Năm 2018, tôi đã có một trải nghiệm lạ lùng vào ngày tôi viết về cuộc xung đột đang gia tăng về thương mại và công nghệ giữa Mỹ với Trung Quốc. Tôi nói chuyện với nhiều chính trị gia và cố vấn ở Washington để hiểu rõ hơn về việc các phe phái chính trị khác nhau nghĩ thế nào về cách giải quyết vấn đề. Tôi nói chuyện với một cựu nhân viên của Bernie Sanders khi đó đang làm cố vấn cho nữ nghị sĩ Alexandria Ocasio-Cortez – một chính khách có tư tưởng tiến bộ. Tôi cũng nói chuyện với một quan chức cấp cao của Bộ Quốc phòng. Quan điểm của hai người này giống nhau đến kỳ lạ, dù họ đại diện cho những phe phái chính trị khác nhau: họ cho rằng Trung Quốc thật sự là một mối đe dọa và Mỹ cần lập hàng rào bảo vệ cho một số chuỗi cung ứng của mình, chuẩn bị sẵn sàng cho tình huống có thể là một cuộc chiến thương mại và công nghệ lâu dài. Cả hai người đều giới thiệu cho tôi quyển Freedom’s Forge (tạm dịch: Rèn tự do), tựa sách nói về cách mà ngành công nghiệp xe hơi đã giúp ích cho nước Mỹ trong Thế chiến thứ hai. Ngành công nghiệp này – không chỉ bao gồm các nhà sản xuất xe hơi lớn mà còn cả nhà cung cấp của họ – đã được chính phủ vận động tăng cường sản xuất và hỗ trợ cho chiến tranh, tạo ra tác động cộng hưởng giữa các chuỗi cung ứng mà sau này được tận dụng để phát huy hiệu quả to lớn trong thời kỳ hậu chiến, khi ngành công nghiệp Mỹ chiếm ưu thế vượt trội so với châu Âu và châu Á, ít nhất là trong vài thập niên.
Freedom’s Forge vốn nằm trong danh sách những tác phẩm đáng đọc của một sự kiện được tổ chức vào tháng Sáu năm 2018 bởi Đại học Quốc phòng, nơi quy tụ nhiều nhà lãnh đạo quân sự và dân sự để thảo luận về những thách thức lớn hiện nay. Hàng chục chuyên gia, quan chức chính phủ và lãnh đạo doanh nghiệp đã tụ họp để nói về sự suy giảm trật tự sau chiến tranh, sự trỗi dậy của Trung Quốc, và làm thế nào để Mỹ có thể tăng cường các ngành công nghiệp sản xuất và sức mạnh quốc phòng. Mục tiêu là tạo ra các chuỗi cung ứng bền vững, có khả năng chống chịu không chỉ một cuộc chiến thương mại mà cả một cuộc chiến tranh thực sự.
Trong cuộc thảo luận bao quát và đa dạng đó, các diễn giả đã chia sẻ một cảm nhận chung rằng cách tiếp cận truyền thống đối với kinh doanh toàn cầu hóa – đặc biệt là ý tưởng rằng các công ty đa quốc gia của Mỹ có thể kinh doanh ở bất cứ đâu, theo bất cứ cách nào – đã không còn nữa, và sẽ có những sự phân nhánh nghiêm trọng đối với ngành công nghiệp Mỹ. Thiếu tướng John Jansen, người tổ chức sự kiện, nhận xét: “Nếu đã chấp nhận rằng chúng ta đang bắt đầu bước vào một cuộc tranh giành quyền lực lớn [với Trung Quốc và Nga], chúng ta phải nghĩ đến việc bảo vệ nền tảng đổi mới, tạo ra một nền tảng công nghiệp có thể tồn tại và mở rộng quy mô của tất cả nền tảng đó”.
Phần lớn cuộc thảo luận tập trung vào việc chuỗi cung ứng công nghệ cao của Mỹ đã được chuyển sang gia công tại Trung Quốc suốt nhiều năm qua. Vào những thập niên 80 và 90 của thế kỷ trước, chính phủ Mỹ đã quyết định ưu tiên lĩnh vực dịch vụ vốn được coi là cao hơn các ngành sản xuất trong chuỗi kinh tế, đồng thời cho phép các công ty chuyển phần lớn hệ sinh thái công nghiệp ra nước ngoài gia công. Thêm vào đó, những thay đổi trong hệ thống tài chính, sự suy yếu của các công đoàn và một loạt những điều luật được điều chỉnh để ưu tiên vốn hơn người lao động đã dẫn đến tâm lý chú trọng lợi nhuận ngắn hạn, khiến người ta quan tâm đến giá cổ phiếu hằng quý (luôn tăng do chi phí cắt giảm) nhiều hơn là rủi ro dài hạn. Người tiêu dùng và công ty luôn được ưu tiên, thay vì công dân hay người lao động.
Vấn đề này – như tôi đã đề cập khá nhiều trong quyển Makers and Takers – đã tạo ra một nền kinh tế phân nhánh ở Mỹ, nơi có rất nhiều triệu phú phần mềm và nhân viên cửa hàng thức ăn nhanh nhưng lại không có đủ việc làm cho tầng lớp trung lưu. Xét từ góc độ doanh nghiệp, vấn đề này còn khiến nhiều công ty Mỹ không thể tìm thấy sản phẩm họ cần ở bất kỳ quốc gia nào ngoài Trung Quốc, như thành phần hóa học chính của những vũ khí quan trọng chẳng hạn.
Đó không còn là một vấn đề kinh tế mà đã dần trở thành rủi ro an ninh. Theo báo cáo năm 2018 của Lầu Năm Góc gửi Nhà Trắng, bốn thập niên gia công sản xuất kết hợp với các chính sách công nghiệp của Trung Quốc, sự xuống cấp của STEM41 cũng như những kỹ năng thương mại ở Mỹ đã khiến chuỗi cung ứng của quốc gia này – cùng với các công ty, người tiêu dùng và công dân – rơi vào thế bị động. Theo nghiên cứu của Bộ Quốc phòng, có rất nhiều yếu tố đã góp phần gây ra tình trạng đó: khả năng đảm bảo hàng tiêu dùng, sự suy giảm về khả năng đổi mới của Mỹ trong các lĩnh vực quan trọng như trí tuệ nhân tạo, sự phát triển của công nghệ 5G, và Trung Quốc với vai trò là nguồn cung duy nhất đối với nhiều loại nguyên vật liệu đầu vào trong sản xuất (gổm cả nhiều nguyên liệu có liên quan trực tiếp đến lĩnh vực quân sự và công nghiệp quốc phòng). Điều thú vị nhất là những ngành được đề cập trong báo cáo không chỉ bao gồm các phức hợp công nghiệp-quân sự mà còn có cả các chuỗi cung ứng sản xuất bao quát hơn như điện tử, công cụ máy móc, phần mềm…
41 STEM là từ viết tắt được dùng để gọi chung các lĩnh vực gồm Khoa học (Science), Công nghệ (Technology), Kỹ thuật (Engineering) và Toán học (Mathematics).
