Trở lại năm 2012, một học giả trong lĩnh vực luật thông tin là giáo sư Frank Pasquale của Đại học Maryland đã nhận lời mời phát biểu trong một hội nghị mà ông cho là thiên về học thuật đơn thuần tại Đại học George Mason về chủ đề cạnh tranh, tìm kiếm trực tuyến và truyền thông xã hội. Vào thời điểm đó, Google đang bị điều tra về hành vi chống cạnh tranh trong thị trường tìm kiếm ở Mỹ (nơi FTC đang điều tra vụ Yelp) và ở châu Âu (nơi công ty khởi nghiệp Foundem kiện gã khổng lồ tìm kiếm này với cáo buộc áp dụng các thuật toán phân biệt đối xử trong so sánh giá). Những thách thức về mặt pháp lý bắt nguồn từ nền kinh tế kỹ thuật số thịnh vượng ngày càng trở nên cấp bách hơn, và Pasquale rất hào hứng khi được trao đổi quan điểm với các học giả khác về bối cảnh đang thay đổi.
Pasquale là một học giả có dáng cao, gầy, tính tình hòa nhã và có nét giống diễn viên Jimmy Stewart38 thời trẻ về cả ngoại hình lẫn phong thái. Ông đã dành nhiều thời gian nghiên cứu về Google và những gã khổng lồ công nghệ khác. Ông đã trở thành nguồn thông tin cho các học giả, doanh nhân và các nhà hoạch định chính sách muốn tìm hiểu rõ hơn về việc những gã khổng lồ công nghệ thu thập dữ liệu cá nhân, liên hệ các hành vi của chúng ta và bán những thông tin chi tiết đó cho người trả giá thầu cao nhất.
38 Jimmy Maitland Stewart (1908-1997) là nam diễn viên nổi tiếng kiêm phi công quân đội người Mỹ, được xem là mẫu hình người Mỹ lý tưởng trong những năm giữa thế kỷ 20. Ông đóng tổng cộng 80 bộ phim từ 1935 đến 1991.
Bài thuyết trình của ông – Search, Antitrust, and Competition Policy (tạm dịch: Tìm kiếm, Chống độc quyền và Chính sách cạnh tranh) – tập trung vào Google, nhất là hoạt động nhắm đến dữ liệu cá nhân và phân tích hành vi lướt web của mọi người đã mang đến cho công ty này sức mạnh to lớn để vừa giúp ích vừa làm tổn thương người tiêu dùng.
Pasquale phác họa sơ lược về cách thức hoạt động của chủ nghĩa tư bản giám sát Google: “Hôm trước tôi vừa mua đồ ở một cửa hàng quần áo nam cỡ lớn, thế là hôm nay tôi đã nhận được quảng cáo vé máy bay với chỗ ngồi có không gian để chân rộng rãi hơn”. Ông so sánh thái độ bàng quan của các nhà hoạch định chính sách trước tác động của những thực tế này với cách mà các nhà quản lý cố tình làm ngơ trước những rủi ro do lĩnh vực tài chính gây ra vào năm 2008. Về sau, ông đã viết trong quyển The Black Box Society: “Những người vận động hành lang cho các ngành công nghiệp ‘hộp đen’ coi thường năng lực của chính phủ trong việc hiểu được các phương thức kinh doanh của Google hoặc Goldman”. Tuy nhiên, như ông lưu ý, có rất nhiều ngành công nghiệp phức tạp – chẳng hạn như sản phẩm tiêu dùng, dược phẩm và dịch vụ y tế – đã được điều tiết thành công vì lợi ích của mọi người. Những ngành này cũng chi rất nhiều tiền cho việc vận động hành lang, nhưng bằng cách nào đó các nhà quản lý vẫn có thể chế ngự được họ, thường là sau khi một cuộc khủng hoảng đã gây ra sự phẫn nộ trong công chúng.
Pasquale không hề biết rằng trong buổi hội thảo đó, ông chỉ là người mở đầu cho một chương trình được dàn dựng chống lại ông. Ngay sau bài phát biểu của Pasquale, Scott Sher – một luật sư từ công ty luật Wilson, Sonsini, Goodrich và Rosati của Google – đã bước lên sân khấu. Thay vì một bài thuyết trình mang tính học thuật, Sher đã truyền tải những nội dung giống như một bản tóm tắt các quan điểm của Google (“Cạnh tranh chỉ cách nhau một cú nhấp chuột”, hay đại loại vậy). Không những vậy, ông còn thẳng thừng bác bỏ những chỉ trích của Pasquale về sức mạnh độc quyền của Google, tuyên bố rằng thị phần tìm kiếm 65% (thị phần mà công ty có được vào thời điểm đó) không có gì đáng lo ngại.
Pasquale vô cùng bất ngờ. Tại các hội nghị học thuật, học giả vẫn thường trình bày nghiên cứu của họ và tranh luận qua lại. Nhưng ở đây, Sher cơ bản là đã trình bày một bài PR cho Google. Pasquale chia sẻ: “Ông không chừa thời gian cuối giờ để tôi có thể phản biện, mặc dù tôi đã liệt kê khoảng 15 điều mà tôi muốn chất vấn về bài thuyết trình của ông. Tôi ước gì mình có thể đơn giản yêu cầu được trao đổi, nhưng điều đó có nguy cơ khiến tôi trông giống như một kẻ cấp tiến cuồng loạn”.
Mãi về sau này, Pasquale mới biết ông đã bị lợi dụng: vì là một học giả nổi tiếng thường lên tiếng chỉ trích Google, nên ông có thể trở thành yếu tố đối trọng để tạo sự cân bằng cho một hội nghị mà phần lớn được lên kế hoạch, mua chuộc và chi trả bởi chính Google. Như tờ The Washington Post sau đó đã đưa tin, hội thảo đó là một phần trong chiến dịch của các giám đốc cấp cao của Google nhằm đánh lạc hướng cuộc đối thoại chống độc quyền ở thủ đô nước Mỹ, vào thời điểm FTC đang nghiêm túc cân nhắc xem có nên chia tách công ty này hay không. Theo một email bị rò rỉ cho thấy, các giám đốc cấp cao đã “đề xuất” hầu như mọi diễn giả mà họ biết là có thiện cảm với Google, đồng thời họ cũng làm việc với Trung tâm Luật và Kinh tế của Đại học George Mason để sắp xếp thứ tự diễn thuyết sao cho công ty sẽ xuất hiện với một hình ảnh tích cực. Bên cạnh đó, họ còn đảm bảo những nhân sự chủ chốt của FTC đều nhận được lời mời tham dự, trong đó có Beth Wilkinson – luật sư tranh tụng ở Washington được chỉ định điều tra Google.
