Bàn luận về phần đại sự nhân duyên này, ai ai cũng đều có đầy đủ, và mỗi mỗi đều hiện thành, không thiếu một sợi lông tóc; chỉ vì từ vô thủy đến nay, hạt giống ái căn, vọng tưởng tình lự, tập khí nhiễm ô thâm sâu, nên chướng che tự tánh vi diệu sáng soi, khiến không thể được chân thật thọ dụng1. Cuộc sống dựa trên tâm vọng tưởng, và thế giới hư huyễn, nên cứ mãi trôi dạt trong sanh tử.
1 Chân thật thọ dụng: là chân thật thọ nhận, chấp nhận tất cả các pháp hay mọi sự vật, hiện tượng như chúng vốn là; thọ nhận bằng bản tâm thanh tịnh, không bị vọng tưởng, chống đối hay mong cầu ngăn che.
Phật Tổ ra đời, dùng ngàn lời muôn lẽ, thuyết Thiền thuyết Giáo, bao loại phương tiện, chẳng ngoài việc tùy thuận theo căn cơ, phá chấp cho chúng sanh, mà hoàn toàn không có pháp thật và người thật. Bảo là tu, chỉ vì tùy thuận tự tâm, tịnh trừ bóng ảnh của vọng tưởng tập khí, mà mới dụng lực nơi đó2. Nếu nhất niệm vọng tưởng chợt ngưng, bèn thấy rõ tự tâm, xưa nay vốn tròn đầy sáng soi bao la, bản nhiên thanh tịnh, chẳng chứa một vật, đó gọi là ngộ. Trừ ngoài tâm này, chẳng vật gì là có thể tu có thể ngộ. Tâm thể như tấm kiếng; vọng tưởng phan duyên như bóng hình; làm nhiễm ô chân tâm, nên gọi tướng vọng tưởng là trần, thức tình là cấu. Nếu vọng tưởng tan mất, thì bản thể tự hiện. Ví như lau kiếng, sạch bụi bặm thì ánh sáng tự hiện ra.
2 Ý nói mọi công phu tu hành đều hướng đến việc quán sát bên trong, đoạn dứt mọi vọng động, vọng tưởng sinh khởi để tâm trở về vắng lặng, thanh tịnh.
Chúng ta tích tụ tập nhiễm đã bao kiếp, nên cội gốc ngã ái thâm sâu khó nhổ trừ. Đời nay may mắn gặp được pháp Bát Nhã3. Trong huân tập làm nhân4, ngoài nhờ thiện tri thức dẫn dắt làm duyên. Tự biết bản hữu của tâm tánh5, nên phát tâm chí nguyện hướng đến việc giải thoát khỏi sanh tử, há là việc nhỏ ư!
Nếu không phải là người khỏe mạnh, tự thân đơn độc mang đao nhập thẳng vào6, thì rất là khó khăn, cổ nhân bảo rằng như một người mà chống với muôn người, chẳng phải là lời nói hư vọng. Nói chung, đời Mạt pháp người tu hành rất nhiều, nhưng đắc chân thật thọ dụng lại rất ít. Phí sức lực thì nhiều, mà đắc lực thì ít. Tại sao? Vì không đi thẳng đến nơi hạ thủ công phu, chỉ lo tu trên ngôn từ thấy nghe tri giải, cùng bám chấp thức tình7, đè ép vọng tưởng, và dụng công phu trên bóng hình8. Họ lấy những lời huyền ngôn diệu ngữ của cổ nhân chấp chứa trong ngực mà làm pháp thật9, rồi tự cho đó là tri kiến của mình, chứ chẳng biết trong đó dùng một điểm nhỏ cũng không thể được. Đó gọi là y theo người mà tác giải, làm bế tắc cửa tự ngộ10.
3 Pháp Bát Nhã: hàm ý Phật pháp là giáo pháp của trí huệ Bát Nhã.
4 Trong huân tập làm nhân: bên trong lấy việc nuôi dưỡng lâu ngày những hạt giống tốt làm nhân.
5 Bản hữu của tâm tánh: tự tánh (sẵn có) hay thật tánh của tâm.
6 Mang đao nhập thẳng vào: đánh thẳng vào, đoạn trừ các tập khí phiền não đã được tích tụ bên trong lâu ngày.
7 Thức tình: chỉ ý căn (hay Mạt-na thức) là loại nhận thức còn chấp ngã, tri kiến.
8 Dụng công phu trên bóng hình: ý nói lãng phí công phu tu tập vào việc kiến giải giáo pháp hay tri kiến của người khác thay vì tự mình thực hành giáo pháp để chứng ngộ thực sự.
