Ở
thành phố nhỏ ven biển này, trời thích làm mưa.
Đặc biệt là trong tiết trời tháng Năm ẩm ướt, ban công nhà nào cũng bị phủ một lớp chất nhầy bân bẩn, tỏa ra một thứ ánh sáng khiến con người không vui. Lũ vi khuẩn và các nhánh thường xuân thích thời tiết này. Chỉ trong hai ngày, loại vi khuẩn màu trắng đã nhanh chóng phát triển, phình to thành hình nấm bằng cái móng tay, trông béo tốt, mỡ màng đến kinh ngạc. Cây thường xuân càng lớn nhanh hơn nữa, trung bình một giờ, mỗi ngọn cây có thể bò qua cả một hòn gạch đỏ. Nếu sáng sớm vẫn thấy chúng bám vào cửa sổ tầng hai thì đến lúc chiều tà, chủ hộ sống ở tầng ba đã có thể nhìn thấy từ trong nhà thấp thoáng chiếc bóng màu xanh đang thập thò dò đường của chúng.
Đêm về, luôn có lũ thiêu thân đi tìm thức ăn lướt qua ban công. Một chút bất cẩn, chúng đã dính ngay phải lớp chất nhầy trên lan can sắt, đôi cánh mỏng tang màu xám bỗng trở nên nặng nề, dính liền với nhau thành một mảng như màng chân vịt, không thể mở rộng. Cuối cùng, con thiêu thân bất hạnh ngã nhào xuống đất, dốc chút lực tàn rồi ngắc ngoải, thoi thóp.
Lúc này, con mèo có đôi mắt sắc như dao giữa màn đêm vô cùng phấn khởi. Nó lao như tên về phía trước, phung phí nguồn sức mạnh chỉ để giữ chặt lấy con thiêu thân đáng thương bằng hai chân trước. Nó ngoe nguẩy cái đuôi dựng ngược như cột cờ, nhích đôi chân một cách thận trọng rồi khẽ kêu lên như tỏ ý cảm ơn. Dáng vẻ xúc động dào dạt, hưng phấn dị thường này chẳng khác gì một vị tướng giành được chiến thắng sau một hồi tranh đấu kịch liệt.
Sáng sớm, khi chủ nhà đi đôi dép nhựa ra ban công hít thở bầu không khí ướt át, sẽ ngạc nhiên phát hiện bãi nôn mửa màu xam xám, dài dài, nho nhỏ, cuộn chặt vào nhau, trông như cái xúc xích thối ở một góc ban công. Đây chính là món quà mà mèo dành tặng chủ nhân sau khi nếm thử món thiêu thân mới lạ.
Cả thành phố đều được gói trong bầu không khí mằn mặn, ươn ướt. Mỗi góc nhà, chiếc lá, ngọn đèn đều ngưng tụ một lớp hơi nước gần như trong suốt. Đây chính là không khí của thành phố sau khi đã bị quá nhiều khí thải công nghiệp làm ô nhiễm, nó lờ mờ như lớp kính sần. Sắt và gỗ chầm chậm phân hủy trong làn hơi nước dày đặc, từ kiên cố không gì có thể phá vỡ đến mục nát không chịu nổi một đòn tấn công, chúng kết thúc cuộc đời từ huy hoàng đến diệt vong.
Ban ngày rồi đến ban đêm, con người cứ đi qua đi lại trong thành phố như vậy: tóc dính bết trên đầu, quần áo âm ẩm dính sát vào cơ thể, tay cầm tập tài liệu đi làm, cái ba lô đi học hay chiếc làn mây đi chợ. Họ không một lời ca thán, không một chút phàn nàn, bởi vì cuộc sống là như vậy, không thể mong chờ quá nhiều, cũng không nên đòi hỏi quá nhiều.
Thành phố ướt đến nhỏ giọt.
Thành phố mệt mỏi, lười biếng và sầu thương.
Nhưng thỉnh thoảng sẽ có một ngày trời quang hửng nắng.
