi cho họ không?”. Dĩ nhiên, Romer (và cả tôi) sẽ trả lời là “không”. Chuyên gia kinh tế học này tin rằng sự phức tạp của thị trường dữ liệu ngày nay đã khiến những khái niệm về “cấp quyền” trở nên vô nghĩa, chẳng hạn như khi bạn đồng ý với những điều khoản vừa dài vừa phức tạp về việc cho phép các công ty nền tảng sử dụng dữ liệu của bạn. Sự khác biệt về hiểu biết của hai bên đơn giản là đã làm giảm tính công bằng trên thị trường. Vào năm 2018, không lâu sau khi đoạt giải Nobel, Romer chia sẻ với tôi: “Tôi từng tham gia nhiều buổi thảo luận về vấn đề này với những người như Hal Varian, và tôi chỉ thấy ngày càng thất vọng. Thật không trung thực khi bạn đưa cho người ta một văn bản dài 18.000 từ rồi hy vọng họ sẽ đọc và hiểu hết nội dung trong đó”.
Vậy đâu là giải pháp? Theo Romer, trước tiên chúng ta cần ngừng sử dụng từ “riêng tư”. Ông nhận định: “Khái niệm đó không thật sự tồn tại nữa”. Chúng ta cần tập trung vào tính minh bạch. Nếu không có người dùng nào (hoặc có ít hơn 5% người dùng) hiểu được dù chỉ một phần điều khoản giao dịch, các công ty không nên thực hiện giao dịch đó. Hơn nữa, “chúng ta nên buộc các công ty phải chứng minh được” là họ đang bảo vệ quyền riêng tư của chúng ta, thay vì để họ trốn tránh trách nhiệm bằng những điều khoản “bảo mật vô nghĩa”.
Một số công ty – như Apple hay thậm chí là IBM (tập đoàn lâu năm vẫn đang nắm giữ vị trí chủ chốt trong giới công nghệ – cuối cùng cũng nhận ra bảo vệ quyền riêng tư cho người dùng chính là một lợi thế cạnh tranh. Chẳng hạn, Apple đã ra mắt một trang web mới để trình bày rõ hơn về những tính năng bảo mật khiến họ khác biệt so với các công ty cạnh tranh; và một trong những tính năng đó là thuật toán cho phép lưu trữ dữ liệu tìm kiếm trên thiết bị cá nhân thay vì “đám mây”, giúp người dùng nắm quyền kiểm soát chặt chẽ hơn đối với những dữ liệu mà công ty này có thể nhìn thấy.
Apple cũng đang đẩy mạnh truyền thông về một giải pháp được gọi là “quyền riêng tư khác biệt”. Theo đó, công ty có thể thu thập thông tin về hoạt động của người dùng trong khi vẫn đảm bảo một mức độ riêng tư nhất định, bằng cách mã hóa dữ liệu ngay trên thiết bị của người dùng để Apple không thể nhận biết dữ liệu mà họ nhận được đến từ người dùng nào. Những dữ liệu đó sẽ được sử dụng để cải tiến thiết bị cũng như dịch vụ được cung cấp trong hệ sinh thái của Apple, chứ không phải để các bên khác mua lại và gửi cho người dùng những quảng cáo siêu mục tiêu. Rõ ràng, đây thật sự là một cách tiếp cận khác so với Google và Facebook. Vậy cách này có giải quyết được mọi vấn đề không? Câu trả lời là không. Nhưng suy cho cùng, mô hình kinh doanh của Apple không bị bên thứ ba lợi dụng và tác động đến một cuộc bầu cử, như những gì Nga đã làm trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ thông qua Facebook. Đó cũng là một điều thú vị khi Tim Cook nói ông tin “quyền riêng tư là quyền cơ bản của con người”.
Ginni Rometty – giám đốc điều hành của IBM – cũng công bố một bộ nguyên tắc và thông lệ mới xoay quanh vấn đề dữ liệu nhằm gia tăng lòng tin của mọi người đối với Big Tech, trong đó có những cam kết như không lưu giữ bất kỳ dữ liệu nào trong máy chủ quá thời hạn được nêu trong hợp đồng, không cung cấp dữ liệu của khách hàng cho chương trình giám sát của bất kỳ chính phủ hay quốc gia nào. Đồng thời, công ty này còn hứa rằng khách hàng không chỉ có toàn quyền quyết định đối với dữ liệu của họ, mà còn với việc “học hỏi dữ liệu” của các thuật toán.
Rometty chia sẻ với tôi trong một cuộc phỏng vấn qua điện thoại vào năm 2017: “Chúng ta đang bước vào một kỷ nguyên mà dữ liệu có thể được sử dụng để giải quyết mọi vấn đề cấp bách nhất, nhưng điều đó chỉ có thể diễn ra khi mọi người có lòng tin đối với cách các công ty xử lý dữ liệu. Chúng tôi tự xem mình là người quản lý dữ liệu của khách hàng. Và chúng tôi không nhất thiết cần được kiểm soát để làm điều đúng đắn. Chúng tôi đã làm điều đúng đắn từ cả trăm năm nay rồi”.
Cần nói rõ rằng cả Apple lẫn IBM đều không phải là những người quản lý niềm tin hoàn hảo, vì cả hai đều có các ứng dụng theo dõi dữ liệu. Và lợi thế của IBM là họ giao dịch với các doanh nghiệp và cơ quan chính phủ nhiều hơn giao dịch trực tiếp với người tiêu dùng. Dù sao đi nữa, họ đã cho chúng ta thấy các công ty hoàn toàn có thể bắt tay vào giải quyết những vấn đề này.
Bao nhiêu công ty có khả năng gỡ rối những vướng mắc ngày càng nhiều về quyền riêng tư, tính minh bạch và quyền lực độc quyền? Những điều này sẽ có ảnh hưởng gì đến thị trường, người tiêu dùng và các công dân? Những quy định nào có thể được đưa ra để kiểm soát các đại gia công nghệ mới – những gã khổng lồ nền tảng đang ngày càng mở rộng quy mô trong một thế giới mà các quy luật hấp dẫn kinh tế thông thường không còn tác dụng nữa? Đây đều là những vấn đề cần được giải quyết nhanh chóng, vì như chúng ta đã thấy – không chỉ trong trường hợp của Amazon hay Google mà cả các công ty khởi nghiệp như Airbnb và Uber – những gã khổng lồ kỹ thuật số đã bất ngờ xuất hiện và phá vỡ trạng thái vốn có của các doanh nghiệp lão làng, người tiêu dùng, người lao động và thậm chí là nhiều thành phố với tốc độ nhanh không tưởng.