BÀN VỀ BIG TECH THEO CÁCH CỦA BIG TECH
Tôi đồng cảm với câu chuyện của Pasquale vì nhiều lý do, một trong số đó là vì bản thân tôi cũng từng rơi vào tình huống tương tự. Năm 2017, tôi xuất hiện trên chương trình Intelligence Squared của đài BBC để tranh luận về chủ đề liệu các công ty Big Tech có nên được chia tách như những công ty độc quyền chống cạnh tranh hay không. Tôi ủng hộ đề xuất này, còn giáo sư Pinar Akman của Đại học Leeds thì kịch liệt phản đối. Akman có những lý do chính đáng của riêng mình, nhưng điều đáng chú ý là phần lớn nghiên cứu của bà lại do Google tài trợ. Những năm gần đây khi tìm hiểu về lĩnh vực công nghệ, tôi bắt đầu xem xét nghiên cứu của nhiều học giả khác nhau, chẳng hạn như giáo sư luật Mark Lemley của Đại học Stanford – tác giả của nhiều nghiên cứu mà tôi cho là Google sẽ quan tâm. Nhưng cuối cùng, khi đọc phần chú thích cuối trang trong một số nghiên cứu của ông, tôi phát hiện ông là một “nhà tư vấn” của Google.
Tôi không có ý gây hấn khi nêu tên các học giả này. Nhưng hóa ra, đây chỉ là phần nổi của tảng băng chìm. Trong hơn một thập niên qua, Big Tech nói chung và Google nói riêng đã tài trợ hoặc trả tiền cho vô số nghiên cứu học thuật được thực hiện về các lĩnh vực có lợi cho công ty. Một phóng sự điều tra của Wall Street Journal vào tháng Bảy năm 2017 về chủ đề này cho thấy Google đã tài trợ hàng trăm công trình nghiên cứu nhằm bảo vệ quyền lực thống trị của công ty này trước những thách thức về luật pháp; khoản tiền tài trợ dao động từ 5.000 đến 400.000 đô-la và đối tượng được tài trợ là các học giả, nhà tư vấn và quan chức chính phủ cả mới lẫn cũ.
Một phần trong khoản tiền đó được chuyển cho giáo sư Daniel Sokol của Đại học Florida, người từng công bố một bài viết vào năm 2016 với lập luận rằng việc Google sử dụng dữ liệu là hoàn toàn hợp pháp. Thời điểm đó, Sokol tuyên bố không có công ty nào tài trợ cho nghiên cứu của ông, nhưng điều ông không công bố là ông đang làm luật sư bán thời gian tại Wilson Sonsini và đồng tác giả bài viết của ông cũng là một cộng sự của công ty luật này. Sokol cũng không công bố thông tin rằng vào tháng Ba năm 2013, ông đã giúp Paul Shaw – một chuyên viên chính sách công của Google (Google có hàng chục chuyên viên như vậy cùng với hàng trăm nhân viên PR và cả một binh đoàn luật sư, tất cả đều làm việc cùng nhau để thúc đẩy các vấn đề mà công ty quan tâm) – thuyết phục các giáo sư luật viết bài cho một hội thảo trực tuyến về chuyên đề bằng sáng chế, ủng hộ quan điểm của Google. Những giáo sư đó không được trả tiền, nhưng Sokol thì đã gửi hóa đơn yêu cầu Google thanh toán 5.000 đô-la cho những việc ông đã làm.
Năm 2016, Dự án Minh bạch Google và Chiến dịch vì Trách nhiệm Giải trình – hai tổ chức được nhiều người biết đến như nguồn tin đáng tin cậy về hoạt động tài trợ của Google cho các học giả và quan chức chính phủ – đã đăng tải bài viết Google’s Silicon Tower (tạm dịch: Tháp Silicon của Google), nói về sự hiện diện của những diễn giả do Google tài trợ tại các hội nghị chính sách quan trọng do FTC, Đại học George Mason và Đại học Princeton tổ chức. Những sự thật quan trọng đã được khám phá: tại hội nghị PrivacyCon 2016 của FTC, có hơn 50% diễn giả (22 trong số 41 người) được tài trợ bởi Google, và hơn 50% công trình nghiên cứu có một tác giả có quan hệ tài chính với Google – nhưng chỉ một người trong số đó tiết lộ là được công ty này tài trợ.
Có lẽ phát hiện gây sốc hơn cả là Lorrie Cranor – trưởng ban công nghệ của FTC vào thời điểm đó – đã nhận 850.000 đô-la từ gã khổng lồ tìm kiếm, bao gồm 350.000 đô-la tiền thưởng nghiên cứu cá nhân và 400.000 đô-la tiền tài trợ chung… Tại sự kiện của George Mason về những cuộc điều tra chống độc quyền toàn cầu có liên quan đến Google, bốn trong năm diễn giả đã nhận tài trợ từ không ai khác ngoài Google. Và tại hội thảo về quyền riêng tư băng thông rộng của Đại học Princeton, năm trong bảy tham luận viên đã nhận tài trợ từ công ty này.
Cần lưu ý rằng Google’s Silicon Tower là công trình nghiên cứu được tài trợ một phần kinh phí bởi các công ty đang có cuộc chiến pháp lý hoặc cạnh tranh với Google. Cụ thể, Dự án Minh bạch Google được hậu thuẫn bởi Microsoft, Yelp cùng nhiều công ty khác; còn Chiến dịch vì Trách nhiệm Giải trình tuy không tiết lộ công ty tài trợ nhưng đã luôn thể hiện sự ủng hộ đối với nhiều quan điểm của Oracle. Tuy vậy, những gì hai tổ chức này phát hiện vẫn là sự thật, cũng như các nghiên cứu do Google tài trợ không nhất thiết là không có giá trị (mặc dù thật khó để tưởng tượng rằng những nhà nghiên cứu được tài trợ đã không có phần thiên vị cho công ty tài trợ mình). Cả bên ủng hộ lẫn bên phản đối Big Tech đều có lý lẽ của riêng họ. Nhưng tất cả những phát hiện này đã cho chúng ta thấy cuộc tranh luận xung quanh các vấn đề then chốt của chính sách kinh tế trong những lĩnh vực quan trọng nhất nước Mỹ gần như đã bị điều khiển bởi các tập đoàn lớn với túi tiền vô hạn.
Trên thực tế, các cuộc tranh luận công khai xung quanh vấn đề độc quyền, quyền riêng tư, an ninh mạng… phần lớn đều được dàn dựng bởi chính những công ty đang là trọng tâm luận bàn. Về bản chất, đó không phải là hành động mua chuộc hay hối lộ. Trợ lý thân cận của một thượng nghị sĩ Đảng Dân chủ có tầm ảnh hưởng và đang nghiên cứu để cải thiện các luật định có liên quan đến vấn đề này cho biết: “Khi tương tác với nhiều học giả đang nghiên cứu dưới vùng trời của Google, tôi biết rằng đó không phải là một sự đổi chác trắng trợn mà tinh vi hơn nhiều. Đó là một cách thật sự hiệu quả để thu hút tài năng và sự quan tâm của xã hội, cả trong ngắn hạn lẫn dài hạn. Google sẽ chọn hỗ trợ các nhà nghiên cứu làm việc trong những lĩnh vực có thể gia tăng lợi ích kinh doanh của Google và/hoặc suy giảm lợi ích kinh doanh của đối thủ cạnh tranh, chẳng hạn như: luật bản quyền nới lỏng, cải cách bằng sáng chế, tính trung lập Internet, kinh tế học tự do, quyền riêng tư, rô-bốt, trí tuệ nhân tạo, quyền sở hữu phương tiện truyền thông, sự giám sát của chính phủ (thường bị lạm dụng để đánh lạc hướng mọi người khỏi hoạt động theo dõi của các doanh nghiệp)… Họ làm điều này thông qua các khoản tài trợ trực tiếp cho nhà nghiên cứu, cho trung tâm, phòng thí nghiệm, tài trợ các hội nghị, hoặc đóng góp cho các nhóm xã hội dân sự và đưa những nhóm này đến dự sự kiện do Google tổ chức”.