Sau khi ánh nắng mặt trời yếu ớt khoét được một lỗ nhỏ giữa lớp mây u ám, ảm đạm rồi nhoẻn miệng nở một nụ cười với thành phố, vạn vật trên thế gian như bừng tỉnh, thoát khỏi lời nguyền ma thuật, bỗng trở nên xán lạn, nhẹ nhàng, hoạt bát, tất cả đều cười tươi như hoa, dâng tràn một sức sống mãnh liệt.
Một phút trước, đám mây còn đang nhỏ nước như chiếc tã trẻ em chưa vắt khô, một phút sau đã biến thành những tảng bông mềm bồng bềnh khổng lồ, khô ráo, sạch sẽ, thơm mùi nắng ấm, lãng đãng trôi giữa không trung.
Trên nền trời vắng bóng mây, Mặt Trời phóng khoáng khoe tấm thân rực rỡ. Thế là, mỗi mét vuông trong từng căn nhà ở thành phố đều lấp la lấp lánh như được trát lên một lớp thủy tinh mỏng.
Giọt nước lăn xuống từ những cành cây ngô đồng, phát ra tiếng kêu tanh tách. Cửa trước, cửa sau xe ô tô đều phản chiếu cảnh trời xanh mây trắng cùng đường phố đông vui tấp nập, tạo nên những bức tranh phong cảnh sống động. Những chú bướm đốm vàng nhạt nổi bật trên tấm thân màu xanh nhạt phơi khô đôi cánh của mình bằng tốc độ nhanh nhất, sau đó tung tăng bay qua bên kia đường, tụ hội trên những bông hoa trà và hoa mai trong đài hoa giữa phố. Chúng say sưa nhảy múa, vui đùa. Bầy chim non vội lao xuống từ trên chạc cây, háo hức tham dự lễ hội bướm xinh nên ríu ra ríu rít mãi không thôi. Lũ bướm đương nhiên sẽ chê chúng ồn ào nên cố tình ra dáng ra vẻ, bay lên bay xuống nhẹ nhàng như ráng chiều ngũ sắc.
Không khí thật náo nhiệt!
Thật hân hoan!
Thật vui mừng, hớn hở, tươi mát, đáng yêu biết bao!
Thật may, tang lễ của bố diễn ra vào đúng ngày nắng hửng mây tan như thế. Gương mặt những người mặc quần áo tối màu đến tham dự tang lễ, những người thân, đồng nghiệp và bạn bè mang theo vòng hoa cùng niềm thương nỗi nhớ đến chia buồn trông có vẻ không đau xót như tưởng tượng. Thậm chí, bông hoa trắng làm từ vải lụa gắn trên cánh tay họ còn trở nên đẹp rạng rỡ dưới ánh nắng mặt trời, mỗi cánh hoa mỏng như cánh ve, mềm mại, trong suốt, tỏa ra mùi hương thanh mát như hoa thật.
“Đến rồi à?”
“Đến rồi, đến rồi.”
“Thật là bất hạnh quá đi thôi!”
“Đúng vậy. Bất ngờ không ai có thể nghĩ tới. Ai dà, đứa trẻ là đáng thương nhất!”
Họ thì thầm nói chuyện với nhau vài ba câu rồi tản ra, tìm đến chỗ mình nên đứng.
Ánh sáng mặt trời len lỏi khắp mọi nơi, nó rọi cả vào lớp đất mới đào từ dưới mộ lên, khối đất màu vàng nâu ửng lên một màu đỏ ánh kim trông vô cùng đáng yêu.
Trong đống đất có một mùi ẩm ướt dễ chịu, ngay lập tức đã thu hút mấy con bọ màu nâu đậm, chúng ra sức khua khoắng tứ chi hòng vùi mình vào trong đất thật sâu.
Tuy nhiên, do không cẩn thận, chúng lạc đường, bò đến lọ đựng tro cốt còn nồng mùi sơn của bố, bức tường cứng đơ khiến chúng không tài nào nhích thêm được. Quá đỗi kinh ngạc, chúng ngẩng đầu lên, lắc la lắc lư như muốn biết rõ cái gì đang chắn trước mặt.