Mỹ từng là thế lực thống trị trong lĩnh vực công nghệ cao, nhưng sau vài thập niên toàn cầu hóa và gia công, cục diện đã thay đổi. Trung Quốc hiện là đầu mối cung cấp thiết bị viễn thông của thế giới. Họ đang nắm giữ những vị trị hàng đầu trong mảng ứng dụng di động và hệ thống thanh toán. Họ thậm chí còn sở hữu nhiều bằng sáng chế nhất có liên quan đến việc triển khai dịch vụ di động 5G tốc độ cao, điều kiện cần thiết để kết nối Internet vạn vật và tạo ra cơ hội phát triển mới cho mọi loại hình kinh doanh. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng đạt được những bước tiến đáng kể trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo. Dù các công ty Big Tech như Google vẫn đang dẫn đầu về bí quyết phát triển AI, số tiền được đổ vào các dự án AI của Trung Quốc cũng ngày càng nhiều thêm. Theo một báo cáo của công ty 13D chuyên nghiên cứu và hoạch định chiến lược toàn cầu, khoảng 48% vốn đầu tư AI trên toàn thế giới hiện đang đổ vào Trung Quốc, so với Mỹ chỉ nhận được 38%.
Đó là lý do vì sao trong những năm gần đây, Lầu Năm Góc, Bộ Tài chính và Văn phòng Đại diện Thương mại của Mỹ luôn nhấn mạnh Trung Quốc là một mối đe dọa lớn và hiện đã chính thức coi họ là đối thủ trung và dài hạn lớn nhất của Mỹ. Những vấn đề giữa Trump với Trung Quốc chỉ là phần nổi của một tảng băng lớn – một cuộc chiến thương mại và công nghệ giữa hai quốc gia có hệ thống kinh tế và chính trị về cơ bản là khác nhau. Cựu giám đốc tình báo Mỹ Daniel Coats đã viết trong một báo cáo được công bố vào đầu năm 2019: “Các nhà lãnh đạo Trung Quốc sẽ luôn tìm cách khẳng định mô hình tư bản độc tài của họ trên trường quốc tế như một hướng phát triển thay thế, có thể mang lại những lợi ích vượt trội. Hành động của họ sẽ càng thúc đẩy cuộc chạy đua khủng khiếp về quyền lực, có thể đe dọa sự ủng hộ của quốc tế đối với dân chủ, nhân quyền và pháp quyền”. Tuyên bố này đã nhận được sự đồng tình của không chỉ những người ủng hộ Trump hay đảng viên bảo thủ nói chung mà còn cả người trong phe Dân chủ. Càng ngày hai chính đảng của Mỹ càng cho rằng sự xung đột văn hóa giữa quốc gia này và Trung Quốc là không thể tránh khỏi.
Điều này làm nổi bật một sự thật không mấy dễ chịu và sẽ có những tác động lớn đối với khu vực tư nhân. Hệ thống chủ nghĩa tư bản với cơ chế thị trường tự do của Mỹ hàng chục năm qua đã cho phép các công ty được kinh doanh ở bất kỳ nơi nào họ muốn, thuê gia công ở bất kỳ quốc gia nào có giá rẻ nhất và chuyển lợi nhuận sang bất kỳ nước nào có mức thuế ưu đãi nhất. Chính các công ty Mỹ đã mở đường và dẫn đầu quá trình toàn cầu hóa. Nhưng trong một thế giới mà Mỹ đang phải đối mặt với nhiều thách thức từ phía Trung Quốc – một quốc gia có hệ thống riêng và không chơi theo các nguyên tắc của chủ nghĩa tư bản dân chủ – ngày càng có nhiều người tin rằng hành động cấp thiết nhất để đảm bảo lợi ích kinh tế và an ninh của Mỹ là tách rời mối liên kết về chuỗi cung ứng và đầu tư giữa Mỹ với Trung Quốc.
Quan điểm này thường bị gán ghép là một kiểu công kích nhắm vào Trung Quốc và bị bỏ qua (dù những tình huống công kích như vậy tất nhiên vẫn thường xuyên diễn ra, nhất là trước các cuộc bầu cử tổng thống). Nhưng mọi chuyện cũng không hoàn toàn đơn giản. Rõ ràng là Mỹ, châu Âu và Trung Quốc có những quan điểm khác nhau về các nguyên tắc nên được áp dụng cho nền kinh tế kỹ thuật số mới. Điều đó có nghĩa là thế giới toàn cầu hóa mà chúng ta biết có thể sẽ thay đổi. Trong thế giới kỹ thuật số mới, các khu vực khác nhau có thể chọn áp dụng chế độ quản trị Internet khác nhau dựa trên các giá trị và ưu tiên khác nhau. Ví dụ, Trung Quốc có thể chọn không quan tâm đến quyền riêng tư của người dùng để ưu tiên thu thập dữ liệu và cải tiến AI; còn châu Âu có thể xây dựng các ngân hàng dữ liệu công khai, và các công ty sẽ phải xin phép truy cập. Cho đến nay, Mỹ vẫn còn lỏng lẻo trong việc quản lý Big Tech, nhưng điều đó có thể thay đổi, đặc biệt là khi mọi ứng cử viên quan trọng của Đảng Dân chủ năm 2020 đều coi chống độc quyền là vấn đề trọng yếu.
Tất cả những điều này có ý nghĩa thế nào với bạn và tôi? Trước mắt, chúng ta đã có một splinternet với các thông tin và quyền truy cập dữ liệu tương đối khác nhau giữa các quốc gia. Các công ty và chính phủ có thể làm những việc rất khác nhau với dữ liệu cá nhân của bạn; và bạn – với tư cách là một người tiêu dùng và một công dân – cũng có những quyền truy đòi pháp lý khác nhau tùy theo quốc tịch của mình. Chưa có quốc gia nào tìm ra một hệ thống hoàn hảo (dù cá nhân tôi có khuynh hướng nghiêng về các chính sách đang được cả Liên minh châu Âu lẫn bang California ủng hộ, trước hết là quan điểm rằng mỗi cá nhân có quyền sở hữu dữ liệu của riêng họ và có quyền biết nó đang được sử dụng như thế nào). Việc lựa chọn điểm cân bằng phù hợp giữa đổi mới, cạnh tranh và quyền riêng tư là rất quan trọng đối với việc tạo công ăn việc làm và xây dựng một xã hội ổn định.
Hơn nữa, rất có thể các cuộc chiến địa chính trị trong tương lai sẽ được tiến hành trên không gian mạng. Phó trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Eric Chewning, người phụ trách chính sách công nghiệp tại Lầu Năm Góc, cho biết: “Mỹ đang vạch chiến lược tái định vị để chuẩn bị cho [một] giai đoạn cạnh tranh giữa các nhà nước [nghĩa là giữa phương Tây với Trung Quốc], một cuộc cạnh tranh với mối quan hệ đan xen giữa an ninh kinh tế với an ninh quốc gia”. Điều này có nghĩa là kỷ nguyên mà các công ty Mỹ có thể bỏ ngoài tai những mối lo ngại của người dân đã sắp kết thúc. Bản thân hoạt động kinh doanh toàn cầu sẽ thay đổi, cùng với đó là bản chất của nền kinh tế và chính trị của mỗi quốc gia.