Bằng cách này, công ty không chỉ tạo được thiện cảm mà còn thành công trong việc “dùng lời của chính những học giả nổi bật và có tiêu chuẩn học vấn cao để hướng các đồng nghiệp trẻ của họ suy nghĩ tích cực hơn về Google”, theo lời người trợ lý. Có vẻ như những học giả hoàn toàn độc lập như Frank Pasquale ngày càng hiếm thấy trong thời buổi hiện nay.
LẦN THEO DÒNG TIỀN
Toàn bộ tiền tài trợ dĩ nhiên là nhằm kiểm soát cuộc tranh luận về chính sách ở Washington. Bất cứ khi nào các chính trị gia có động thái muốn kiềm chế Big Tech, các công ty này đều có thể trưng ra những chuyên gia từng được họ tài trợ. Hãy xem xét những phiên điều trần trước Quốc hội về độc quyền vào năm 2019, sau khi Thượng nghị sĩ Elizabeth Warren của Đảng Dân chủ kêu gọi chia nhỏ các công ty Big Tech. Trong số các chuyên gia được mời làm chứng có Joshua Wright, cựu cố vấn của Trump kiêm giáo sư Đại học George Mason, người trước đó từng viết một số nghiên cứu học thuật được tài trợ gián tiếp bởi Google và là người đã chỉ trích cuộc điều tra chống độc quyền liên quan đến Google ngay trước khi ông tham gia FTC. Cuối cùng, FTC đã bãi bỏ vụ kiện.
Thượng nghị sĩ Josh Hawley của Đảng Cộng hòa – người từng khởi kiện Google khi ông còn là Tổng Chưởng lý bang Missouri – đặt câu hỏi: Sao người ta có thể biện minh cho việc không có bất cứ hành động nào để kiểm soát Big Tech khi mà “mỗi ngày đều xuất hiện những phát hiện mới và đáng sợ” về mọi thứ, từ việc lạm dụng dữ liệu người tiêu dùng cho đến chủ nghĩa thân hữu chính trị? Một bài viết trên tạp chí Wired đã trích lời đáp của Wright, theo đó quan điểm của ông đã “thu hút những người ủng hộ cùng chí hướng” khi cuộc tranh luận chống độc quyền ngày càng tiến triển.
Không có gì ngạc nhiên. Những năm qua, ngành công nghệ đã lặng lẽ trở thành lĩnh vực có sức mạnh vận động hành lang vượt trội ở Mỹ, cả về lượng tiền mặt khủng lẫn quyền lực mềm mà họ vận dụng trong nỗ lực tránh né các quy định có thể phá vỡ mô hình kinh doanh của họ. Theo Trung tâm Chính trị Đáp ứng, ngành công nghiệp Internet và điện tử đã chi tổng cộng 216,4 triệu đô-la cho việc vận động hành lang liên bang vào năm 2017 và 224,6 triệu đô-la vào năm 2018 – nhiều hơn bất kỳ ngành nào khác ngoại trừ các hãng dược phẩm lớn trong Big Pharma. Trong cả hai năm đó, Google chính là công ty chi nhiều nhất cho vận động hành lang. Song, Amazon là tập đoàn dẫn đầu về số lượng vấn đề mà họ vận động – có thông tin tiết lộ họ đã vận động bốn mươi cơ quan liên bang về hai mươi mốt vấn đề lớn vào năm 2018. Một số chủ đề thường được vận động bao gồm: tính trung lập Internet, viễn thông và tiêu chuẩn dữ liệu. Nhưng đối với Amazon, họ lại quan tâm nhiều hơn tới các vấn đề có liên quan đến xe tự hành và máy bay không người lái – những phương tiện họ sẽ sử dụng để vận chuyển lượng hàng hóa khổng lồ hằng năm của mình. Tập đoàn bán lẻ này cũng vận động hành lang để các cửa hàng thực phẩm được tham gia một số chương trình nhất định của chính phủ (phản ánh mối quan tâm mới của Amazon đối với lĩnh vực thực phẩm, về sau đã dẫn đến quyết định mua lại chuỗi cửa hàng Whole Foods), và thúc đẩy những điều luật có lợi cho hoạt động kinh doanh dược phẩm của mình (sau khi công ty mua lại trang bán thuốc trực tuyến PillPack vào năm 2018). Ngay cả Netflix cũng nỗ lực thực hiện các cuộc vận động hành lang lớn ở cả Mỹ lẫn châu Âu xung quanh những vấn đề như bản quyền, nguyên tắc bảo mật cùng nhiều quy định kỹ thuật số khác nhau.
Nhưng đó chỉ là số tiền chúng ta có thể nhìn thấy. Thung lũng Silicon thậm chí còn tài trợ cho nhiều nhóm lợi ích và tổ chức phi chính phủ không liên quan, những bên thứ ba mà về sau sẽ lập luận theo hướng có lợi cho các ông trùm công nghệ, hoặc là công khai bào chữa hoặc đơn giản là lược bỏ những chương trình nghị sự có thể gây bất lợi cho lĩnh vực công nghệ. Riêng Google đã ném tiền vào hơn một trăm bốn mươi tổ chức như vậy, trong đó có nhiều tổ chức phi lợi nhuận, tổ chức nghiên cứu học thuật và hiệp hội truyền thông.
Nhiều nội dung truyền thông khiến tôi cảm thấy đặc biệt khó chịu vì những lý do rất hiển nhiên. Sau vụ bê bối can thiệp bầu cử năm 2016, Facebook quyết định “bù đắp cho những tội lỗi họ gây ra cho báo chí” – theo bài báo trang bìa của tạp chí Wired năm 2019 – và chi hàng trăm triệu đô-la để hỗ trợ ngành báo chí địa phương vốn đã bị chính những gã khổng lồ nền tảng tiêu diệt khi giành gần như toàn bộ số tiền quảng cáo trên các nền tảng kỹ thuật số mới. Google cũng trao tặng những khoản tiền lớn để các tổ chức tin tức phát triển một số loại nội dung nhất định (nhiều nhà xuất bản tên tuổi đã nhận sự “hào phóng” này). Bạn có thể lập luận rằng điều này cho thấy Big Tech đang cố gắng sửa chữa những thiệt hại họ gây ra cho ngành tin tức nói riêng và nền dân chủ tự do nói chung. Nhưng tôi thấy ngành báo chí lẽ ra đã không lâm vào tình thế như vậy nếu ngay từ đầu, người sáng tạo nội dung được chia một phần doanh thu hợp lý cho những gì họ tạo ra.