9 Ý nói xem những câu kinh pháp (huyền ngôn diệu ngữ) của người xưa là đúng, rồi cho rằng mình đã giác ngộ, trong khi sự giác ngộ thật sự chỉ có được từ sự thực hành chánh pháp.
10 Làm bế tắc cửa tự ngộ: làm chướng ngại cho việc tự giác ngộ.
Nay dụng công phu, trước hết phải chẻ dẹp tri giải, chỉ nhắm vào nơi một niệm mà dụng công. Phải tin chắc tự tâm, bản lai thanh tịnh trong sạch, chẳng quảy một tấc dây, tròn tròn sáng sáng, tràn đầy khắp pháp giới, vốn không có thân tâm thế giới, cùng chẳng có vọng tưởng tình lự. Một niệm này, vốn tự vô sanh. Bao loại cảnh giới trước mắt đều là vọng huyễn không thật, chỉ xuất phát từ trong chân tâm mà hiện ra bóng hình. Thấy rõ như thế, ngay nơi vọng tưởng khởi diệt, nhất định tìm xem nó từ đâu khởi và từ đâu diệt. Dùng lực ép chặt như thế, chẳng màng đến bao vọng niệm; kẹp nát chúng khiến tan thành phấn vụn, thì băng tan ngói bể. Thiết yếu chẳng nên chạy theo chúng, cũng không thể khởi tâm tương tục.
Đại sư Vĩnh Gia bảo rằng phải đoạn tâm tương tục11 là như thế. Tâm thô phù hư vọng vốn không có chỗ tựa. Chớ nên cho chúng là thật. Cứ giữ tại ngang ngực, lúc chúng khởi lên liền quát. Vừa quát chúng liền tiêu. Thiết yết không đè ép, hãy để chúng tự nhiên khởi, như nước trên quả hồ lô, chỉ ném phứt thân tâm thế giới qua một bên. Đơn độc đề khởi một niệm nghi tình12; vung bảo kiếm trong hư không, dẫu là Phật là ma, một đao liền chặt hết, như chém dây nhợ. Phải dùng niệm lực mà giữ chúng. Đó gọi là trực tâm chánh niệm chân như. Chánh niệm tức là vô niệm13. Quán được vô niệm thì mới gọi là hướng đến tri kiến của Phật.
11 Đoạn tâm tương tục: dừng ngay những vọng động sinh khởi bên trong.
12 Đơn độc đề khởi một niệm nghi tình: giữ cho tâm không tán loạn bằng cách trụ ở một niệm hay một nghi vấn duy nhất (ví dụ, câu thoại đầu “Ai đang niệm Phật”) ngay từ đầu, để quán chiếu sự vật hiện tượng, hiểu rõ thật tánh của sự vật.
13 Vô niệm: là không vọng niệm, không khởi tâm phân biệt tốt xấu, hay dở, không gắn cho chúng bất kỳ ý nghĩa nào mà để chúng đến đi, sanh diệt tự nhiên, thì sẽ không chấp trước, tức đoạn trừ phiền não từ gốc (nhân).