Chúng không bao giờ hiểu được rằng, trong chiếc lọ cứng như đá đó là cơ thể của một con người, toàn bộ cơ thể của một người đàn ông bốn mươi tuổi.
Còn có tất cả nụ cười, tất cả khổ đau, tất cả tình yêu đối với con trai, tất cả trách nhiệm cần phải gánh vác nhưng chưa hoàn thành với thế giới của người đàn ông đó.
Đám bọ vỏ cứng cuộn mình bất động, đầu gối đầu, tai kề tai, căng thẳng thảo luận đối sách.
Đệ Đệ đứng giữa dòng người, chẳng cần nép mình thì cậu cũng bị những người xung quanh che khuất. Cậu cảm thấy như vậy rất tốt. Cậu không muốn nhìn thêm lọ tro đó nữa. Khi đứng, người bố đáng thương cao hơn Đệ Đệ tầm hai cái đầu, nên nằm trong chiếc lọ đó chắc chắn không dễ chịu chút nào. Nhưng Đệ Đệ chẳng có cách nào giúp bố. Cũng giống như lúc còn sống, bố luôn yêu cầu con trai phải tự nỗ lực, bây giờ, Đệ Đệ đành đứng nhìn đầy bất lực.
Sự việc xảy ra quá đỗi bất ngờ. Một tuần đầu tiên, Đệ Đệ sống chết không tin đó là sự thật.
Đệ Đệ chỉ nhớ khung cảnh hoàng hôn hôm đó: Bầu trời một màu xanh tím, góc tây được bôi quệt vài đường đỏ cam xen lẫn vàng. Những gốc cây phơi nắng suốt cả ngày từ từ tỏa ra mùi tia tử ngoại dễ chịu. Lũ chim thong dong bay ngang trời, chọn lựa kỹ càng chỗ nghỉ chân khi đêm về. Xe bán hàng rong bên vỉa hè đã ra chiếm lĩnh địa bàn từ sớm, bắt đầu bày lên những đồ ăn chỉ bán ở chợ đêm như miến thịt bò cay nồng nóng bỏng miệng, bánh bao nhân thịt bé xíu có lớp vỏ mỏng bên ngoài nhưng lại đẫm nước xuýt bên trong được xếp ngay ngắn trên bếp, những xiên thịt cừu nướng được rắc gia vị thơm nức mũi cùng những bát tào phớ được chan lớp dầu ớt đỏ tươi nổi bật trên nền trắng như tuyết…
Cả thành phố được bao trùm trong cảnh chiều ấm nồng, bình yên như một nụ cười.
Lúc đó, bố đón Đệ Đệ ở trường tiểu học trên đường Hải Lăng, tiện thể rẽ sang chợ mua một con gà trống nhỏ có cái mào đỏ tươi đã được làm sạch. Bố kẹp gà vào sau xe, vừa ung dung, thong thả đạp xe vừa không ngừng nói chuyện với cậu con trai ngồi đằng trước, ân cần hỏi con muốn ăn gà hấp hay gà xào.
Đệ Đệ chau mày nói: “Bố thật lắm chuyện!”
Dường như, tất cả các ông bố bà mẹ trên thế giới đều lắm lời với con cái. Hoặc có lẽ họ chỉ đang độc thoại chứ không để tâm con cái có trả lời những câu hỏi được coi là phiền phức đó không.
Đệ Đệ nhất quyết không trả lời kiểu câu hỏi nhạt thếch đó. Cậu bé vốn là đứa trẻ lầm lì ít nói. Ngồi trên càng xe phía trước, tầm nhìn thoáng nên cậu ngẩng đầu đã thấy ngay chiếc bóng đen xì của một chú dơi bay ngang qua, trong lòng tự hỏi không biết đống bài tập về nhà hôm nay mất bao lâu mới làm xong.