Nắm bắt nhận thức là một nghệ thuật tinh tế. Nếu bạn theo dõi dòng tiền đủ lâu, nó sẽ dẫn bạn đến “cánh cửa xoay” giữa Washington với Thung lũng Silicon. Ở đó, bạn sẽ thấy Google, Facebook cùng nhiều công ty lớn thường xuyên chi tiền cho các cựu quan chức có sức ảnh hưởng, để họ liên tục đi qua “cánh cửa xoay” và tác động qua lại giữa chính sách với kinh doanh, khuyến khích hoặc cổ xúy những quan điểm ủng hộ công nghệ (chẳng hạn như quyền riêng tư thực chất là sự xâm phạm tự do công dân, giá rẻ nên là thước đo chủ chốt cho hàng tiêu dùng, các công nghệ gây nghiện thật sự tốt cho trẻ em…).
Google không phải là công ty duy nhất đi qua “cánh cửa xoay” này, dù họ thật sự đã tận dụng nó vô số lần trong vài năm qua. Rất nhiều công ty công nghệ khác cũng muốn có được tầm ảnh hưởng tương tự Google. Chẳng hạn, Uber đã mời David Plouffe – người từng giúp Barack Obama chạy đua vào Nhà Trắng – về điều hành các công tác chính trị và truyền thông vào năm 2014. Sau Plouffe, Uber đã tuyển thêm các nhà vận động hành lang chuyên gia nghiên cứu tài giỏi hơn để nâng cao vị thế của công ty và có được sự ủng hộ của tổ chức Các bà mẹ Chống lại việc Lái xe khi say rượu. Facebook cũng chi tiền để mời hàng chục cựu chính trị gia tham gia hoạt động vận động hành lang của công ty, bao gồm Sandy Luff (cựu giám đốc lập pháp của Bộ trưởng Tư pháp Jeff Sessions), Catlin O’Neill (cựu giám đốc nhân sự của Nancy Pelosi), và Gary Maurer (trợ lý lâu năm của Chủ tịch Hạ viện John Boehner). Việc Facebook và Google lợi dụng “cánh cửa xoay” đặc biệt đáng báo động khi các chính trị gia là khách hàng của hai công ty này, xét trên phương diện các phương tiện truyền thông xã hội và trang tìm kiếm đã trở thành một phần thiết yếu trong nỗ lực vận động tranh cử ở cả cánh hữu và cánh tả, thậm chí là có tầm ảnh hưởng ngày càng lớn sau mỗi cuộc bầu cử.
Tình trạng này được cho là đã diễn ra từ lâu, theo nhận định của hai nhà nghiên cứu Daniel Kreiss và Shannon McGregor, được đề cập trong bài viết Technology Firms Shape Political Communication: The Work of Microsoft, Facebook, Twitter and Google with Campaigns During the 2016 U.S. Presidential Cycle (tạm dịch: Các công ty công nghệ định hình truyền thông chính trị – Việc làm của Microsoft, Facebook, Twitter và Google qua các chiến dịch trong cuộc bầu cử tổng thống 2016). Những công ty này không chỉ bán dịch vụ cho các chiến dịch chính trị (và kiếm được rất nhiều tiền trong quá trình này), mà còn tích cực định hình hoạt động truyền thông với vai trò gần giống như “một nhà tư vấn kỹ thuật số chuyên định hình chiến lược kỹ thuật số, nội dung và triển khai”. Không còn là những nền tảng trung lập, càng không phải những tay chơi truyền thông theo kiểu truyền thống, Big Tech đã chuyển sang lĩnh vực tư vấn chính trị và trở thành “những tác nhân chủ động trong tiến trình chính trị”.
THẾ LỰC HẬU THUẪN ĐẰNG SAU CÁC NHÀ LÃNH ĐẠO
Dù không phải là tập đoàn công nghệ duy nhất tham gia một chiến dịch lớn nhằm tác động đến tư tưởng của giới quản lý ở Washington, nhưng Google – với số lượng lãnh đạo đến thăm Nhà Trắng nhiều hơn bất kỳ công ty nào khác dưới thời Obama – cho đến thời điểm đó đã trở thành “tổ chức có quyền lực chính trị lớn nhất trên thế giới”. Cách công ty này vận dụng tầm ảnh hưởng của mình đã làm nổi bật một thực tế: tiền bạc trong chính trị đã bóp méo nền kinh tế của chúng ta, làm xói mòn cả khả năng cạnh tranh lẫn lòng tin của công chúng đối với thể chế.
Ví dụ, hãy xem xét các vấn đề về quyền riêng tư dữ liệu và chống độc quyền. Một trong những bước ngoặt lớn đối với Google trong những khía cạnh này là quyết định mua lại mạng quảng cáo DoubleClick vào năm 2007, công ty hàng đầu giúp các đơn vị và đại lý quảng cáo chọn ra trang web phù hợp nhất cho quảng cáo của họ. Trong quyển In the Plex, Steven Levy nhận xét: “Thương vụ mua lại DoubleClick đã mở rộng đáng kể phạm vi thông tin mà Google có thể thu thập về hoạt động duyệt web của mọi người trên Internet”.
Cả đối thủ cạnh tranh của Google lẫn các cơ quan quản lý đều đặt dấu chấm hỏi về thỏa thuận này nhưng cuối cùng nó vẫn được tiến hành, chủ yếu là vì tư duy theo Trường phái Chicago không thể cho ra một lập luận chống độc quyền đủ mạnh mẽ để phản đối thỏa thuận đó (ngay cả khi nó có thể dẫn tới hệ quả là Google nắm quyền kiểm soát đại đa số các quảng cáo trực tuyến). Bản thân Google cũng đặt dấu chấm hỏi về thỏa thuận đó, ít nhất là về những tác động có thể ảnh hưởng lợi nhuận của họ. Ban đầu, Larry Page và Sergey Brin có thái độ rất miễn cưỡng đối với việc kết hợp các dữ liệu cũng như thông tin được thu thập qua cookies trên nền tảng của mình với những gì có thể được thu thập qua DoubleClick (công ty giờ đây đã là một phần của Google). Cuối cùng, trước áp lực tăng trưởng, Google đã nhượng bộ. Theo Levy, nhờ sự hợp nhất này, “Google đã trở thành công ty duy nhất có khả năng tập hợp dữ liệu người dùng từ cả những từ khóa ngắn và phổ biến lẫn những từ khóa dài và cụ thể trên Internet. Câu hỏi đặt ra là Google có tổng hợp những dữ liệu đó để theo dõi toàn bộ hoạt động của người dùng Internet không? Câu trả lời là có”.
Google luôn hứa rằng họ sẽ xin phép nếu muốn sử dụng dữ liệu của người dùng vì bất kỳ mục đích nào khác ngoài những mục đích mà người dùng đã đồng ý trước đó, đối với những dịch vụ người dùng đăng ký sử dụng (như tìm kiếm thông tin, sử dụng email, mạng xã hội hay bản đồ). Nhưng từ lâu, Google đã bắt đầu tổng hợp và bán tất cả dữ liệu họ có về người dùng cho người đấu thầu cao nhất. Có quá nhiều thứ phải lo về “quảng cáo và các động cơ hỗn tạp”, như Page và Brin đã nói trong một bài viết năm 1998 cách-nay-không-lâu, theo đó họ cũng băn khoăn về việc một bộ máy tìm kiếm được tài trợ bởi quảng cáo nhắm mục tiêu có thể sẽ gây hại. Cách thức mới để xử lý dữ liệu người dùng tuy không vi phạm luật pháp Mỹ một cách trắng trợn, nhưng cũng không hoàn toàn minh bạch. Trên thực tế, một số hành vi của Google đã vi phạm Khuôn khổ Đảm bảo An toàn của Mỹ và Liên minh châu Âu – bộ quy tắc có vai trò điều tiết cách thức dữ liệu được truyền tải giữa hai vùng lãnh thổ. Thực tế này đã trở nên trắng trợn khi Google ra mắt Buzz, dịch vụ mạng xã hội chỉ tồn tại được một thời gian ngắn vào năm 2011 và đã bị lên án vì cách thức nó tổng hợp cũng như tiết lộ thông tin người dùng.