Vừa mới phát tâm tu hành, cần thiết phải tin chắc pháp môn duy tâm. Phật thuyết ba cõi duy tâm, vạn pháp duy thức. Đa số giáo lý Phật pháp thường giải thích tám chữ này rõ ràng để người người tin nhận. Hai đường thánh, phàm chỉ nằm trong hai con lộ mê ngộ của tự tâm. Tất cả nhân quả thiện ác, trừ ngoài tâm này, chẳng một mảnh gì có thể đắc được. Diệu tánh thiên nhiên của chúng ta14, vốn không nương nơi ngộ, sao còn có mê! Hôm nay thuyết mê, chỉ vì chưa nhận rõ tự tâm vốn không có một vật15; không đạt được lý thân tâm thế giới vốn Không16, nên bị chúng làm chướng ngại. Cứ chuyên cho tâm vọng tưởng sanh diệt là chân thật17, nên nơi cảnh duyên của sáu trần, bao loại huyễn hóa nhận lầm là thật có. Bây giờ phát tâm tu hành, tiến bước đi ngược dòng để hướng thượng, thì hoàn toàn phải tận tình vứt hết những tri giải thuở xưa. Một điểm tri kiến hay pháp thiện xảo dùng cũng không được. Chỉ việc nhìn suốt thân tâm thế giới18, hoàn toàn là do tự tâm hiện ra sắc thô phù hình huyễn, như ảnh tượng trong kiếng, như trăng soi mặt nước. Quán tất cả âm thanh, như gió thổi qua cây. Quán tất cả cảnh giới, tựa như mây nổi trên nền trời; chúng đều là những việc huyễn hóa không thật, và chẳng đơn độc từ ngoài đến. Vọng tưởng tình lự của tự tâm, và tất cả hạt giống ái căn, cùng tập khí phiền não, đều là hư phù huyễn hóa không thật. Quán sát thâm sâu như thế, phàm một niệm khởi, quyết định nhìn thấu nó đến khi hạ lạc (đốn ngộ). Thiết yếu không thể khinh nhờn19 mà bỏ qua, cũng không để chúng che mờ. Phải dụng công phu như thế, cùng thêm thiết tha chân thật20. Trừ pháp này ra, hợp lại những xảo pháp huyền ngôn tri kiến, hoàn toàn không có chút liên hệ21. Dẫu gọi là dụng công phu, cũng chỉ là bất đắc dĩ mà làm. Ví như dụng binh, nếu quân không có vũ khí tốt, thì bất đắc dĩ mới dùng.
14 Diệu tánh thiên nhiên: ý nói tánh của chúng ta vốn sẵn là Phật tánh.
15 Tự tâm vốn không có một vật: tự tâm vốn thanh tịnh.
16 Không đạt được lý thân tâm thế giới vốn Không: không thấy được tánh Không của vạn pháp.
17 Cho tâm vọng tưởng sanh diệt là chân thật: xem mọi nhân duyên vô thường đến đi là thật.
18 Thân tâm thế giới: chỉ mọi sự vật, hiện tượng.
19 Khinh nhờn: xem thường, lơ là.
20 Thiết tha chân thật: ý nói tín tâm, niềm tin sâu sắc.
21 Ý nói đây là phương pháp tu thiết thật; “những xảo pháp huyền ngôn tri kiến”: những ngôn từ lý giải giáo pháp thâm sâu không thật sự là của mình, mà người tu phải tự mình chứng ngộ bằng công phu tu tập.
Cổ nhân thuyết tham thiền đề thoại đầu, đó đều là việc làm bất đắc dĩ. Công án tuy nhiều, nhưng chỉ có niệm Phật đích thật mới là thoại đầu, vì dễ dàng tu đắc lực trong trần lao. Song, bất quá chỉ như đập ngói cửa thành quân địch, và cuối cùng cũng phải ném vứt đi. Chỉ là ít vì không dụng được một lần. Nay dụng công phu, phải có lòng tin vững chắc, tâm quyết định vững chắc, trì giữ vững chắc, quyết không do dự. Không thể ngày nay như vầy, rồi ngày mốt như kia, vì sợ không đắc ngộ, và hiềm ngờ không huyền diệu. Tính toán như thế đều là chướng ngại. Trước hết phải phá sạch chúng, để lúc lâm chung không sanh nghi ngờ. Lúc công phu đến nơi đắc lực, ngoại cảnh không thể nhập, chỉ có phiền não trong nội tâm đột nhiên ngang ngạnh khởi; hoặc dục niệm chợt phát, hoặc tâm sanh u sầu, hoặc khởi bao loại phiền não, cho đến tâm mỏi lực mệt, không thể làm gì được.
