Thế nhân dùng thân tâm cảnh giới huyễn vọng mà sinh hoạt sống còn. Từ sanh đến tử, chưa từng có một niệm giác biết lại tự tâm bản lai diện mục. Vì chưa giác ngộ, nên không biết gốc rễ của bệnh tật. Nơi nước lửa xung đột, bốn đại1 cùng nhau công phá, đó là thân bệnh. Vọng tưởng phan duyên, thương ghét thủ xả, đó là tâm bệnh. Thân bệnh thì thuốc có thể trị, mà tâm bệnh thì không có thuốc để trị.
Đức Phật là đấng y vương2 ở thế gian, có thể điều trị tâm bệnh của chúng sanh. Ngài tuy dạy bao loại phương tiện, mà rốt ráo chỉ dùng chánh giác để phá vọng tưởng vô tánh; đó gọi là lương dược hoàn sanh vi diệu. Học nhân muốn cầu pháp môn an lạc, trước tiên phải nhận rõ thân vốn chẳng có bản ngã. Hãy quán xem trước khi cha mẹ sanh ra, thân máu thịt này từ đâu mà có? Lúc bốn đại phân ly, thân này an lập tại nơi nào? Thời thời quán sát như thế, lâu ngày đột nhiên sẽ có một niệm tỉnh giác, thì không còn khổ vì thân này nữa; đó là thang thuốc vi diệu trị thân bệnh. Tất cả bệnh tật đều từ tâm vọng tưởng sanh ra. Thường ngày, dùng niệm quán sát, xem coi nơi khởi của tất cả niệm thiện ác, tức là phát hiện cội gốc của bệnh khổ. Dùng niệm lực quán sát nơi khởi, xem coi nó từ đâu mà nổi dậy, và rốt ráo diệt về đâu! Lúc vọng tưởng diệt, phải truy cứu nó diệt tới đâu. Truy cứu cho đến nơi khởi và chẳng khởi3, cùng nơi diệt và chẳng diệt, mà nhận thấy rằng khởi diệt không từ đâu đến4, thì tâm thể liền an nhiên, đắc đại tự tại. Chặt đoạn cửa ải trọng yếu như thế, trước sau không ngừng; trung gian nhất niệm tự cô độc, thì niệm này đứng nơi độc lập5. Lâu ngày thuần thục, thì căn bệnh vọng tưởng tự nhiên sẽ bị nhổ trừ. Tất cả tâm dơ bẩn cũng không còn có nơi để nương tựa. Đó là phương thuốc vi diệu trị tâm bệnh. Vương Hiển Ngung thiết chí hướng thượng, nhưng vẫn còn tầm cầu trên ngôn ngữ văn tự, không biết hướng vào chính mình mà cầu.
1 Tứ đại (bốn đại): đất, nước, gió, lửa. Thân con người là do tứ đại hợp thành, nên gọi là “thân tứ đại”. Khi tứ đại trong thân không hòa hợp (xung đột) thì gây ra bệnh.
2 Đấng y vương: pháp vương (bậc thầy của các pháp) hay bậc thầy trị bệnh.
3 Ý nói quán sát bên trong, từ lúc mỗi một niệm khởi lên hay không khởi lên, diệt hay không diệt.
4 Khởi diệt không từ đâu đến: mọi sự khởi hay diệt đều là từ tâm, không từ đâu đến.
5 Niệm này đứng nơi độc lập: là vọng niệm không được nuôi dưỡng để phát triển thêm.
Tự tâm vọng tưởng đó vốn là căn bệnh. Cứ dùng ngôn ngữ của người, cho là pháp thật6, đó gọi là tăng thêm một lớp chướng ngại.
Từ nay, phải biết phá trừ tự tâm vọng tưởng, không để chúng trói buộc xoay chuyển. Phải xem xét nơi khởi của vọng tưởng, quyết không để chúng cứ tiếp tục chạy. Phật bảo rằng tâm cuồng loạn nếu ngừng, tức là Bồ Đề7. Tâm thanh tịnh sáng soi thù thắng, vốn không từ ngoài mà đắc được. Ngay nơi tự tâm hiện tiền, tức là pháp môn đại giải thoát. Lão nhân do ông thỉnh cầu khai thị nên đặt cho pháp danh là Phước Giác, tức là dùng giác này làm phước vô lượng bậc nhất. Xin hãy cố gắng!
6 Dựa vào sự chứng ngộ của người khác và cho đó là sự chứng ngộ của mình, điều này làm ngăn trở nỗ lực tu hành để tự mình giác ngộ.
7 Bồ Đề: tỉnh thức, giác ngộ.