Tháng Ba năm 2011, FTC ban hành một lệnh cưỡng chế, yêu cầu Google phải thay đổi cách xử lý dữ liệu, cụ thể là phải có được sự đồng ý rõ ràng từ người dùng trước khi tiết lộ dữ liệu của họ cho các đơn vị quảng cáo (hoặc bất kỳ bên thứ ba nào). Nhưng chưa đầy một năm sau, trong một bài chia sẻ, công ty này đã khoe rằng họ sẽ “coi bạn như một người dùng duy nhất trên tất cả các sản phẩm [của họ] và mang tới cho bạn những trải nghiệm đơn giản hơn, trực quan hơn”. Trung tâm Bảo mật Dữ liệu Điện toán (Electronic Privacy Information Center – EPIC), một nhóm giám sát phi lợi nhuận, đã đệ đơn khiếu nại kêu gọi FTC không cho phép Google hợp nhất thông tin cá nhân và đi tắt qua sự riêng tư của người dùng.
Không có gì ngạc nhiên khi sau đó, rất nhiều người dùng cũng đệ đơn khiếu nại. Vấn đề là tòa án không thể buộc FTC thực thi quyết định cưỡng chế của họ; và trong những năm tiếp theo, Google vẫn không ngừng đề cao những phương thức mà họ đang áp dụng để hợp nhất và kiếm tiền từ hoạt động giám sát trên nhiều ứng dụng, nền tảng và thiết bị, thậm chí họ còn tuyên bố là sẽ sớm có thể theo dõi các cuộc trò chuyện ở cửa hàng hoặc qua điện thoại. Khi có thêm nhiều đơn khiếu nại được đệ trình, vào năm 2012, Google đã phải nộp cho FTC một khoản phạt dân sự lớn chưa từng có. Theo đó, công ty này bị cáo buộc là đã lợi dụng lỗ hổng để vượt qua thiết lập quyền riêng tư trên trình duyệt Safari của Apple và theo dõi người dùng của trình duyệt này, nhưng đồng thời lại tạo cho người dùng cảm giác là họ không hề bị theo dõi.
Điều quan trọng ở đây là nhiều năm trước khi có những hành động này, Google đã âm thầm vận động hành lang để nâng cao vị thế của mình. Như thường lệ, việc đó được tiến hành bằng cách ném rất nhiều tiền vào các trường đại học, tổ chức tư vấn và hội nhóm phi chính phủ – những bên mà về sau này Google có thể kêu gọi mọi người ủng hộ Google. Trong một bài viết trên tạp chí Wired năm 2019 về cách Google tác động đến các cuộc đàm luận ở Washington, Marc Rotenberg – giáo sư luật của Đại học Georgetown kiêm chủ tịch của EPIC – khẳng định Google đã bắt đầu chiến dịch vận động ngay sau khi EPIC đệ đơn khiếu nại về việc công ty này mua lại DoubleClick vào năm 2007 và Nest vào năm 2014. “Tiền mua được sự im lặng. Google không cần các chuyên gia đồng tình với mình. Google chỉ cần họ quay mặt nhìn đi hướng khác”, Rotenberg chia sẻ.
Về phần các cơ quan quản lý, thật khó để lập luận rằng họ đã làm tròn trách nhiệm. Đối với Big Tech cũng như Big Finance, những khoản phạt lớn đã luôn được xem như một kiểu chi phí kinh doanh không thể tránh khỏi. Thung lũng Silicon biết rằng họ chỉ cần rút tiền từ các kho bạc ngày càng lớn của mình, và các vấn đề pháp lý sẽ được giải quyết. Không có gì ngạc nhiên khi những người lẽ ra phải quan tâm đến lợi ích của công dân về cơ bản lại không thể hoặc không muốn thực hiện bất kỳ thay đổi nào liên quan đến hành vi doanh nghiệp. Trên thực tế, trong nhiều trường hợp, lợi ích của doanh nghiệp và của nhà hoạch định chính sách dường như lại có quan hệ mật thiết với nhau. Khi tôi đang trong quá trình nghiên cứu cho quyển sách này, một trợ lý Thượng viện đã thẳng thắn nói với tôi: “Google chính là Halliburton của Obama”.
Khi ảnh hưởng của Google trong Nhà Trắng của Obama ngày càng tăng, công ty càng quan tâm đến một chủ đề gây tranh cãi đã xuất hiện trong báo cáo quan trọng về tương lai của Internet. Báo cáo này được viết bởi một ủy ban do phó chủ tịch Marissa Mayer của Google chủ trì và được Nhà Trắng công bố vào năm 2009. Theo đó, báo cáo này ủng hộ cái gọi là “tính trung lập Internet”, một thuật ngữ được đặt ra vào đầu những năm 2000 bởi nhà nghiên cứu Tim Wu, người sau này trở thành một nhà phê bình Big Tech nổi tiếng.
Tính trung lập Internet là ý tưởng chủ chốt của chính sách “truy cập mở”, nguyên nhân gây sự chia rẽ ngày càng tăng giữa những gã khổng lồ kỹ thuật số với các đại gia viễn thông. Các ông trùm nền tảng phe Big Tech ủng hộ luật trung lập Internet, điều luật cấm những nhà cung cấp mạng như AT&T hay Verizon tính phí cao hơn để ưu tiên một số loại nội dung nhất định. Ví dụ, Google muốn đảm bảo rằng Comcast không thể phát nội dung của Hulu nhiều hơn nội dung của YouTube nếu Hulu sẵn sàng trả nhiều tiền hơn. Về cơ bản, đó là một cuộc chiến giành sân chơi của các doanh nghiệp. Nhưng giới hoạch định chính sách và các nhà vận động hành lang của Big Tech đã khéo léo dán nhãn đó là cuộc chiến bảo vệ kẻ yếu.
Tính trung lập Internet có thể được hiểu ngắn gọn là mọi người – bất luận giàu hay nghèo, từ công ty khởi nghiệp cho đến tập đoàn đa quốc gia – đều có cơ hội sử dụng Internet như một sân chơi bình đẳng. Những người theo chủ nghĩa tự do ở Mỹ ủng hộ ý tưởng này vì những lý do rõ ràng là có liên quan đến công bằng xã hội. Nhưng một số người bảo thủ cũng như một số thành viên của cộng đồng kinh doanh cho rằng ý tưởng đó sẽ khiến các nhà cung cấp Internet không thể thu về phần lợi nhuận xứng đáng với các khoản đầu tư của họ vào băng thông rộng (khoản đầu tư mà Google hay các công ty nền tảng không phải bỏ ra). Thật ra, đây là một luận điểm hợp lý. Nói cho cùng, các công ty viễn thông đã xây dựng đường cao tốc kỹ thuật số thế kỷ 21 hiện chỉ có tỷ suất lợi nhuận một chữ số, trong khi những công ty như Google hay Facebook (đại khái là chỉ cần đợi người dùng tải lên video về một chú mèo và bán các quảng cáo siêu mục tiêu nhắm vào người đó) lại có được tỷ suất lợi nhuận lên tới hai con số.