Đây là trong thức thứ tám22, hàm chứa bao hạt giống tập khí trong vô lượng kiếp. Nay bị công phu bức bách23, đều hiện xuất ra. Việc quan trọng nhất là phải sớm nhận biết ra chúng. Trước tiên phải nhận thức phá trừ, nhìn thấu suốt; quyết không để chúng giam nhốt; quyết không để chúng khống chế; quyết không cho đó là thật, mà chỉ phấn chấn tinh thần, phát khởi tâm dũng mãnh, đề khởi câu thoại đầu đang tham cứu. Nơi thoại đầu vừa khởi, thì bèn chống cự đuổi chúng đi. Bản ngã chân thật nguyên chẳng có những việc như thế. Hỏi nó đến từ chỗ nào, rốt ráo là gì! Quyết định phải nhìn đến khi hạ lạc.
22 Thức thứ tám là loại nhận thức thuần túy, đã loại bỏ được những chấp ngã (của thức thứ bảy) và tri kiến sai lầm (của thức thứ sáu), tuy nhiên vẫn còn những hạt giống tập khí từ trong vô lượng kiếp, tàng ẩn ở tầng thâm sâu, khó nhận biết cần phải quán chiếu, soi rọi.
23 Công phu bức bách: công phu tu tập tích cực, triệt để.
Như thế mà ép đuổi chúng đi, thì khiến quỷ thần đều khóc lóc, tuyệt tung ẩn tích; phải đuổi tận giết tuyệt không lưu một tấc dây. Dụng lực như thế, tự nhiên sẽ nghe tin tức lành. Trong một niệm nếu phá được chúng, thì tất cả vọng tưởng nhất thời đều rơi, như hoa rụng từ trên hư không, khiến tâm thể sáng soi tĩnh lặng.
Qua được chặng này, thì đắc được vô lượng khinh an tự tại. Song, đây chỉ là nơi đắc lực của người sơ phát tâm, chẳng phải là huyền diệu. Nơi bình lặng khinh an tự tại, chớ sanh tâm vui mừng, vì nếu như thế, sẽ bị con ma vui mừng bám vào tâm, tức tăng thêm chướng ngại. Ngay nơi tạng thức, hạt giống tập khí ái căn thâm sâu ẩn tàng, không thể dụng lực thoại đầu lên nổi, quán chiếu tâm cũng không được, tự mình hạ thủ công phu không xong, thì phải lễ Phật tụng kinh sám hối; lại cần phải mật trì tâm chú, nương nhờ mật ấn của chư Phật mà tiêu trừ chúng. Các bài mật chú, đều là tâm ấn kim cang của chư Phật. Chúng ta dùng mật chú như bảo xử kim cang đập nát tất cả vật. Vật vừa chạm vào bèn bị tan nát như hạt bụi. Từ trên Phật Tổ tâm ấn mật quyết, đều không vượt ngoài lý này. Vì vậy, bảo rằng mười phương Như Lai, nhờ trì tâm chú này, mà đắc thành đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lời của Phật rõ rằng sợ môn hạ của chư Tổ sư bị lạc vào thường tình nên thầm thuyết mật chú, chẳng phải là vô dụng.
Thế nên, ngày thường phải định thời khóa, thì lâu sau thuần thục, đắc lực được nhiều, nhưng không thể hy vọng cầu mong thần thông cảm ứng. Phàm người tu hành, có ngộ rồi mới tu, hay tu rồi mới ngộ, mà ngộ có giải và chứng không đồng. Nếu y theo ngôn giáo của Phật Tổ mà minh tâm giải ngộ, thì đa phần lạc vào tri kiến. Nơi mọi cảnh duyên, đa phần không thể đắc lực. Tâm cảnh đối lập nhau24, không thể dung hòa, nên trở thành ngưng trệ, và đa phần tự làm chướng ngại.
24 Tâm cảnh đối lập nhau: tâm (thức) không chấp nhận cảnh; do chấp vào tri kiến của mình nên không chấp nhận một sự việc hay sự vật, hiện tượng.
Đây gọi là danh tướng tựa như Bát Nhã25, chẳng phải là nơi tham cứu chân thật26. Người chứng ngộ, mọi việc từ trong tự tâm, thật đã xả bỏ hết. Bức ép đến nước cùng non tận27, thì một niệm chợt ngưng, khiến thấy rõ tự tâm, như giữa ngã tư đường, gặp lại cha mình.
25 Danh tướng tựa như Bát Nhã: ý nói nhầm tưởng tri kiến hay sự thấy biết của mình là trí tuệ Bát Nhã, trong khi trí tuệ Bát Nhã là nhìn đúng thật tánh của sự vật, hiện tượng.