Đệ Đệ không hề nhận thấy những người xung quanh cũng đều không ý thức được, nguy hiểm sẽ ập đến trong tích tắc. Một chiếc xe con dòng Santana không cũ cũng chẳng mới lao đến trong trạng thái nghiêng nghiêng ngả ngả với tốc độ vượt quá giới hạn cho phép, động cơ rú lên ầm ầm, toàn thân chiếc xe rung lên bần bật, phát ra tiếng kêu rào rào đáng sợ, không khác gì một con quái thú có năng lượng siêu phàm ngoài vũ trụ chỉ xuất hiện trong phim ảnh, xông vào giữa đoàn người đang đi không một chút cảnh giác bên đường. Chớp mắt, nó đã gây ra hậu quả tang thương là ba người chết tại chỗ và hai người bị thương nặng.
Đệ Đệ không kịp nhìn rõ dáng hình bố trong vũng máu, bởi ngay giây phút đó, cậu được một đôi tay bế bổng lên rồi quẳng sang một bên. Cậu ngã nhào vào người một phụ nữ trung niên đang bán dâu tây bên đường, khiến cô ấy cũng ngã vật ra đất, sau đó cậu ngất đi.
Cảm nhận cuối cùng của cậu về bố là hơi ấm từ đôi tay ôm chặt hai bên sườn. Từ đó, hai luồng khí nóng còn sót lại ấy cứ vương vấn mãi trên người cậu, có lúc ấm áp dễ chịu như chiếc túi sưởi, có lúc bỏng rát, đau nhói như bị thiêu đốt bởi lửa than đang cháy bùng bùng.
Nhưng thật khó chịu, khi cơ thể cảm thấy đau đớn muôn phần, cậu chẳng thể giãi bày. Nói không được và cũng chẳng ai tin. Riêng về điểm yếu này, Đệ Đệ cảm thấy bản thân còn không sướng bằng con sói trong vườn bách thú. Sau khi bị con người dùng súng bắn bị thương, con sói lập tức rít lên để nói cho cả thế giới biết về nỗi đau mà nó đang phải chịu đựng. Nhưng Đệ Đệ không thể, Đệ Đệ không thể nói nên lời. Mà có nói, mọi người sẽ nghĩ cậu bị chấn động tâm lý, hết người này đến người khác tranh nhau đến sờ trán, lật mí mắt cậu rồi xúm lại xung quanh, hỏi này hỏi kia bằng thái độ và ngôn từ rất kỳ lạ.
Vì thế, trong tang lễ hôm đó, Đệ Đệ không nói không rằng, co rúm lại sau lưng mọi người. Qua khe hở giữa những đôi chân, cậu quan sát con bọ màu nâu đang ngẩng đầu, vẫy đuôi hết sức kinh ngạc trước lọ tro cốt, trong lòng cứ miên man nghĩ đến cảm nhận của bố khi nằm ngủ trong chiếc lọ chật hẹp, tối tăm, cảm thấy buồn thay cho bố nhưng lại chẳng thể giúp bố được gì.
Bà nội mắc bệnh Alzheimer ngồi trên xe lăn bị Mặt Trời chiếu đến buồn ngủ. Bộ não đáng thương của bà đã teo tóp như cái tổ ong vò vẽ, hoàn toàn không biết việc gì đang xảy ra trước mắt. Chiếc áo tay rộng màu đen trên người bà được bác ruột cậu mua riêng từ chợ bán buôn về, khó khăn lắm mới mặc được vào người bà một cách miễn cưỡng vì phải che kín đôi mắt bà.
“Tôi thích mặc màu sáng, tôi không muốn mặc màu đen.” Bà nội hét lên, ra sức giằng giật chiếc áo trên người như muốn tháo tung nó ra.
Bác ruột cầm tay bà: “Mẹ chỉ mặc màu đen một lúc thôi, rồi sau sẽ mặc màu sáng. Mẹ nghe lời nhé!”