Tất nhiên, điểm thỏa hiệp vẫn chưa được xác định. Hiển nhiên là sẽ hợp lý hơn nếu người dùng Internet chỉ phải trả một mức cước dữ liệu cho mọi loại nội dung họ xem. Công dân không nên bị phân chia giàu nghèo ngay cả ở trên mạng. Quyền của mỗi cá nhân cũng không nên bị xâm phạm bởi cuộc chiến tranh giành sân chơi của các tập đoàn lớn. Giải pháp đơn giản là đặt ra cho các cá nhân những nguyên tắc khác với các công ty lớn. Nhưng vấn đề là những hội nhóm được Big Tech tài trợ như Tổ chức Biên giới Điện tử (Electronic Frontier Foundation – EFF, tổ chức chắc chắn có nhiều ý định tự do dân sự tốt đẹp đằng sau những gì họ làm, nhưng cũng nhận được hàng triệu đô-la tài trợ từ những gã khổng lồ Internet vốn là các doanh nghiệp hưởng lợi lớn nhất từ tính trung lập Internet), lại đưa ra những lập luận mạnh mẽ như: các nhà cung cấp dịch vụ cáp mạng không nên được quyền tính phí Google hoặc Netflix cao hơn chỉ vì có nhiều video được tải xuống qua các trang mạng này; hoặc khi các nhà cung cấp dịch vụ Internet sở hữu nhiều quyền lực hơn, sự đổi mới trên Internet sẽ bị bóp chết, các doanh nghiệp nhỏ sẽ chịu nhiều tổn hại. Trong khi đó, nhiều nhà phê bình cho rằng so với các đại gia viễn thông, bản thân các công ty Big Tech đã là một rủi ro lớn hơn cho sự đổi mới: chủ yếu vì hiệu ứng mạng đã biến họ thành những nhà độc quyền tự nhiên, mang đến cho họ quyền lực thống trị và khả năng phá vỡ cạnh tranh bằng vô số cách thức.
Năm 2015, FCC ban hành Lệnh Internet Mở, tạo điều kiện cho Big Tech thật sự phá vỡ cạnh tranh. Điều luật này khiến các công ty cáp mạng phải chuyển bớt gánh nặng “tự do” sang người dùng và dẫn đến một hệ quả là việc triển khai đường truyền băng thông rộng bị đình trệ, nhất là ở vùng nông thôn. Vài năm trước đó, bản thân Google đã cố thâm nhập sâu hơn vào các khu vực chưa được phục vụ ở nhiều vùng khác nhau của Mỹ, nhưng sau đó đã chủ động giảm mức độ nỗ lực khi phát hiện việc lắp đặt cáp quang khó hơn và ít lợi nhuận hơn nhiều so với việc kiếm tiền từ dữ liệu cá nhân thông qua quảng cáo nhắm mục tiêu.
Năm 2017, FCC dưới thời Tổng thống Trump đã rút lại các quy định về tính trung lập Internet. Năm 2019, Hạ viện thông qua dự luật khôi phục những quy định này, quyết tâm biến nó thành một điều luật quan trọng trong bầu cử. Nhưng hiện vẫn chưa có một cuộc thảo luận rõ ràng và trung thực nào về việc hai chính đảng đang thật sự quan tâm đến lợi ích của ai, người tiêu dùng hay các công ty lớn. Giới phê bình trong ngành viễn thông cho rằng kể từ khi quy định về tính trung lập Internet được rút lại vào năm 2017, các công ty cáp mạng lớn vẫn không đầu tư thêm vốn như họ đã hứa để cải thiện mạng lưới. Đó là một nhận định dễ hiểu, đồng thời nó cũng đặt ra câu hỏi về những cuộc thảo luận ban đầu xung quanh tính trung lập Internet (dù tình trạng chậm chi vốn thời điểm đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, như nguy cơ suy thoái hay sự bất đồng về các nguyên tắc đối với 5G). Nhưng thực tế là kể từ năm 2017, tốc độ băng thông rộng đã tăng lên, và dường như chưa có bất kỳ kiểu phân biệt tốc độ truy cập nào giữa người giàu và người nghèo khi họ tải xuống những đoạn video có mấy em mèo đáng yêu. Vấn đề ở đây là cuộc chiến này không thật sự liên quan đến lợi ích của công chúng mà là đến lợi ích của các công ty.
Tính trung lập Internet là một chủ đề đã thu hút nhiều người công khai tranh luận về những vấn đề quan trọng trong kinh tế cũng như xã hội của chúng ta. Bằng sáng chế hay sở hữu trí tuệ, như tôi đã đề cập nhiều trong Chương 5, là một chủ đề khác. Trong những năm gần đây, tôi đã nghe nhiều lời than phiền từ nhiều khu vực khác nhau – từ các công ty công nghệ sinh học mới thành lập, doanh nghiệp bán dẫn và điện tử, công ty công nghệ sạch, nhóm phân tích dữ liệu, tổ chức giáo dục, hay các nhà đổi mới đang nghiên cứu Internet vạn vật… đến giới đầu tư mạo hiểm đang đầu tư vào các lĩnh vực này – rằng hệ thống bằng sáng chế và cuộc tranh luận về cách cấu trúc nó đã bị tác động bởi lợi ích của những công ty công nghệ lớn nhất nước Mỹ. Có vẻ như những tổ chức duy nhất không phàn nàn về hệ thống hiện tại là Google, Apple, Intel, Cisco cùng những gã khổng lồ khác của Thung lũng Silicon.
Dù tất cả những tay chơi lớn này cũng có bằng sáng chế cần bảo vệ, nhưng mô hình kinh doanh của họ – liên quan đến các sản phẩm được cấu thành từ hàng trăm, thậm chí hàng ngàn tài sản trí tuệ – lại có khuynh hướng hoạt động hiệu quả hơn khi nó ít dính tới vấn đề bản quyền hơn. Trong khi đó, các nhà cung cấp phần mềm hoặc phần cứng quy mô vừa và nhỏ cũng như các công ty khoa học đời sống lại có mô hình kinh doanh khác – những mô hình kinh doanh tồn tại nhờ khả năng bảo vệ bằng sáng chế và lợi nhuận hóa khoản đầu tư họ đã bỏ ra. Những doanh nghiệp này tin rằng các nguyên tắc về quyền sở hữu trí tuệ đã bị đẩy đi quá xa. (Một nhóm lưỡng đảng gồm một số thành viên Quốc hội và người đứng đầu hiện tại của Văn phòng Thương mại và Sáng chế Mỹ cũng có cảm nhận tương tự, mặc dù họ đã gặp đôi chút rắc rối khi có quá nhiều người để ý đến quan điểm của họ.)