26 Nơi tham cứu chân thật: nơi để dụng công phu tu hành, để chứng ngộ thật sự.
27 Bức ép đến nước cùng non tận: dụng công phu tu tập triệt để.
Lại nữa, không thể nghi ngờ; ví như người uống nước, lạnh nóng tự biết; không thể thổ lộ với người; đó mới là tham cứu chân thật và liễu ngộ chân thật. Sau đó, dùng chỗ ngộ mà dung hội tâm cảnh, để tịnh trừ nghiệp chướng đang lưu chuyển trong hiện tại. Ý thức vọng tưởng tình lự đều chảy tan ra thành một vị chân tâm, tức là chứng ngộ.
Chứng ngộ này sâu cạn không đồng. Từ cội rễ mà khởi công phu, phá được hang hố của thức thứ tám, lấp trừ hầm hố của vô minh; vừa siêu thoát liền nhập vào mà không có thừa pháp nào khác. Đây là nơi chứng đắc thâm sâu của bậc thượng thượng căn; còn lại thì là tiệm tu, sở chứng28 rất ít. Việc đáng sợ nhất là thường lấy ít cho là đủ, khiến lạc nơi bóng ảnh. Chưa phá trừ được cội gốc của tám thức, sao mãi buông lung làm bậy!
28 Sở chứng: chỗ để chứng, đắc đạo, ý nói thành tựu trong tu tập.
Đó là việc bên ngoài thần thức29. Nếu cho rằng chúng là thật, tức nhận giặc làm con. Cổ nhân bảo rằng người học đạo, không nhận thức chân thật được, chỉ vì nhận lầm thần thức trước mắt. Cội gốc sanh tử từ vô lượng kiếp đến nay, người ngu nhận lầm chính là mình. Ngay nơi đó, việc tối trọng là phải nhìn thấu suốt. Thế nên, bảo rằng đốn ngộ rồi tiệm tu, nghĩa là trước ngộ đã triệt thấu, nhưng vẫn còn tập khí, chưa thể tẩy rửa liền. Ngay trên tất cả cảnh duyên, dùng lý ngộ này, khởi lực quán chiếu30, duyệt cảnh kiểm nghiệm tâm. Dung hòa đắc được một phần cảnh giới, thì chứng đắc một phần pháp thân, tiêu một phần vọng tưởng, hiển lộ một phần căn bản trí; tất cả hoàn toàn đều do nơi công phu liên tục. Dụng công ngay trên cảnh giới, thì mới đắc lực.
29 Việc bên ngoài thần thức: duyên cảnh bên ngoài.
30 Dùng lý ngộ này, khởi lực quán chiếu: dùng chân lý đã giác ngộ (tức sự giác ngộ về thực tướng của tất cả các pháp) để quán chiếu mọi tập khí còn sót lại trong tâm.
Đối với người lợi căn31, tín tâm dũng mãnh, lúc dụng công phu, sự chướng32 dễ trừ, nhưng lý chướng33 khó thay đổi. Bệnh này lược kê có vài phần.