Không có nguyên tắc rõ ràng nào được nêu ra cho kỷ nguyên mới. Các công ty phương Tây có nên được phép kinh doanh như bình thường với Trung Quốc không? Và nếu không, tại sao? Các chính trị gia sẽ có câu trả lời khác nhau cho câu hỏi này, và bản thân các công ty cũng có những cách tiếp cận khác nhau tùy theo lợi ích chiến lược của riêng họ. Ví dụ, Amazon hầu như không có khả năng tiếp cận thị trường Trung Quốc, vì Bắc Kinh chọn ủng hộ gã khổng lồ điện tử “cây nhà lá vườn” của họ: Alibaba. Điều này đã khiến Amazon dồn các nguồn lực của mình cho việc trở thành nền tảng mua sắm và nhà cung cấp chính của chính phủ Hoa Kỳ, theo những cách đã làm cho một số đối thủ cạnh tranh cảm thấy khó chịu, cho rằng Amazon đã được hưởng những lợi thế vượt trội. Trong khi đó, Facebook lại tìm cách tăng cường sự hiện diện ở Trung Quốc (công ty này được cho là đã lưu trữ dữ liệu trong các máy chủ ở Trung Quốc và chia sẻ dữ liệu với các công ty ứng dụng tại đây). Hành động này không chỉ có thể xâm phạm quyền riêng tư của công dân Mỹ mà còn tiềm ẩn rủi ro bị xâm nhập cơ sở dữ liệu, như trường hợp của Google với Chiến dịch Aurora. Ngay cả công ty luôn cố gắng khẳng định mình là người bảo vệ quyền riêng tư như Apple cũng phải chịu khuất phục tại Trung Quốc. Mặc dù ở Mỹ, công ty này từng kiên quyết bảo vệ dữ liệu người dùng và từ chối giúp FBI truy cập một chiếc iPhone bị khóa trong quá trình điều tra vụ tấn công khủng bố San Bernardino năm 2015, nhưng họ vẫn phải chơi theo nguyên tắc địa phương ở Trung Quốc. Chẳng hạn, Bắc Kinh đã buộc công ty này phải chuyển tất cả trung tâm dữ liệu iCloud của khách hàng Trung Quốc về đại lục, nơi chúng sẽ được điều hành bởi một công ty địa phương và không cần phải tuân thủ luật pháp Hoa Kỳ về bảo vệ dữ liệu. Apple quả là “người bảo vệ quyền riêng tư”, nhất là quyền riêng tư của người dùng Apple ở Trung Quốc.
Về phần Google, họ dường như không chia sẻ dữ liệu người dùng ở Trung Quốc như cách Facebook đã làm. (Các đại diện PR của Google khẳng định họ không lưu giữ cục bộ bất kỳ dữ liệu nào tại Trung Quốc mà chỉ giữ trong các máy chủ đám mây, thứ được cho là nằm ngoài tầm mắt của chính phủ.) Song, công ty này lại vận hành một cơ sở nghiên cứu ở Bắc Kinh để phát triển một bộ máy tìm kiếm có chức năng kiểm duyệt cho thị trường Trung Quốc, trong khi vẫn hợp tác với Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ trong nhiều dự án khác. Thật khó để tưởng tượng một nhà thầu quốc phòng nào khác (như công ty Raytheon chẳng hạn) lại có thể vừa làm việc cho Mỹ vừa thỏa thuận với Trung Quốc như Google đã làm. Chưa hết, các công ty Big Tech đang thực hiện những nghiên cứu tân tiến nhất trong những lĩnh vực công nghệ như AI lại được Bộ Quốc phòng đánh giá là quan trọng hơn so với những tập đoàn phức hợp công nghiệp-quân sự cũ như Raytheon. Không những vậy, Big Tech còn được chơi ở cả hai sân.
Tất cả những điều kể trên đều đang là mối quan tâm hàng đầu của Lầu Năm Góc, cơ quan đã và đang thảo luận với nhiều công ty đa quốc gia của Hoa Kỳ về cách họ kinh doanh với Trung Quốc. Chewning, phó trợ lý bộ trưởng tôi đã đề cập ở trên, cho biết: “Thông qua những cuộc trò chuyện đó, các công ty nhận ra bối cảnh chiến lược đang thay đổi. Khi Trung Quốc tiếp tục theo đuổi các mục tiêu họ đặt ra trong kế hoạch chiến lược Made in China 2025 và chủ động điều chỉnh sân chơi kinh tế để ưu tiên các công ty quốc gia của họ, nhiều doanh nghiệp phương Tây sẽ cần cân nhắc lại lòng tin mà họ đã đặt vào chuyện làm ăn dài hạn với Trung Quốc”. Hiện tại, nhiều công ty đang xem xét lại các chuỗi cung ứng có hải trình đi qua Biển Đông, chuyển hoạt động sản xuất từ Trung Quốc sang những nơi như Việt Nam hay Mexico, đồng thời xem xét xem các rủi ro chính trị và xung đột giữa hai cường quốc có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của họ như thế nào.
Có thể chúng ta đang ở bước ngoặt địa chính trị lớn nhất kể từ sau Thế chiến thứ hai. Big Tech sẽ là trung tâm của cuộc chiến, và Internet sẽ là chiến trường. Điều này hoàn toàn khác xa so với thế giới hạnh phúc, gắn kết mà những kẻ theo chủ nghĩa lý tưởng của Big Tech từng mơ ước.
CHỦ NGHĨA DÂN TỘC CÔNG NGHỆ
Tại sao điều này lại xảy ra? Một phần là do các nhà hoạch định chính sách của Mỹ và châu Âu đã dự đoán sai về Trung Quốc. Chúng ta thường cho rằng khi Trung Quốc phát triển hơn, họ cũng sẽ trở nên tự do hơn. Nhưng sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, những sự rạn nứt và thói đạo đức giả vốn có trong hệ thống của Mỹ đã lộ ra, và cũng dễ hiểu khi người Trung Quốc cảm thấy lo lắng rằng việc mở cửa (cả về tài chính, kinh tế lẫn chính trị) có thể khiến họ gặp nhiều rủi ro và dễ bị các thế lực bên ngoài tấn công (chẳng hạn như những lãnh đạo ngân hàng gian xảo ở Phố Wall, những kẻ có thể làm sụp đổ các hệ thống tài chính toàn cầu).
Kết quả là quá trình mở cửa kinh tế và tư hữu hóa trong những thập niên trước bắt đầu đi xuống. Người Trung Quốc bắt đầu tự khẳng định mình cũng như mô hình nhà nước kiểm soát của riêng họ trên trường quốc tế. Như Đặng Tiểu Bình từng nói, người Trung Quốc không còn im lặng chờ cơ hội hay che giấu sự xuất chúng của mình nữa. Dưới thời Tập Cận Bình, một nhóm kỹ trị mới bắt đầu củng cố quyền lực và xuất khẩu các giá trị chính trị, tư bản và công nghệ của Trung Quốc sang các nước khác.
Dù vẫn vấp phải những ý kiến trái chiều, nhưng quốc gia này đã nhận được nhiều lời khen ngợi khi có những động thái như đầu tư vào châu Phi và chiến lược “Một vành đai, một con đường”, nhằm kết nối Trung Quốc với châu Âu thông qua Con đường Tơ lụa vốn có từ thời xa xưa và xây dựng các liên minh kinh tế và chính trị mới. Đó là một ý tưởng ngây ngô khi cho rằng bằng cách nào đó, Trung Quốc sẽ có thể tạo ra các liên minh mới, công bằng và hiệu quả, ở những nơi khó khăn mà người khác từng thất bại. Công bằng mà nói, nhiều người vẫn đang chờ xem liệu các nỗ lực ngoại giao kinh tế của Trung Quốc, vốn cũng đang diễn ra ở nhiều nước châu Âu, có phải là điều tốt cho cả Trung Quốc và thế giới nói chung hay không. Một mặt, thật công bằng và hợp lý khi Trung Quốc nên đóng một vai trò lớn hơn trên trường quốc tế với tư cách là nền kinh tế số hai thế giới. Mặt khác, thật là một câu hỏi hóc búa đối với các công ty và quốc gia phương Tây khi phải tìm cách hợp tác kinh doanh với một chế độ chuyên chế, nơi các cá nhân hoàn toàn không có quyền riêng tư.
