Phật dạy rằng pháp ở trên và dưới ba cõi, chỉ do một tâm tạo tác. Trên ba cõi, tức bốn thánh vị xuất thế gian, là Phật, Bồ Tát, Thanh văn, Duyên giác. Dưới ba cõi, tức sáu đường phàm phu, là Trời, người, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và A Tu La. Ba đường ác cũng nằm trong mười pháp giới1. Tất cả thánh phàm, nhân quả thiện ác, chánh báo y báo trang nghiêm, đều do một tâm tạo tác. Tâm này không khác với tâm liễu tri phân biệt thường ngày của chúng ta.
1 Mười pháp giới: là mười cõi thánh phàm, tương ứng với mười mức độ giác ngộ, bao gồm bốn thánh vị xuất thế gian (Phật, Bồ Tát, Thanh văn, Duyên giác), và sáu đường phàm phu (Trời, người, A Tu La, ngạ quỷ, súc sanh và địa ngục).
Thế nên, tất cả đều do tâm này, mà không có gì khác tạo ra. Hiện tiền, trong cuộc sống hằng ngày, niệm niệm tạo nghiệp, nên lưu chuyển trong mười pháp giới.
Nếu một niệm do tham, sân, si mà tạo ra mười việc ác (thân ba: giết hại, ăn cắp, tà dâm; tâm ba: tham lam, sân hận, si mê; miệng bốn: nói láo, nói lưỡi đôi chiều, nói lời ác độc, nói lời thêu dệt) thì đó là tạo nhân khổ trong ba đường ác. Nếu trong một niệm mà chuyển mười việc ác thành mười điều lành, thì gieo nhân diệu lạc ở cõi Trời - người. Nếu nơi một niệm, thiện ác đều mất, trong không thấy có ta, ngoài không thấy có người2, nhất tâm tịch tĩnh, tức gieo nhân Thanh văn3 vượt xuất khổ đau. Nếu quán thấy trước mắt những việc khổ vui, thuận nghịch đều do nhân duyên sanh diệt, hay lưu chuyển sanh diệt, tức là thành nhân của Duyên giác. Nếu một niệm liễu ngộ nhân duyên của nhân pháp vô ngã, và hiểu rõ tánh vốn Không, chẳng có kẻ làm người thọ, mà không ngại hiện hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, cùng những thiện hạnh trong sáu đường, để hóa độ chúng sanh, tức là nhân của Bồ Tát. Nếu một niệm đốn ngộ tự tâm4, gốc vốn quang minh quảng đại, bao trùm muôn vật, cứu độ muôn loài, liễu ngộ không một pháp tình lự5, chúng sanh và Phật đồng bình đẳng, tức là nhân thành Phật.
2 Tức tâm thanh tịnh, không chấp ngã hay phân biệt ta - người.
3 Thanh văn, Duyên giác: là bậc tu hành thuộc một trong ba hạng căn trí, tương ứng với ba mức độ giác ngộ hay khả năng lĩnh hội chánh pháp của chúng sanh. Ba hạng căn trí (Tam căn) là Thượng căn, Trung căn và Hạ căn, trong đó Thanh văn và Duyên giác thuộc trung căn. (Thượng căn: Phật và Bồ Tát; Trung căn: Thanh văn và Duyên giác; Hạ căn: phàm phu và những chúng sanh chỉ có thể thọ lãnh chánh pháp chút ít). Người tu theo hạnh Thanh văn và Duyên giác là hướng đến đạt quả vị A La Hán.
4 Đốn ngộ tự tâm: giác ngộ ngay tức thì thật tánh của tâm.
5 “Liễu ngộ không một pháp tình lự”: ý nói tâm thanh tịnh thì quang minh quảng đại, không còn chút vọng động, dính chấp nào khởi lên.
Tâm này quảng đại bao la, bổn lai thanh tịnh, tròn đầy trong sáng. Nếu thường ngày niệm niệm ngộ tâm này thì tuy cư nơi trần lao, mà làm người xuất thế. Thế nên, Duy Ma Cật xưng đây là pháp môn không hai. Cư sĩ nếu hội được mà hành, thì tất cả oán ân, thị phi, nhân ngã, phiền não, căn tình, đều ứng theo niệm mà hóa thành tạng quang minh6. Nơi mọi cảnh giới trong thường ngày, hãy dùng niệm niệm xem xét. Nếu vừa thấy mình không thể an nhẫn vì bị phiền não làm chướng ngại, phải đề khởi câu kệ “xưa nay vốn không một vật7” của Lục Tổ, như dùng bảo kiếm kim cang chặt đứt mọi phiền não, thì băng giá liền tan, và thân tâm hóa thành hồ nước trong xanh. Dùng lực hành như thế, và năng tinh tấn bất thối, tức đốn ngộ chứng đắc nơi tràng đại giải thoát, sao còn chạy bên ngoài mà cầu Phật pháp!
6 Tạng quang minh: pháp thân, hay bản tâm thanh tịnh.
7 Ý nói tâm xưa nay vốn không chướng ngại, vốn thanh tịnh, không trụ, không dính mắc.