31 Lợi căn (tức thượng căn): là căn trí lanh lẹ, sáng suốt, có thể thọ lãnh chánh pháp của Phật.
32 Sự chướng: những chướng ngại về hình tướng như tri kiến sai lầm, chấp trước về lễ nghi, cách thức, Phật sự…
33 Lý chướng: những chướng ngại ngăn trở sự lĩnh hội giáo pháp như tri kiến sai lầm, chấp ngã…
Trước nhất, không thể tham cầu huyền diệu34. Việc này vốn thanh tịnh khắng khít, thật hiển nhiên rõ ràng, chỉ là một vị bình thường, chẳng có chi là huyền diệu. Thế nên cổ nhân dạy rằng đã ngộ đồng với chưa ngộ; y nhiên chỉ như người xưa, nhưng chẳng phải là người thời xưa35, lại chẳng có huyền diệu. Công phu nếu đủ, thì tự nhiên trở nên bình thường chân thật, và tập khí tri giải36 sẽ được tẩy trừ. Ngược lại, bên trong huân tập trí Bát Nhã; khởi các huyễn hóa xảo kiến37 bao đời, rồi buộc ràng tâm đó, mà gọi là huyền diệu, và chấp vào không xả. Đó chính là bóng ảnh của thần thức38, và là cội gốc vọng kiến phân biệt, cũng gọi là kiến chấp, khác biệt với vọng tưởng thô phù39 khi trước. Song, sanh diệt vi tế40 vẫn còn trôi chảy, cũng gọi là tri chướng, chính làm ngăn ngại chánh tri kiến. Người nào nhận lầm đó là chân thật, bèn khởi bao loại kiến chấp điên cuồng. Phải nên bỏ đi. Thứ đến, không thể đem tâm chờ ngộ41. Chân tâm vi diệu tròn đầy, xưa nay vốn không có mong chờ. Nhân vì vọng tưởng kết tụ, khiến tâm cảnh căn trần đối đãi42, nên khởi mê hoặc tạo nghiệp. Nay người tu hành, chỉ nên nhất niệm xả bỏ thân tâm thế giới. Đơn độc đề khởi niệm này hướng về phía trước, cần thiết là chẳng màng ngộ hay không ngộ, chỉ lo là niệm niệm bước bước chưa vững được. Công phu nếu đến nơi đến chốn, thì tự nhiên sẽ thấy bản lai diện mục, sao còn tính toán chi! Dùng tâm mong đợi ngộ, tức nó là gốc rễ của sanh tử43. Đợi đến cùng kiếp, cũng không thể ngộ.
34 Không tham cầu huyền diệu: theo Phật giáo, người tu hành muốn đạt Niết Bàn thì phải lìa bỏ tham ái và chấp ngã, ngay cả sự tham cầu chứng đắc. Tham ái hay tham cầu là chướng ngại ngăn trở tâm thanh tịnh đưa đến giác ngộ. Con đường duy nhất đưa đến Niết Bàn, giải thoát là con đường tu tập theo chánh pháp, nên không có sự “huyền diệu” theo nghĩa “phép mầu”.
35 Y nhiên chỉ như người xưa, nhưng chẳng phải là người thời xưa: đi theo con đường chánh pháp của người xưa (tức Đức Phật Thích Ca và các vị chư Tổ, cao tăng), học hỏi những tri giải, pháp môn tu của người xưa, nhưng mỗi người vẫn phải tự mình tu tập để đi đến giác ngộ.
36 Tập khí tri giải: những hạt giống phiền não do việc chấp vào tri giải, tri kiến của mình.
37 Xảo kiến: cái thấy biết (tri kiến) sắc sảo nhưng không thật sự là của mình.
38 Bóng ảnh của thần thức: vọng tưởng, cho là nhận thức của mình.
39 Vọng tưởng thô phù: vọng tưởng dễ nhận diện.
40 Sanh diệt vi tế: chỉ những vọng tưởng khởi lên rồi lắng xuống tàng ẩn sâu trong nội tâm, khó nhận ra.
41 Không thể đem tâm chờ ngộ: tu với tâm mong chờ sự giác ngộ thì tâm không thanh tịnh dẫn đến chướng ngại trên đường tu.
42 Tâm cảnh căn trần đối đãi: tâm vọng theo cảnh bên ngoài, căn dính mắc với trần.
43 Gốc rễ của sanh tử: căn nguyên của sự khởi sinh vọng niệm.
Thế nên, không thể mong đợi chân tâm44 mà bảo rằng sẽ có. Tâm mong đợi nếu không trừ thì dễ dàng sanh mỏi mệt chán chường, và đa phần trở thành thối đọa. Ví như tìm vật mà không thấy, thì khởi tâm muốn nghỉ ngơi. Lại nữa, không thể hy vọng mong cầu diệu quả. Vọng tâm sanh diệt45, nguyên là thể tánh chân thật của Như Lai46.
44 Mong đợi chân tâm: là mong cầu có được chân tâm. Khi tâm có vọng niệm thì không thể thanh tịnh.
45 Vọng tâm sanh diệt: tâm luôn thấy trước mọi sanh diệt, đến đi.
46 Thể tánh chân thật của Như Lai: trong kinh Kim Cang, Như Lai là một thực tại như thế, không từ đâu đến cũng chẳng đi về đâu, đến hay đi đều không vọng động.