Nhưng ở một khía cạnh nào đó, đối với Trung Quốc, những vấn đề này thật sự không quan trọng. Đó là vì Trung Quốc hiện tại rất giống với Hoa Kỳ thời hậu Thế chiến thứ hai – một thị trường tăng trưởng đơn quốc gia, rộng lớn, có tiềm năng và sẽ thu hút nhiều quốc gia khác vào quỹ đạo của nó. Người Trung Quốc đã dành rất nhiều năm qua để nâng cao vị thế của mình, và giờ họ muốn sử dụng hệ thống tư bản nhà nước của chính họ để ưu tiên hỗ trợ những tay chơi “cây nhà lá vườn”, trong đó nhiều doanh nghiệp vốn đã có khả năng cạnh tranh không kém gì các công ty Mỹ. Bản thân tôi cảm thấy rất ngạc nhiên khi các công ty Mỹ lại tin rằng họ có thể cạnh tranh với doanh nghiệpTrung Quốc trong thị trường đại lục trên một cơ sở hoàn toàn bình đẳng.
Tôi thường nghĩ về chuyến công tác Trung Quốc của mình vào khoảng thời gian xảy ra vụ rò rỉ liên quan đến Edward Snowden42. Trong chuyến đi đó, tôi đã gặp một vị tướng của Quân đội Giải phóng Nhân dân (thật thú vị khi đó là một phụ nữ) và hỏi bà về việc chính phủ Trung Quốc dung túng cho hành vi đánh cắp tài sản trí tuệ và về quan điểm cho rằng các công nghệ lấy từ phương Tây có thể được sử dụng cho cả lợi ích kinh tế lẫn an ninh của quốc gia này. Bà giải thích rằng “chủ nghĩa tư bản mang màu sắc Trung Quốc” có nghĩa là không có ranh giới giữa lợi ích doanh nghiệp và lợi ích quốc gia. Có vẻ như bà thật sự cho rằng bất cứ ai suy nghĩ theo chiều hướng khác đều là những người thật ngây thơ. Đất nước là quan trọng nhất, không phải công ty.
42 Edward Snowden là người đã sao chép và làm rò rỉ những thông tin tối mật của Cơ quan An ninh Quốc gia (NSA) vào năm 2013, khi ông đang là nhân viên và nhà thầu phụ của Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ (CIA).
Năm 2018, nhà đầu tư mạo hiểm và chuyên gia trí tuệ nhân tạo người Trung Quốc Kai-Fu Lee (người đã đưa Google đến Trung Quốc lần đầu tiên vào năm 2006) nói với tôi rằng ông tin là Hoa Kỳ và Trung Quốc sẽ tiếp tục đi theo những hướng khác biệt nhau, mỗi bên tự phát triển hệ sinh thái công nghệ của riêng họ. Cụ thể, đó sẽ là một cuộc đua lớn giữa Google và Trung Quốc để xem ai có thể phát triển các hệ thống AI tinh vi nhất (vì AI được cho là công nghệ có tính chiến lược nhất trong tương lai). Lee tin rằng cuộc chiến thương mại và công nghệ ngày càng khốc liệt có thể cắt đứt các dòng vốn và hoạt động trao đổi công nghệ giữa hai nước. Nhưng ông cũng nói là bản thân không cảm thấy những chuyện này có vấn đề gì. Ông tin Trung Quốc có nhiều khả năng hơn trong việc phát triển một hệ sinh thái công nghệ thịnh vượng của riêng mình. Lấy ví dụ về những thương hiệu hàng đầu của Trung Quốc như Xiaomi, thương hiệu hiện đang bán nhiều điện thoại di động ở Trung Quốc hơn cả Apple, ông nói: “Câu hỏi trong tương lai là ‘Tại sao phải mua một thương hiệu phương Tây?’. Tôi nghĩ sau này bạn sẽ thấy Trung Quốc sở hữu hệ sinh thái kỹ thuật số không chỉ ở trong nước mà còn ở các quốc gia Đông Nam Á và nhiều nước ở Trung Đông”.
Rất dễ để đưa ra lập luận đó vì so với Mỹ, Trung Quốc có nhiều người dùng Internet hơn – khoảng 800 triệu người. Đất nước này hiện đã trở thành một xã hội phần lớn không dùng tiền mặt, trong đó đa số người dân đều sử dụng các ứng dụng được phát triển trong nước cho mọi thứ, từ ngân hàng, giao thức ăn, đến thuê xe đạp. So với các công ty Big Tech của Mỹ, những gã khổng lồ của Trung Quốc như Alibaba, Tencent và Baidu thậm chí còn lớn hơn về mặt tương đối. Người Trung Quốc – những người đã trưởng thành trong một hệ thống không có những ý niệm về sự tự do cá nhân theo kiểu phương Tây – dường như đều cảm thấy hài lòng khi từ bỏ quyền riêng tư cá nhân để đổi lấy nhiều tiện ích của big data. Ví dụ, họ sẽ đồng ý cấy các cảm biến y tế vào cơ thể để được theo dõi sức khỏe và đánh giá theo “phiếu điểm xã hội”, theo đó các công dân sẽ được tăng hoặc giảm điểm cho hầu như mọi hành động của mình. Hệ thống theo dõi kiểu khoa học viễn tưởng này sẽ có thể mang đến các khoản vay dễ dàng và nhà ở tiện nghi hơn cho những người có “điểm cao nhất”, nhưng nó cũng có thể gây tình trạng phân biệt đối xử và khiến người điểm thấp không thể kiếm được việc làm. Nếu bạn nghĩ điều này nghe có vẻ giống với một tập trong bộ phim truyền hình giả tưởng Black Mirror (tạm dịch: Gương đen), thì bạn đã đúng. Chỉ có điều, đây là một hệ thống có thật ở Trung Quốc.
Hệ thống kiểm soát của Trung Quốc rõ ràng là cũng có những nhược điểm rất lớn. Công dân có thể bị khóa tài khoản mạng xã hội vì những vi phạm nhỏ nhất. Họ có thể bị xử phạt nếu “phiếu điểm” của họ xuất hiện “điểm liệt”. Mọi hành động của họ có thể được theo dõi thông qua hệ thống quét nhận dạng gương mặt trong trường học, bệnh viện và ngay cả trong nhà.
Không chỉ có vậy, Trung Quốc còn bán một số công nghệ quản lý cho các quốc gia khác, như một phần của nỗ lực định hình lại các yếu tố địa chính trị và mở rộng tầm ảnh hưởng.
GIÁM SÁT “TỪ TRÊN XUỐNG”: LỢI HAY HẠI?
Có lẽ sẽ có rất ít người Mỹ hoặc Tây Âu cho rằng kiểu quản lý Internet của Trung Quốc là đáng thực hiện. Nhưng nếu chúng ta gạt qua một bên những tác động về nhân quyền của nhà nước giám sát từ trên xuống của Trung Quốc, vẫn còn một vấn đề quan trọng cần được giải đáp: Liệu sự đổi mới kỹ thuật số có hoạt động hiệu quả nhất trong một môi trường phân quyền hay không, nếu đó là nơi các công ty tư nhân hoạt động theo những quy định hợp lý và trong một thị trường tự do, thật sự khuyến khích cạnh tranh? Hay mô hình tốt nhất cho tương lai sẽ là mô hình tập trung hóa, trong đó nhà nước giám sát từ trên xuống có thể thu thập mọi dữ liệu họ muốn và cho phép các công ty họ lựa chọn làm bất cứ điều gì?