Trước đó, quần áo bà nội mặc chỉ đúng một màu: Màu đỏ bí bách như màu gạch. Ngoài màu đó ra, bà thà không mặc gì chứ nhất quyết cự tuyệt các loại màu khác. Bác cậu giải thích rằng, chắc chắn bà đã coi quần áo màu đỏ gạch như căn nhà của mình, chỉ khi trốn trong nhà mới cảm thấy an toàn và bình yên.
Khi được chú ruột Đệ Đệ bế lên xe lăn, bà nội cũng giãy giụa một lúc. Bà mếu máo, nói như khóc: “Tôi không lên phố, tôi không muốn đi dạo.” Bà vặn người như một đứa trẻ nghịch ngợm.
Người mẹ này đã không còn hiểu chết đi nghĩa là gì nữa nên có nói bà cũng không biết. Bà ra đến mộ nhưng không hề biết đây là đám tang của con trai mình.
Tay bà nội đeo một chiếc nhẫn ngọc phỉ thúy xinh xắn. Lúc ngủ gật, đôi tay nhăn nheo như giẻ lau của bà để trên đùi một cách bình thản, ánh mặt trời nhảy múa trên nền ngọc xanh. Ánh sáng phản chiếu hắt lên mũi bà, trông như chiếc khuyên mũi của phụ nữ Ấn Độ, rất khôi hài. Chỉ có điều, bà hoàn toàn thờ ơ, yên lặng, cúi đầu ngủ ngon như một đứa trẻ sơ sinh.
Đệ Đệ nhớ như in, khi bố kịp mua chiếc nhẫn này từ cửa hàng vàng bạc ở quảng trường thành phố vào đúng dịp sinh nhật bảy mươi tuổi của bà nội, thím nhăn mũi một cách kỳ quái rồi lầm bầm nói: “Đã lẫn đến nông nỗi này rồi, cho dù anh mua cho bà ngọc trai đen, khéo bà cũng chỉ coi như hòn đất sét thôi.”
Bố không để ý lời thím, cẩn thận lấy nước ấm rửa tay cho bà nội, bôi kem dưỡng ẩm, sau đó từ từ đeo chiếc nhẫn phỉ thúy vào ngón tay áp út của bà. Bố cầm tay bà, nhấc lên để bà tự xem. Đệ Đệ nhớ lúc đó bà đã cười. Có thể vì thấy buồn buồn ở nách hoặc là nguyên nhân khác, nhưng quả thật bà nội đã cười.
“Một hạt đậu Hà Lan,” bà nói. Não bà không còn khái niệm ngọc phỉ thúy nhưng lại biết đậu Hà Lan, thật lạ.
Hôm đó cách ngày xảy ra tai nạn chưa đầy một tháng. Cứ như thể bố biết trước bản thân sẽ gặp phải kiếp nạn lớn nên mới để lại một nỗi nhớ thương thành hình cho người mẹ già.
Thím là người năng nổ nhất trong đám tang. Đi đôi giày vải màu đen đế trắng, thím nhanh nhẹn chạy đi chạy lại trên con đường nhỏ dẫn ra mộ, đỡ cái này, gọi cái kia, hai chiếc hoa tai vàng tròn tròn đung đưa như muốn bay lên, nụ cười trên gương mặt có thể được gọi là nụ cười của niềm vui.
Đúng thế, thím nên vui. Bố chết rồi, bé Đệ Đệ mười tuổi sẽ theo mẹ Thư Nhất Mi rời khỏi thành phố này, căn nhà để lại đương nhiên sẽ do thím xử lý. Đây là một món lời to đùng. Khi cả nhà tề tựu, thím đứng trước di ảnh của bố, dõng dạc tuyên bố: “Anh trưởng không còn, chúng em sẽ chăm sóc mẹ già, nhiệm vụ này không nhẹ, cho dù có căn nhà bù đắp lại cũng chưa chắc bù đủ sự vất vả, phải không ạ?” Thím quay đầu, dùng ánh mắt ra hiệu cho chú như mong muốn chồng mình đứng lên phụ họa thêm đôi câu.