Ngày nay, sống trong mê muội, khiến thần thông diệu dụng của chư Phật, biến thành vọng tưởng tình lự, và tri kiến phân biệt. Đem pháp thân chân thật thanh tịnh biến thành chất nghiệp sanh tử. Đem cõi thanh tịnh vi diệu, biến thành cảnh giới sáu trần. Dụng công phu hôm nay, nếu một niệm đốn ngộ tự tâm, thì như cái lu đỏ hồng chảy tan thành muôn hình tượng. Thân tâm thế giới, vốn là thể tánh chân thật của Như Lai. Vọng tưởng tình tự vốn là thần thông diệu dụng. Thay danh chứ không đổi thể47.
Đại sư Vĩnh Gia bảo: “Vô minh thật tánh, tức Phật tánh. Huyễn hóa không thân, tức pháp thân”48. Liễu ngộ được pháp môn này thì việc chấp xả đều mất; tâm vui mừng chán chường đều ngừng; bước chân đến mọi nơi đều là cõi tịnh độ Hoa Tạng; tâm tâm đều là Di Lặc hạ sanh. Vọng tâm vừa cầu diệu quả (tức tâm hy vọng mong cầu), thì đó là cội rễ của sanh tử, làm chướng ngại chánh tri kiến. Càng cầu càng đi xa nên lực mong cầu mỏi mệt, bèn sanh tâm chán chường. Lại nữa, không thể tự sanh nghi ngờ. Phàm dụng công, chỉ việc xả bỏ thân tâm, tuyệt dứt kiến văn tri giải49; phải thoát khỏi bước đó. Kẻ mù vọng hướng đến nơi chẳng phải chỗ an thân lập mạng; thấy không có liễu ngộ được gì nên thối thất dừng nghỉ. Trước sau nếu do dự thì sanh tâm nghi ngờ, rồi khởi vô lượng tính toán, suy lường được mất; hoặc lại sanh ức kiến phỏng đoán, phát động tà tư, làm ngăn ngại chánh tri kiến. Phải nên nhìn thấu việc này, quyết định đi thẳng vào50, không còn xoay đầu lại.
47 Thay danh chứ không đổi thể: dù gọi tên (danh) là gì, thì thực tướng của mọi sự vật, hiện tượng (thể) vẫn là như thế.
48 “Vô minh thật tánh, tức Phật tánh”: thấy được vô minh là thật tánh thì sự thấy đó chính là Phật tánh (hay trí Bát Nhã); “huyễn hóa không thân, tức pháp thân”: chân tướng của thân.
49 Tuyệt dứt kiến văn tri giải: cương quyết không dính chấp vào việc lý giải giáo pháp kinh điển.
50 Quyết định đi thẳng vào: chỉ có một con đường là phải tự mình giác ngộ, bằng công phu tu tập tâm thanh tịnh, tự mình quán thấy được tánh thật của tâm, thấy được chân tánh của tất cả các pháp.
Tựu trung, không màng có dụng được công phu hay không, đó mới là nơi đắc lực. Lại nữa, phải khiến tinh thần tăng thêm sự sảng khoái mà không thối thất. Ngược lại, sẽ bị đọa làm ma u sầu51. Ngoài ra, chớ sanh tâm sợ hãi. Công phu niệm lực nếu cấp thiết bức ép, thì vọng tưởng trong một niệm liền ngưng. Thân tâm đột nhiên trống không, rồi thấy đại địa chẳng có một tấc đất52, thậm chí đến tận vô cực, bèn sanh tâm sợ hãi. Không nhìn thấu cảnh giới này, bèn chẳng dám tiến bước; hoặc ngay nơi đó chợt đạt lý Không, bèn cho là vi diệu thù thắng. Nhận lầm lý Không này, khiến sanh đại tà kiến, rồi bác không nhân quả53. Đây là việc rất nguy hiểm. Lại nữa, quyết định tin tự tâm là Phật. Phật chẳng khác Phật. Lý duy tâm là như thế. Pháp thân chân thật của Phật giống như hư không. Đạt được vọng tưởng vốn Không, thì bản hữu pháp thân tự hiện, quang minh tịch chiếu, tròn đầy biến khắp, chẳng thiếu chẳng thừa. Không thể đem tâm hướng ngoại truy