Trung Quốc rõ ràng là đang đặt cược vào điều thứ hai. Trong nhiệm kỳ của mình, Tập Cận Bình đã thắt chặt quyền kiểm soát nhà nước đối với thị trường và khiến một loạt công ty – từ Qualcomm, Apple đến Visa và Mastercard – gặp khó khăn hơn trong việc kinh doanh ở Trung Quốc. Bắc Kinh cũng tăng cường kiểm soát đối với lĩnh vực công nghệ đang tăng trưởng mạnh, yêu cầu cả các công ty quốc tế lẫn nội địa phải kiểm duyệt thông tin và hỗ trợ cho hoạt động bảo an của nhà nước. Trong thời đại của trí tuệ nhân tạo và big data, những gì có thể xảy ra là Trung Quốc sẽ có lợi thế hơn Hoa Kỳ vì nhà nước giám sát của họ không bị cản trở bởi một cuộc tranh luận tự do dân sự. Khi sở hữu quyền truy cập không giới hạn đối với tất cả thông tin được tạo ra bởi lượng dân số lớn nhất thế giới, lĩnh vực công nghệ của Trung Quốc sẽ nhanh chóng phát triển.
Nhiều người cho rằng 5G – công nghệ mạng di động thế hệ thứ năm hiện vẫn chưa được thương mại hóa trên quy mô lớn – sẽ bị thống trị bởi Trung Quốc. Cuộc chiến thương mại đang diễn ra giữa Mỹ và Trung Quốc khiến chúng ta rất khó biết được cục diện sẽ tiến triển thế nào. Nhà sản xuất chip 5G của Trung Quốc, Huawei, có thể sẽ gặp không ít bất lợi khi chính quyền Trump nỗ lực đưa ra các điều luật hạn chế đối với hoạt động kinh doanh của Huawei trên đất Mỹ hoặc với các công ty Mỹ. Tuy nhiên, những người ủng hộ cho rằng Trung Quốc đã đi trước một bước và đang nhanh chóng xây dựng những cơ sở hạ tầng cần thiết, trong khi Hoa Kỳ và nhất là châu Âu đang dần tụt hậu. Trong khi các thiết bị vốn tương đối rẻ của Huawei đang được nhiều quốc gia sử dụng, nhà sản xuất chip hàng đầu của Mỹ Qualcomm đến giữa năm 2019 lại sa lầy vào một cuộc chiến pháp lý đa lục địa và kéo dài nhiều năm với Apple; điều này khiến Qualcomm hao tổn nguồn lực và không còn chú trọng việc triển khai 5G.
Tranh chấp giữa Qualcomm và Apple đã làm nổi bật một trong những thực tế trớ trêu của cuộc chiến thương mại và công nghệ hiện nay giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Hoa Kỳ muốn đánh bại Huawei (công ty do một cựu tướng của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc thành lập), bằng cách kêu gọi các đồng minh ở châu Âu cũng như nhiều quốc gia khác không sử dụng thiết bị của Huawei, đồng thời ngăn không cho các công ty Mỹ hợp tác với công ty này. Động thái này nhìn chung cũng không có gì khó hiểu, khi nhiều báo cáo đã chỉ ra mức độ đánh cắp tài sản trí tuệ và gián điệp mạng của Trung Quốc. Nhưng Huawei không khiến Qualcomm phải chịu tổn hại nhiều như sức mạnh độc quyền của Apple: khi đủ lớn mạnh, Apple đơn giản là không muốn tiếp tục trả phí sử dụng bản quyền sáng chế cho Qualcomm và đã khiến công ty này phải hầu tòa ở ba lục địa trong nhiều năm. Đúng là một phần cuộc chiến thương mại-công nghệ giữa hai quốc gia vốn bắt nguồn từ việc Trung Quốc luôn chơi theo luật của riêng họ, nhưng một phần khác là vì Mỹ đã để cho các công ty Big Tech hàng đầu như Apple trở nên quá lớn mạnh và quyền lực, đến mức họ có thể đặt ra luật chơi riêng cho thị trường theo những cách có thể khiến đất nước của mình gặp nhiều khó khăn về mặt kinh tế và chính trị.
Nhưng ngay cả khi Hoa Kỳ có những bước tiến lớn với công nghệ 5G, nhiều người vẫn tin rằng sẽ dễ dàng hơn để một nhà nước giám sát như Trung Quốc sở hữu và khai thác những dữ liệu có thể được chuyển qua các chip 5G nằm trong mọi loại sản phẩm, từ lốp xe, giày quần vợt đến máy theo dõi tim thai. Nhờ đó, Bắc Kinh sẽ có thể nhanh chóng khai thác lợi ích năng suất từ những dữ liệu họ thu thập được. Ý tưởng cốt lõi đằng sau lối suy nghĩ này là giai đoạn “đổi mới” của việc sử dụng trí tuệ nhân tạo đã qua, giờ là thời điểm mà ai có thể tận dụng tối đa dữ liệu sẽ chiến thắng.
Theo hướng tư duy này, sẽ không có bước tiến nhảy vọt nào được thực hiện trong việc đổi mới trí tuệ nhân tạo, và điều quan trọng nhất sẽ là về ai có thể tạo ra trạng thái nhà nước giám sát lớn nhất. Hơn nữa, những người ủng hộ Trung Quốc cũng cho rằng Đảng Cộng sản có lợi thế hơn khi có thể hướng nguồn lực của các công ty công nghệ theo mục tiêu chính sách công nghiệp của quốc gia, như thúc đẩy Alibaba xây dựng băng thông rộng ở nông thôn chẳng hạn. Còn nhà nước sẽ hỗ trợ cho các ngành công nghiệp chiến lược như rô-bốt, chất bán dẫn và xe hơi điện.
Tất cả những yếu tố này đều có thể là những lợi thế cạnh tranh. Nhưng chúng ta cũng biết chắc chắn một điều: các công ty thương mại hóa Internet thành công nhất – cả những gã khổng lồ Mỹ như Google, Facebook, Amazon và Microsoft lẫn những công ty hàng đầu Trung Quốc như Baidu, Alibaba và Tencent – đã làm điều đó khi họ còn non trẻ và có nhiều nền văn hóa phi tập trung hơn. Có rất nhiều bằng chứng học thuật cho thấy những đổi mới đột phá thường đến từ các nghiên cứu đơn độc hơn là từ những gã khổng lồ của công ty (hoặc nhà nước). Như chuyên gia nghiên cứu Kai-Fu Lee từng nói nếu bạn tin rằng Trung Quốc sẽ làm chủ công nghệ AI, bạn cũng phải tin rằng kỷ nguyên đổi mới đã kết thúc và con đường duy nhất phía trước là xây dựng hệ thống giám sát dựa trên dữ liệu do các quốc gia và công ty lớn điều hành. Về phần mình, tôi tin rằng đó là một bước nhảy vọt quá lớn, không thể thực hiện được. Một trong những điều ít ỏi mà chúng ta có thể khẳng định chắc chắn về sự đổi mới là sự tiến triển của nó hiếm khi giống với những gì chúng ta dự đoán.
Dù sự kiểm soát tập trung của Trung Quốc có khả năng là một lợi thế trong ngắn hạn, nhưng bạn có thể đặt câu hỏi liệu nó có đi kèm với một cái giá phải trả về dài hạn hay không. Giám đốc Arthur Kroeber của Gavekal Dragonomics, một công ty tư vấn có tầm ảnh hưởng và tập trung nghiên cứu về Trung Quốc, cho biết: “Trong ba đến bốn năm tới, việc tập trung hóa sẽ có lợi; nhưng trong năm đến mười năm nữa, bạn có thể gặp vấn đề với tính dễ vỡ của sự kiểm soát tập trung”.