Lúc đó, chú chỉ trầm ngâm ngồi hút thuốc ở một góc, sống chết không chịu mở mồm. Chú khó chịu khi thím nói vậy nhưng lại không dám công khai ngăn cản. Chú luôn sợ thím, sợ cái miệng lanh lợi mà nanh nọc, sợ tiếng cười khanh khách không chút kiêng dè, sợ ngón giữa nhòn nhọn của thím chìa ra, dí thẳng vào trán mình. Người đàn ông sợ người phụ nữ ngay từ khi yêu, sợ suốt chục năm dài đã qua, sẽ còn tiếp tục sợ.
Vì thế, biểu hiện của chú trong tang lễ hoàn toàn khác với thím: Thím vui vẻ, chú đau khổ, nỗi đau của tình anh em như tay với chân, nỗi đau quặn thắt từ tim đến phổi.
Đệ Đệ vốn không phải gọi là “Đệ Đệ”, tên đi học của cậu là Triệu An Địch. Từ nhỏ, bố gọi cậu là “An Bảo Nhi”, bác ruột, bác rể, chú ruột và thím đều gọi như vậy.
Một ngày trước tang lễ của bố, mẹ Thư Nhất Mi xuống tàu hỏa, bước vào cửa nhà. Lần đầu tiên nghe họ hàng gọi cái tên này, mẹ nhíu mày hỏi: “Ai tên là An Bảo Nhi?” Được biết tên gọi ở nhà này do bố đặt, mẹ bĩu môi, đang định nói điều gì đó nhưng nhìn thấy những gương mặt phảng phất đau buồn của họ hàng nên lại thôi.
Một lúc sau, mẹ gọi Đệ Đệ đến bên cạnh, hỏi ý kiến của cậu một cách khách sáo: “Cái tên An Bảo Nhi không hay, nghe nực cười quá, sau này các bạn sẽ cười con. Đổi nhé, được không?”
Trong lòng lo lắng, căng thẳng, Đệ Đệ hoàn toàn mất ý thức tự chủ, cậu chỉ gật gật đầu.
Mẹ Thư Nhất Mi ngẫm nghĩ: “Đổi sang tên gì mới hay đây? Triệu An Địch chắc chắn quá nghiêm túc. Gọi Địch Địch thì sao? Cũng không lọt tai. Địch Địch, đi đi, nghe cứ như đang gọi taxi, phải không?” Mẹ ngẩng mặt lên, nghĩ một lúc, thở nhẹ ra rồi nói: “Thật phiền phức! Thế này đi, mẹ sẽ gọi con là Đệ Đệ. Đệ Đệ cũng có nghĩa là con trai, vừa rõ ràng, vừa không khó nghe.”
Nhưng Đệ Đệ tự cảm thấy có chút khó nghe. Quyết định trong tích tắc của mẹ Thư Nhất Mi đã thay đổi hết cách mọi người gọi cậu, mấy ngày sau đó, hai tai Triệu An Địch lúc nào cũng văng vẳng một cái tên xa lạ: Đệ Đệ. Cái tên này khiến cậu cảm thấy bản thân bỗng nhiên biến thành em trai của tất cả mọi người, chứ không phải cháu trai của bà nội, con trai của mẹ Thư Nhất Mi, cháu của cô, em họ của anh con nhà bác nữa. Đệ Đệ, một tên gọi khiến cậu cảm thấy muôn phần nhục nhã!
Cho đến khi lớn khôn nên người, lấy vợ đẻ con, tóc bạc râu trắng, cậu vĩnh viễn không bao giờ thay đổi được cái tên nực cười này. Cả đời cả kiếp này, cậu đều là em trai của tất cả nhân dân thế giới. Tại sao mẹ không suy nghĩ cho cậu cơ chứ? Mẹ vội vàng ấn cho cậu một cái tên mụ rất thiếu trách nhiệm thế này chẳng khác nào chiếc ghế bị gãy một chân, chủ nhân không muốn làm phiền thợ mộc, tiện tay vớ lấy cành cây, bẻ làm đôi rồi lấy đinh đóng vào mộng, đập vài cái và nói, cứ thế này đi!