cầu. Bỏ tâm này mà chạy đi tìm cầu bên ngoài, thì trong tâm khởi ra vô lượng cảnh giới mộng tưởng. Đấy chính là thần thức biến hiện, quyết không cho là kỳ đặc. Trong tâm thanh tịnh của chúng ta, vốn không một vật, cùng không có một niệm. Vừa khởi tâm động niệm, liền đi ngược với pháp thể54. Người dụng công ngày nay, đa số không biết tự tâm vọng tưởng, nguyên là hư vọng. Đem vọng tưởng này, nhận lầm là chân thật, chỉ chuyên cùng nó đối đầu, như trẻ em đùa giỡn với lửa; càng giỡn càng không có liên hệ gì; đùa mãi bèn tự sanh tâm sợ hãi. Lại có người sợ vọng tưởng, rồi hận không thể nắm bắt được, bèn liệng qua một bên. Ví như bắt gió nắm hình, cả ngày đùa giỡn phí tận khí lực. Lúc chưa có một niệm nào ngưng được, lâu dài ngày càng bị trói buộc, thì tín tâm càng mỏi mệt, rồi bảo rằng tham thiền không linh nghiệm, bèn sanh tâm hủy báng, hoặc sanh tâm sợ hãi, hoặc sanh tâm thối sụt.
51 Bị đọa làm ma u sầu: không giải thoát được khỏi phiền não.
52 Tuyệt nhiên không có gì để phải nắm giữ.
53 Hiểu sai tánh Không là trống không, nên không thấy được tánh Không đúng nghĩa của tất cả các pháp là vô ngã, là sinh, trụ, hoại, diệt do nhân quả.
54 Pháp thể: pháp thân hay tánh chân thật.
Đây là bệnh của kẻ mới khởi tâm tu hành, chẳng có gì khác hơn. Do chưa đạt được chân tâm thường trụ, tánh không sanh diệt, nên nhận lầm vọng tưởng là pháp thật. Gặp những cảnh giới này, cần yếu phải nhìn xuyên thấu. Vượt qua được cửa ải này thì tự nhiên có con đường hướng thượng; chỉ nên ngừng tư duy, kiến giải mà tham khán, và xa lìa tâm vọng tưởng mong cầu cảnh giới. Nơi một niệm vừa khởi, chẳng màng lành hay dữ55, hãy ném phứt chúng đi, chớ cùng chúng đối đầu. Tin chắc trong tự tâm, vốn không có những việc đó, rồi đề khởi câu thoại đầu xưa, như bảo kiếm kim cang, ma Phật đều chém. Nơi đây phải có lực đại dũng mãnh, đại tinh tấn, đại nhẫn nhục; quyết không nghĩ trước tính sau; quyết không khiếp nhược. Phải trực tâm chánh niệm, thẳng bước hướng phía trước, thì tự nhiên đường đường cao ngất; chớ bị những vọng tưởng này trói buộc, như thoát khỏi mồi chim ưng, thì trong mười hai thời, nơi tất cả cảnh duyên, tự nhiên không bị ràng buộc, và tự nhiên đắc đại khinh an56 cùng đại tự tại. Đây là nơi đắc lực đầu tiên của người mới khởi tâm tu hành.
55 Chẳng màng lành hay dữ: không mong cầu, cũng không chống đối, không khen, không chê.
56 Đại khinh an: trạng thái nhẹ thênh và yên ổn, không phiền não.
Những lời lẽ bên trên, giống như vẽ thêm chân rắn, cũng chỉ là lời phương tiện, chẳng phải là cứu cánh chân thật. Vừa bước ra cửa, ngay bên đường lộ, sợ đi lầm lạc, uổng phí tâm lực, lãng phí thời giờ, thì phải thẳng dùng pháp môn chân chánh, siêu xuất trên con đường vi diệu trang nghiêm. Đó gọi là bước trên chánh lộ bằng phẳng. Nếu cố gượng tu hành mau gấp, mong sớm thành tựu, thì kiếp sống luân hồi lại càng dài thêm. Phải bước theo đường lộ hướng thượng của Phật Tổ, mà không màng đến những lộ trình khác. Đây là phương tiện cho người mới khởi tâm tu hành. Phải nhìn xuyên thấu đáo.