Như nhà sử học Niall Ferguson đã nói trong quyển The Square and the Tower, các cấu trúc phân cấp cứng nhắc có khuynh hướng bị xói mòn bởi những công nghệ đột phá. Chủ nghĩa tư bản độc tài và Internet có lẽ không hợp nhau. Học giả Nicholas Lardy thuộc Viện Kinh tế Quốc tế Peterson có trụ sở tại Washington tin rằng quyền lực kiểm soát từ trên xuống và sự trì trệ gia tăng trong các công ty nhà nước ở Trung Quốc đã khiến năng suất sụt giảm trầm trọng kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Để đảo ngược tình thế này, họ cần nhà nước giảm mức độ kiểm soát chứ không phải tăng cường. Từ khi chính thức mở cửa vào những năm 1980, bằng cách cho phép khu vực tư nhân đa dạng hóa và phát triển, Trung Quốc đã thu hút hơn 1.700 tỷ đô-la tiền đầu tư nước ngoài và đóng góp rất lớn vào tăng trưởng toàn cầu. Ngày nay, khi chính phủ nước này tăng cường mức độ giám sát, cả dòng vốn nói chung lẫn tốc độ tăng trưởng đều có xu hướng giảm.
“NGƯỜI HÙNG QUỐC GIA” CỦA MỸ?
Tất nhiên, rất có thể Trung Quốc đang ở trong một giai đoạn chuyển tiếp và trong vài năm tới, chúng ta sẽ thấy được chiến lược kỹ thuật số của quốc gia nào là hiệu quả nhất. Nhưng có một điều chắc chắn: Mỹ chỉ có thể khai thác những thế mạnh vốn có của họ nếu các công ty Mỹ có thể cạnh tranh và đổi mới trên một sân chơi công bằng, tận dụng những điểm mạnh của hệ thống thị trường tự do – một hệ thống phi tập trung, luôn khuyến khích sự đổi mới sáng tạo từ mọi loại hình công ty ở mọi quy mô. Chỉ có điều, như chúng ta đã tìm hiểu xuyên suốt quyển sách này, viễn cảnh đó ngày càng ít có khả năng trở thành sự thật. Và như Kai-Fu Lee đã viết trong quyển AI Superpowers (tạm dịch: Siêu quyền lực AI), Big Tech ở cả Hoa Kỳ lẫn Trung Quốc đều đang trở nên tập trung hơn bao giờ hết; họ tạo ra các hệ thống lớn và khép kín, cố gắng kiểm soát “nhân tài và nguồn lực cho những đột phá chủ yếu sẽ chỉ được phổ biến trong nội bộ”. Các nhà giám đốc công nghệ ở Thung lũng Silicon như Mark Zuckerberg của Facebook thường viện dẫn nhận định của Lee để chứng minh tập trung là tốt; và khi bị kiểm soát bởi nhiều quy định hơn, họ sẽ lập luận rằng việc chia tách các công ty công nghệ khổng lồ sẽ ngăn cản họ cạnh tranh với Trung Quốc.
Năm 2018, Zuckerberg từng điều trần trước Quốc hội Mỹ về việc công ty có dính líu đến vụ thao túng bầu cử Nga. Trong cuộc điều trần chẳng khác gì một cuộc gọi hỗ trợ kỹ thuật kéo dài bốn tiếng đồng hồ đó, hãng thông tấn Associated Press đã chụp được một bức ảnh thú vị: bảng tóm tắt của Zuckerberg về những luận điểm ông cần trình bày. Trong bảng tóm tắt đó có một hàng nội dung ghi rõ nếu bị hỏi về các vấn đề cạnh tranh, ông nên phản hồi rằng việc chia tách Facebook sẽ “tăng cường sức mạnh cho các công ty Trung Quốc”. Vậy mà chỉ vài năm sau đó, Facebook đã cho phép Huawei – công ty viễn thông vốn bị chính phủ Hoa Kỳ coi là mối đe dọa an ninh – cùng nhiều công ty công nghệ khác của Trung Quốc truy cập những dữ liệu chi tiết của người dùng Facebook và của bạn bè họ, từ lịch sử công tác, các mối quan hệ cá nhân đến đảng phái tôn giáo. Về sau Facebook đã chấm dứt quan hệ hợp tác với Huawei, nhưng việc họ có còn các đối tác dữ liệu khác ở Trung Quốc hay không thì chưa rõ.
Đến thời điểm này, việc Facebook tự ý chia sẻ dữ liệu người dùng với các công ty bên thứ ba trong khi người dùng không hề hay biết đã không còn là chuyện mới mẻ. Trong nhiều năm qua, mạng xã hội này từng có quan hệ đối tác và chia sẻ dữ liệu với hàng chục nhà sản xuất thiết bị khác nhau, bao gồm cả Samsung và Apple. Không chỉ vậy, những mối quan hệ hợp tác này – trong đó công ty thu lợi từ việc chia sẻ dữ liệu người dùng dù họ đã hứa với người dùng là sẽ bảo vệ các dữ liệu đó – có thể cũng đã vi phạm thỏa thuận năm 2011 của Facebook với FTC, theo đó công ty này hứa sẽ không chia sẻ dữ liệu cá nhân của người dùng với các đối tác bên ngoài. Đó là một trong những lý do vì sao vào năm 2019, FTC đã phạt Facebook 5 tỷ đô-la – mức phạt lớn nhất trong lịch sử đối với một công ty công nghệ – và khởi động một cuộc điều tra chống độc quyền mới kể từ đó.
Facebook không chỉ chia sẻ dữ liệu với các công ty lớn của phương Tây và các tổ chức bóng ma như Cambridge Analytica, mà còn chia sẻ dữ liệu người dùng với các công ty Trung Quốc đang hoạt động dưới sự giám sát của nhà nước. Những rủi ro cố hữu về quyền riêng tư và tự do dân sự trong hoạt động chia sẻ dữ liệu là một trong những lý do khiến giới chức trách Hoa Kỳ bắt đầu chèn ép các doanh nghiệp Trung Quốc đang kinh doanh trong những lĩnh vực nhạy cảm tại Hoa Kỳ. Chẳng hạn, vào mùa xuân năm 2019, công ty Kunlun Tech của Trung Quốc bị yêu cầu phải rút vốn khỏi mạng xã hội Grindr của Mỹ với lý do: dữ liệu từ ứng dụng hẹn hò LGBTQ43 này có nguy cơ bị nhà nước Trung Quốc lợi dụng để khống chế những người có thể tiếp cận hệ thống an ninh của Mỹ, làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia của nước này.
43 LGBTQ là từ viết tắt chỉ cộng đồng những người đồng tính luyến ái nữ (Lesbian), đồng tính luyến ái nam (Gay), người song tính (Bi-sexual), người chuyển giới (Trans-gender) và người có xu hướng tình dục chưa xác định (Queer or Questioning).
Đây là dấu hiệu rõ rệt của cái gọi là thái độ đạo đức giả của Big Tech: Facebook, Google và thậm chí Apple sẵn sàng hợp tác với một chính phủ khác vì lợi nhuận, trong khi vẫn muốn trở thành “người hùng quốc gia” và chạy đua với Trung Quốc để kiểm soát những ngành công nghiệp chiến lược, có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới. Thật khó để hiểu tại sao chính phủ Hoa Kỳ vẫn chưa đặt ra các điều luật chặt chẽ hơn nhằm kiểm soát các công ty công nghệ Mỹ đang xâm phạm dữ liệu người dùng khi kinh doanh tại Trung Quốc, nhưng lại buộc các công ty Trung Quốc phải rút khỏi các ứng dụng nhạy cảm được phát triển ở Mỹ.