Dĩ nhiên, Big Tech không đồng tình với những ý kiến trên. Nhưng vấn đề không nằm ở chỗ đây là một cuộc tranh luận một chiều. Vấn đề là mối quan tâm của các doanh nghiệp lớn nhất có thể dễ dàng thay đổi cuộc chơi cho phù hợp với bản thân họ theo những cách có thể làm tổn hại toàn bộ hệ sinh thái kinh tế. Còn rất nhiều lĩnh vực khác mà chúng ta có thể xem xét để làm sáng tỏ việc Big Tech đã “mua” cuộc tranh luận của công chúng, từ các quy định về xe hơi tự hành và giám sát công cộng, đến chống độc quyền và vấn đề bản quyền. Nhưng công bằng mà nói, nhiều lợi thế mà Big Tech đang tận dụng thực chất được tạo điều kiện nhờ tính ì của hệ thống pháp lý, cũng giống như các cuộc vận động hành lang tích cực xuất phát từ những lỗ hổng trong hệ thống pháp luật. Khi không được kiểm soát bởi các điều luật cấp tiến và chặt chẽ, ngành công nghiệp này tiếp tục được hưởng lợi từ các quy định được đặt ra từ hàng chục năm trước, thời điểm các công ty công nghệ hiện đại chỉ mới bắt đầu khởi nghiệp.
Trên thực tế, có rất nhiều điều luật quan trọng nhằm điều tiết nền thương mại kỹ thuật số được soạn thảo vào những năm 1980 và 1990, khi Internet còn là một thế giới hoàn toàn khác. Ví dụ, Mục 230 của CDA cho phép công ty công nghệ được miễn trừ trách nhiệm đối với những gì người dùng làm và nói trên nền tảng của họ. Vào năm 1996, khi điều luật này được phát triển, không ai đoán được rằng nó sẽ trở thành một lỗ hổng pháp lý và bị những công ty như Backpage.com lợi dụng để tạo ra và thu về không ít lợi nhuận từ một nền tảng mại dâm trực tuyến. Vào ngày 1 tháng Tám năm 2017, tập thể thượng nghị sĩ của cả hai chính đảng – đứng đầu là đảng viên Dân chủ Claire McCaskill của bang Missouri và đảng viên Cộng hòa Rob Portman của bang Ohio – đã đưa ra một dự luật mới nhằm khắc phục Mục 230 và ngăn chặn các công ty công nghệ cố ý tạo điều kiện cho việc buôn bán tình dục, nghĩa là các công ty này có thể sẽ phải chịu trách nhiệm. Dự luật này được gọi là Đạo luật Ngăn chặn Việc Cho phép Mua bán Tình dục (Stop Enabling Sex Traffickers Act – SESTA). Đó là một điều luật hiếm hoi mà hầu như mọi người đều ủng hộ, ngoại trừ các công ty công nghệ lớn nhất và các nhóm vận động hành lang của họ – những người lo ngại rằng nó sẽ gây cho họ vô số vấn đề pháp lý.
Vì vậy, họ quyết định chiến đấu chống lại dự luật đó. Các nhóm vận động hành lang đã có bản phác thảo dự luật từ nhiều tháng trước khi nó được công bố, nhưng họ từ chối đưa ra các đề nghị chỉnh sửa trong quá trình soạn thảo. Kevin Smith, người phát ngôn của văn phòng chính phủ ở Portman cho biết: “Chúng tôi đã tiến hành thẩm định, cử người đại diện của cả hai đảng để gặp gỡ cộng đồng công nghệ trong nhiều tháng, nhưng họ không đưa ra bất kỳ phản hồi mang tính xây dựng nào”. Các công ty công nghệ tỏ rõ thái độ phản đối đối với việc điều chỉnh Mục 230, thậm chí họ còn đề xuất một số lựa chọn thay thế (kém hiệu quả), chẳng hạn như nâng mức án của các điều luật hình sự. Thời điểm đó, phát ngôn viên Noah Theran của Hiệp hội Internet – một tổ chức thương mại đại diện cho Google, Facebook và nhiều công ty công nghệ khác – đã nói với tôi: “Toàn bộ ngành công nghiệp Internet đều muốn chấm dứt nạn buôn người. Nhưng có nhiều cách để làm điều đó mà không cần sửa đổi điều luật có vai trò quan trọng đối với những dịch vụ Internet hợp pháp”.
Như bạn có thể tưởng tượng, thái độ của Big Tech không khiến mọi người có cái nhìn tốt đẹp về họ, nhất là sau khi nhà báo Nicholas Kristof của tờ New York Times chỉ trích việc Google vận dụng sức mạnh vận động hành lang để đẩy lùi đạo luật được xây dựng nhằm trấn áp nạn mua bán tình dục. Một thời gian sau, Facebook – công ty vốn đang tìm cách gây dựng lại hình ảnh sau nhiều tháng áp lực về vai trò của bản thân trong vụ thao túng bầu cử năm 2016 liên quan đến gián điệp Nga – đã quyết định nhượng bộ và tán thành dự luật. Hiệp hội Internet sau đó cũng nhượng bộ. Google vẫn im lặng; có lẽ vì một báo cáo của Cơ quan Giám sát Người tiêu dùng thời điểm đó đã vạch trần việc ông trùm này âm thầm chống lại những nỗ lực của Quốc hội suốt một thời gian dài, bất chấp những tác động tiêu cực xuất phát từ hoạt động buôn bán tình dục. Hai nhóm vận động hành lang quan trọng khác là Hiệp hội Công nghệ Người tiêu dùng và NetChoice vẫn tiếp tục phản đối. Dự luật SESTA, vốn không có gì khó quyết định, cuối cùng đã được thông qua.
Nhưng ngành công nghiệp này vẫn cố gắng tìm kiếm “cửa hậu” để đảo ngược hoặc lách luật, như thông qua việc đàm phán lại các thỏa thuận thương mại chẳng hạn. EFF đã thách thức tính hợp hiến của SESTA, bất chấp các bằng chứng cho thấy điều luật này thật sự đã giúp giảm nạn buôn bán tình dục và tội phạm trực tuyến.
Nói một cách công bằng, những lo ngại của EFF về gánh nặng kiểm duyệt là hoàn toàn chính đáng. Họ không sai khi cảm thấy lo ngại trước ý tưởng rằng các công ty nền tảng buộc phải kiểm duyệt mọi thứ trên Web, vì như giám đốc chính sách David Greene của EFF đã nói với tôi vào năm 2018: “Họ rất dở trong vấn đề kiểm duyệt”. Chắc chắn bạn cũng hiểu được góc nhìn từ cả hai phía. Nhưng giữ nguyên hiện trạng cũng không phải là cách. Những vấn đề đó sẽ không tự biến mất. Và trên thực tế, sự thiếu trách nhiệm của các công ty nền tảng cũng như việc họ không đủ khả năng kiểm soát những nội dung có vấn đề đã làm nổi bật một điều: chúng ta rất cần một khuôn khổ quy định mới cho nền kinh tế kỹ thuật số. Nhưng vì các chính trị gia – và cả các chuyên gia tư vấn phi lợi nhuận, học giả, thậm chí là một số phóng viên – đều bị tác động bởi những câu chuyện Big Tech thường kể, nên khuôn khổ mới đó vẫn chưa được khai sinh.