Trên thực tế, Big Tech và nhà nước giám sát Trung Quốc có một số điểm tương đồng về cách thức hành động. Những người theo chủ nghĩa tự do như Peter Thiel của PayPal lập luận rằng trong thế giới của big data, “tự do và dân chủ [không còn] tương thích với nhau”, và có lẽ các nhà lãnh đạo Trung Quốc cũng đồng tình với ý kiến này. Những gã khổng lồ khác của Big Tech thì cho rằng nếu nước Mỹ thật sự đang chạy đua với Trung Quốc thì họ không nên để sự tự do cản trở cạnh tranh.
Ví dụ, vào năm 2017, cựu chủ tịch Google Eric Schmidt có một bài phát biểu quan trọng tại Hội nghị Thượng đỉnh về Trí tuệ Nhân tạo và An ninh Toàn cầu của Trung tâm An ninh Mỹ Mới, trong đó ông trình bày chi tiết công việc tư vấn của mình xung quanh các vấn đề mạng cho Bộ Quốc phòng và nêu lên nỗi ám ảnh về việc Trung Quốc sẽ vượt qua Hoa Kỳ trong các lĩnh vực công nghệ tiên tiến nhất, bao gồm trí tuệ nhân tạo. Ông nói: “Đến năm 2020, họ sẽ bắt kịp chúng ta. Đến năm 2025, họ sẽ giỏi hơn chúng ta. Và đến năm 2030, họ sẽ thống trị các ngành công nghiệp AI. Dừng lại một giây nào. Đó đều là những gì chính phủ [Trung Quốc] đã nói. Chẳng phải chúng ta là người có trách nhiệm làm chủ trí tuệ nhân tạo ở đây, ngay tại đất nước mình sao? Chẳng phải chúng ta là người đã phát minh ra công nghệ này sao? Chẳng phải chúng ta là người sẽ khai thác những lợi ích của tất cả công nghệ này để tạo nên những điều tốt đẹp hơn và xây dựng Chủ nghĩa Hoa Kỳ Xuất chúng theo quan điểm ngạo mạn của chúng ta sao? Hãy tin tôi đi, người Trung Quốc họ giỏi thật đấy!”.
Thông điệp ở đây là Trung Quốc sắp đánh bại Mỹ, và cách duy nhất để Mỹ giữ vững vị trí đứng đầu là để cho những công ty lớn tiếp tục lớn mạnh, đồng thời cho phép Thung lũng Silicon quyết định cách phát triển trong nền kinh tế kỹ thuật số. Đó là một quan điểm mà những gã khổng lồ công nghệ đã thảo luận trong văn phòng của những thành viên quyền lực của Quốc hội, trong các bài diễn thuyết, tại các bữa tiệc tối và ở tất cả những nơi mà họ có thể vận dụng tầm ảnh hưởng của mình. Đó là một hướng đi mà Google đang tìm kiếm sự ủng hộ thông qua các học giả – những người viết và phát biểu về chủ đề này – cũng như thông qua các tổ chức tư vấn mà họ tài trợ.
Hãy xem xét sự thay đổi của Rob Atkinson, chủ tịch Quỹ Đổi mới và Công nghệ Thông tin (Information Technology and Innovation Foundation - ITIF), người từng ủng hộ các công ty vừa và nhỏ. Giờ đây, ông cùng Michael Lind viết một quyển sách có tựa đề là Big Is Beautiful: Debunking the Myth of Small Business (tạm dịch: Lớn vẫn hơn – Bóc trần giai thoại về các doanh nghiệp vừa và nhỏ). Dù đúng là ITIF từng đưa ra những quan điểm đi ngược lại đường lối của Google về một số vấn đề khác nhau, nhưng quyển sách của Atkinson lại có vẻ hướng đến việc hạ bệ lý thuyết chống độc quyền “Brandeis mới” do Tim Wu và Barry Lynn khởi xướng. Có lẽ bạn còn nhớ, Barry Lynn là người đã bị loại khỏi quỹ New America sau khi công khai ủng hộ vụ kiện chống độc quyền của Liên minh châu Âu chống lại Google.
Đúng là Trung Quốc đang đạt được những bước tiến vượt bậc về sở hữu trí tuệ, đổi mới và năng lực cạnh tranh, nhưng điều đó không có nghĩa là cuộc chiến giành quyền làm chủ công nghệ tương lai đã có người chiến thắng. Trong những năm qua, Trung Quốc đã đưa người đại diện của họ vào các cơ quan về tiêu chuẩn viễn thông quốc tế, và có bước khởi đầu thuận lợi trong việc triển khai mạng 5G. Nhưng điều đó không nhất thiết tương đương với một lợi thế công nghệ lâu dài. Ví dụ, Trung Quốc từng chậm trễ trong việc phát triển 3G, nhưng sự chậm trễ đó không ngăn cản họ bắt kịp với 4G. Vậy nên, không có lý do gì để nghĩ rằng Hoa Kỳ hay châu Âu không thể bắt kịp tốc độ phát triển 5G. Chính phủ Trung Quốc thật sự có lợi thế là có thể chỉ đạo các công ty khai thác thuộc sở hữu của nhà nước xây dựng cơ sở hạ tầng, và các công ty của họ cũng không phải mua băng tần trước khi cung cấp dịch vụ 5G. Tuy nhiên, quốc gia đầu tiên có mạng 5G hoạt động không phải là Trung Quốc mà là Hàn Quốc.
Tuy quan trọng, nhưng việc quốc gia nào xây dựng mạng lưới của họ trước tiên không phải là yếu tố duy nhất quyết định thành công. Những lợi ích thực sự của 5G nằm ở cách thức mà từng công ty và lĩnh vực riêng lẻ khai thác tiềm năng của mạng di động này, và hiện rất khó để chúng ta xác định những tiềm năng đó là gì. Chuyên gia phân tích Dan Wang của tổ chức nghiên cứu Gavekal Dragonomics cho biết: “Cũng như không ai dự đoán được rằng một trong những mục đích sử dụng chính của 4G là gọi taxi theo một cách mới, chúng ta sẽ khó đoán trước những công dụng quan trọng nhất của 5G khi công nghệ này chưa được phổ biến rộng rãi”.
Chúng ta có thể nhìn lại xa hơn và xem xét sự tiến triển của cuộc cách mạng công nghiệp: những thứ lớn như điện và động cơ đốt trong đã xuất hiện trước, nhưng theo sau chúng là hàng loạt các sản phẩm và dịch vụ sáng tạo, từ xe hơi và thiết bị gia dụng đến các tuabin gió. Vì vậy, chúng ta không có lý do gì để nghĩ tình hình lần này sẽ khác, hay chúng ta cũng không nên cho rằng Trung Quốc, Hoa Kỳ và châu Âu không thể cùng chia sẻ miếng bánh. Cuộc chiến 5G vẫn chưa ngã ngũ, và đó không nhất thiết là một trò chơi phải có người thắng-kẻ thua.
Mặc dù vậy, nước Mỹ chỉ có thể cùng chia sẻ sự thịnh vượng nếu chính phủ nhanh chóng thay đổi để tạo ra một môi trường thuận lợi hơn cho các nhà đổi mới thực sự (phối hợp với các quốc gia khác về tiêu chuẩn 5G chẳng hạn), và nếu Big Tech không chiếm độc quyền thế hệ phát minh đổi mới tiếp theo. Đồng thời, nước Mỹ cũng cần từ bỏ luận điểm “thà thuộc về chúng ta còn hơn thuộc về Trung Quốc”, kiểu lập luận yếm thế vẫn thường được đưa ra để biện minh cho việc Big Tech không cần phải được kiểm soát bởi các quy định chặt chẽ hơn.
Thật vô nghĩa khi nghĩ về Facebook và Google – cả hai công ty đều kinh doanh ở Trung Quốc – như một thế lực đối trọng với sức mạnh công nghệ theo chủ nghĩa dân tộc của Trung Quốc. Có thể hai công ty này biết cách kiếm tiền từ những đổi mới được chính phủ Mỹ tài trợ như Internet, nhưng họ vẫn là những công ty muốn tìm kiếm lợi nhuận chứ không phải là những người hùng của quốc gia. Trên thực tế, hai gã khổng lồ này từng thường xuyên lập luận rằng họ không có trách nhiệm đối với việc hỗ trợ quốc gia; và ở một quốc gia có thị trường tự do như Hoa Kỳ, họ có thể tùy ý chuyển tiền mặt ra nước ngoài và đầu tư vào bất cứ đâu họ thích. Thật vậy, các cuộc vận động hành lang công nghệ ở Mỹ thường chỉ trích các nhà hoạch định chính sách châu Âu là quá đề cao chủ nghĩa dân tộc và dành nhiều sự ưu ái cho các doanh nghiệp công nghệ của riêng họ. Trong bối cảnh hiện nay khi công nghệ đang được dùng để phá hoại nền dân chủ tự do cả ở Mỹ lẫn nhiều nơi khác, việc sử dụng kiểu lập luận “thà chúng ta còn hơn là Trung Quốc” để tránh bị kiểm soát bởi các quy định chặt chẽ hơn không chỉ là đạo đức giả, mà còn là một trò lố bịch.
XÂY DỰNG MỘT HỆ THỐNG TỐT HƠN
Trong cuộc đua nhằm chiếm lĩnh các ngành có tiềm năng tăng trưởng cao trong tương lai, sức mạnh độc quyền mới chính là mối đe dọa lớn – hơn cả Trung Quốc – đối với lợi thế quan trọng nhất của Mỹ: một hệ thống thị trường mở, công bằng. Ở Mỹ ngày nay, không chỉ những công ty nhỏ mà cả công ty vừa và thậm chí lớn cũng đang bị bóp nghẹt. Nước Mỹ không thể cạnh tranh với Trung Quốc theo cách tiếp cận từ trên xuống, và cũng không nên chọn cách đó. Nhưng nước Mỹ có thể tái thiết lập các giá trị của một hệ thống phi tập trung bằng cách kiểm soát các công ty đang đe dọa hệ thống đó.
Để làm được như thế, chúng ta cần nhiều hơn là các quy định và ý chí chính trị. Chúng ta cần thay đổi lối tư duy cơ bản về cách thức hoạt động của hệ thống thị trường, cả trong lẫn ngoài nước. Chính phủ đã đúng khi muốn quan tâm đến lợi ích an ninh quốc gia và muốn có sự hỗ trợ trong việc quản lý các lĩnh vực quan trọng về mặt chiến lược. Tôi đồng tình với những người theo chủ trương cứng rắn rằng Hoa Kỳ nên xây dựng lại hạ tầng công nghiệp của mình và bớt phụ thuộc vào các thiết bị của Trung Quốc. Nhưng bạo động và công kích Trung Quốc nhằm tạo hiệu ứng chính trị như Trump đã làm những năm qua không phải là cách để “làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”, mà thay vào đó là phải nuôi dưỡng hệ sinh thái đổi mới.
Chính phủ Hoa Kỳ nổi tiếng là thường tài trợ rất nhiều nghiên cứu nghe có vẻ “cao siêu” nhưng lại mang lại giá trị kinh tế khổng lồ cho khu vực tư nhân (công nghệ màn hình cảm ứng, GPS và Internet đều ra đời từ Lầu Năm Góc). Chúng ta nên tăng cường thay vì cắt giảm tài trợ đối với các nghiên cứu cốt lõi như vậy, thậm chí có thể chia sẻ với khu vực công một phần lợi nhuận lớn hơn nếu nghiên cứu đó được thương mại hóa, như những gì các nước Bắc Âu và Israel đã làm. Giải pháp này sẽ xóa tan những lời chỉ trích thường thấy khi các gã khổng lồ như Apple, Google hay Qualcomm thu được lợi nhuận khủng từ các nghiên cứu được chính phủ tài trợ rồi lại chuyển phần lớn lợi nhuận của mình ra nước ngoài.
Chúng ta cũng nên suy nghĩ cặn kẽ hơn về những thử thách bắt nguồn từ hệ thống quản lý của nhà nước Trung Quốc – không phải để sao chép mà là để đối chiếu và giải quyết những vấn đề trong hệ thống của chúng ta. Chúng ta không thể cứ tìm cách khắc phục những kẽ hở trong khuôn khổ tân tự do. Nhìn chung, đó là một tín hiệu tốt khi nhiều ứng cử viên Đảng Dân chủ trong đợt bầu cử năm 2020 quan tâm đến việc khiến các giải pháp toàn cầu hóa kinh tế và phương thức kinh doanh đa quốc gia trở nên phù hợp với bối cảnh thực tế, đồng thời thúc đẩy các tập đoàn phục vụ nhiều hơn cho công dân và xã hội, thay vì để họ hoạt động theo một cách ích kỷ, ngắn hạn. Nếu muốn chủ nghĩa tư bản có thể phát triển bền vững, chính phủ Mỹ phải khiến người dân tin là hệ thống đang hoạt động vì lợi ích của họ. (Ngày nay, nhóm cử tri lớn nhất chính là thế hệ Millennials, và có rất ít người trong nhóm này tin vào chủ nghĩa tư bản.) Nếu có bất kỳ bài học nào được rút ra từ Trung Quốc, đó chính là chiến thắng trong tương lai đòi hỏi sự nỗ lực lâu dài. Giải pháp dành cho Mỹ lúc này – như một số ứng cử viên Đảng Dân chủ, bao gồm Elizabeth Warren, đã đề xuất – không phải là chuyển sang quy hoạch nhà nước theo kiểu xã hội chủ nghĩa và tạo ra những người ủng hộ đất nước, mà là tìm cách làm phong phú thêm hệ sinh thái đổi mới và định hình lại hệ thống thị trường để tập trung hơn vào các bên liên quan, thay vì chỉ chú trọng sự thịnh vượng của các cổ đông.
Trong khi đó, thay vì cố chấp nhận rằng các công ty Big Tech trên một phương diện nào đó là những người hùng quốc gia, Hoa Kỳ nên nhìn nhận kỹ hơn về hệ sinh thái kỹ thuật số của chính mình. Những công ty hàng đầu nước Mỹ đang dập tắt sự đổi mới. Giáo dục cần được cải cách để đào tạo người lao động làm những công việc không thể bị thay thế bởi máy móc. Các công ty lớn nhất và giàu nhất Hoa Kỳ đang cất giữ phần lớn tiền mặt ở nước ngoài và không thể tài trợ cho chính những sự đổi mới mà ngành công nghiệp luôn đòi hỏi từ khu vực công. Cách tốt nhất để thúc đẩy sự tăng trưởng ở Mỹ không phải là bảo vệ các công ty nước này trước những tay chơi ở nước ngoài, mà là giải quyết những vấn đề trong nước và tạo ra một thị trường công bằng hơn.