Qua những câu chuyện đó, họ đã truyền tải rất nhiều thông tin hư cấu về châu Âu. Nhiều doanh nhân và một số chính trị gia Mỹ thường chê bai châu Âu là có tư duy cũ theo kiểu “thống kê” và khắc họa về họ như một nơi “cứng nhắc”, minh chứng cho thấy vì sao các quy định lại là kẻ thù của tăng trưởng. Nhiều nhà hoạch định chính sách của châu Âu từng than với tôi về các giám đốc điều hành đến từ Thung lũng Silicon: “Họ đến đây và bảo rằng chúng tôi không phải là những người cách tân, chúng tôi không tạo ra được những công ty công nghệ lớn nhất, hay chúng tôi quan tâm [đến quyền riêng tư và độc quyền] chỉ vì chúng tôi đang cay cú bởi bản thân không bằng họ”.
Nhưng một nghiên cứu thú vị của học giả Germán Gutiérrez và Thomas Philippon cho thấy trong thực tế, thị trường EU xét trên nhiều phương diện lại có tính cạnh tranh cao hơn so với thị trường Mỹ. Nghiên cứu này cũng đồng thời chỉ ra kể từ những năm 1990, chính sự gia tăng đột biến về vận động hành lang ở Mỹ đã khiến EU có mức độ tập trung doanh nghiệp, lợi nhuận vượt mức và rào cản gia nhập thị trường thấp hơn đáng kể. Thêm vào đó, Gutiérrez và Philippon còn phát hiện mức tăng chi phí cho việc vận động hành lang ở Mỹ là lý do chủ yếu khiến mức độ tập trung giữa hai khu vực có sự khác biệt rõ ràng.
Hai chuyên gia này nhận định: “Các cơ quan quản lý ở châu Âu độc lập hơn các cơ quan ở Mỹ, và họ cũng mạnh tay hơn bất kỳ quốc gia nào khác trong việc thực thi các chính sách ủng hộ cạnh tranh”. Nếu chúng ta nhìn vào số GDP và quy mô của các công ty lớn nhất để xác định năng lực cạnh tranh, châu Âu xếp sau Mỹ. Nhưng như hầu hết các nhà kinh tế ngày nay sẽ đồng ý, GDP không phải là một chỉ số đầy đủ để đo sự thịnh vượng, và mức tập trung doanh nghiệp cao hơn là dấu hiệu của một nền kinh tế yếu kém chứ không phải sôi động. Thực tế này là lời phản biện rõ ràng trước lập luận phổ biến của Thung lũng Silicon rằng châu Âu không có một gã khổng lồ Internet đơn giản vì họ không sáng tạo, không đổi mới. Đúng là châu Âu không có nhóm khổng lồ công nghệ có tầm cỡ ngang nhóm FAANG. Nhưng bằng cách nào đó, họ lại tốt hơn nhiều.
Điều này không có nghĩa là châu Âu không có những vấn đề riêng trong việc hành pháp hay những mối quan hệ không lành mạnh giữa khu vực công quyền với khu vực tư nhân. Ví dụ, hệ thống ngân hàng yếu kém của Đức là một minh họa hoàn hảo cho thấy những mối quan hệ mật thiết có nguy cơ dẫn đến sự xung đột lợi ích và cuối cùng gây phản tác dụng (hãy xem xét những ngân hàng nhà nước có đòn bẩy tài chính cao của Đức đã phá sản vào năm 2008 và câu chuyện cứu trợ Ngân hàng Deutsche Bank vẫn đang tiếp diễn ở hiện tại).
Nhưng ở Mỹ, quyền lực chính trị tuyệt đối được tận dụng bởi một số ít công ty hàng đầu nói chung là lớn đến mức khác thường. Ví dụ, năm 2019, Google công bố kế hoạch triển khai nội dung trực tuyến tốc độ cao cho Cuba – một động thái hoàn toàn trái ngược với lời hứa của Tổng thống Trump là sẽ cứng rắn với chế độ của Nicolás Maduro ở Venezuela. Có lẽ bạn cũng biết, Cuba vốn được cho là đã cung cấp thông tin tình báo cho chính quyền Caracas của Maduro. Vậy làm thế nào mà Google lại có thể tham gia trò chơi nối đường dây liên lạc cho Cuba? Đó là nhờ cựu chủ tịch Eric Schmidt và ba vị giám đốc cấp cao khác của Google – những người có ảnh hưởng rất lớn với chính quyền Obama như chúng ta đã biết – đã bay đến đất nước này giữa lệnh cấm vận năm 2014. Sáu tháng sau đó, chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Cuba thay đổi. Giờ đây, Google đã có thể truyền tải video YouTube đến đảo quốc này dưới chính quyền của Trump.
Đó không phải là một thỏa thuận lớn về mặt thương mại đối với Google, và một số người còn cho rằng để Google thực hiện thỏa thuận này sẽ tốt hơn là các nhà tài phiệt Latin. Nhưng sự kiện đó dễ khiến nhiều người kết luận rằng Mỹ đang dần trở thành một nơi mà tiền bạc và các mối quan hệ được coi trọng hơn bất kỳ điều gì khác. Không có gì ngạc nhiên khi thế hệ Millennials cho rằng thị trường được xây dựng dựa trên những lợi ích về mặt chính trị, hoàn toàn khác với cách nhìn nhận của thế hệ trước. Dù chưa thể hiểu hết những gì từng diễn ra trong lịch sử, nhưng họ vẫn có thể nhìn thấy thói đạo đức giả của chủ nghĩa tư bản xung quanh mình.
Hãy nhớ lại lần cuối một ngành công nghiệp lớn chi phối hệ thống quản lý của chính phủ theo những cách làm suy yếu cả an ninh kinh tế lẫn lòng tin của công chúng: những năm trước và sau cuộc khủng hoảng tài chính 2008. Có quá nhiều lợi ích hàm ẩn là một trong những lý do khiến cuộc cải cách tài chính cùng những quy tắc của đạo luật Dodd-Frank mất nhiều năm để soạn thảo và bị cho là không thật sự giải quyết được các vấn đề cốt lõi để làm cho thị trường của chúng ta an toàn hơn. Giới ngân hàng đã tham gia đến 90% các cuộc họp tham vấn về những quy định gây tranh cãi nhất; ngoài ra còn có các nhà vận động hành lang, bảy cơ quan quản lý tài chính và nhiều phe phái chính trị khác. Kết quả: đạo luật Dodd-Frank có nhiều lỗ hổng hơn cả một miếng “pho mát Thụy Sĩ”. Đây là lý do vì sao chính quyền Trump có thể dễ dàng rút lại một số điều trong đạo luật Dodd-Frank (ở cả hai phe đều có rất nhiều người không thích đạo luật này ngay từ đầu, vì sự can thiệp của những người vận động hành lang trong ngành đã khiến nó trở nên quá phức tạp, hay thậm chí là không hề hiệu quả trong một số trường hợp).
Ngày nay chúng ta đang nhìn thấy ở Thung lũng Silicon một mô hình tương tự. Và chúng ta chỉ có thể hy vọng mô hình này sẽ không “đổ thêm dầu” vào ngọn lửa của chủ nghĩa dân túy đã bùng cháy từ cuộc bầu cử năm 2016.