Đệ Đệ quyết định kháng nghị. Đứa bé lầm lì ít nói dùng cách tuyệt thực để tỏ rõ thái độ của mình với tên gọi mới này.
Cả nhà không hiểu nguyên do, sốt sắng vây quanh cậu mà không biết làm sao, cứ hỏi này hỏi nọ. Đệ Đệ mím chặt môi, lặng thinh, không nói câu nào.
Cuối cùng vẫn là mẹ Thư Nhất Mi đi đến, xới một bát cơm, gắp một ít thức ăn, nhẹ nhàng đẩy đến trước mặt Đệ Đệ. Ranh giới phòng vệ của Đệ Đệ vỡ tan trong giây lát. Cứ như cả một đội quân tan tành hoàn toàn. Cậu len lén nhìn mẹ Thư Nhất Mi, bỗng cảm thấy rất đói bụng, chưa bao giờ đói đến thế. Cúi đầu, cậu nhồm nhoàm và hết bát cơm, sau đó tự mang bát đi rửa sạch sẽ.
Tuyệt thực phản đối không có bất kỳ tác dụng gì. Thậm chí không ai biết cậu tuyệt thực chỉ vì cái tên.
Bác gái thì thầm nói với bác rể: “Đứa bé đáng thương, nó sợ cô ấy.”
“Cô ấy” ở đây đương nhiên là chỉ mẹ Thư Nhất Mi.
Thực ra, trước đó rất lâu, Đệ Đệ đã biết có một người tên là Thư Nhất Mi. Năm đó, có lẽ cậu năm tuổi, cũng có thể sáu tuổi, tóm lại là một buổi sáng sớm trước khi vào tiểu học. Hôm đó, cậu dùng đôi tay bé xinh dính đầy mỡ khi vừa ăn xong bánh bao thịt lục lọi, tìm ra bức ảnh của mẹ Thư Nhất Mi. Bức ảnh được bố cất trong chiếc hộp giấy cứng màu đỏ sẫm, giấu tít dưới đống băng cát-sét và sách hướng dẫn sử dụng sản phẩm trong ngăn kéo tủ ti vi. Khi bàn tay bé nhỏ của Đệ Đệ vừa cầm tấm ảnh, đang vui mừng, hí hửng vì bản thân có công phát hiện ra một món đồ mới trong nhà thì bố lao đến như chim bay từ ban công phơi quần áo, giật lấy tấm ảnh trong tay Đệ Đệ. “An Bảo Nhi!” Bố tức giận hét to, “Con nhìn tay con xem! Con nhìn tay con xem!”
Ngẩng đầu nhìn bố, Đệ Đệ giơ hai tay lên nhìn và không hiểu chuyện gì.
Bố nhấn mạnh: “Mỡ! Mỡ dính đầy kia kìa!”
Thế là Đệ Đệ mới hiểu ra, bàn tay mỡ màng của mình suýt chút nữa làm bẩn cả tấm ảnh đẹp.
Hai năm trôi qua, sau khi vào tiểu học, Đệ Đệ đã biết người phụ nữ xinh đẹp trong tấm ảnh là mẹ của mình. Đệ Đệ đón nhận sự thật này một cách rất bình thản. Cậu nghĩ, “mẹ” chính là ảnh, là thứ cất trong hộp giấy, cũng có thể treo lên tường để ngắm. Cậu bắt đầu quan sát mẹ của các bạn nhỏ xung quanh, để ý đến vẻ ngoài, trang phục và kiểu tóc của họ. Cậu rất tự hào bởi vì họ đều không đẹp bằng mẹ của mình, không trẻ như người phụ nữ trong ảnh, cũng không có nụ cười hút hồn trên gương mặt cùng đôi môi chúm chím như hoa nở như người ấy.
Một ngày trước tang lễ của bố, người bác ruột thay cho cậu một bộ quần áo sạch sẽ, dắt tay cậu đi: “An Bảo Nhi, đi, đi ra nhà ga đón mẹ con.”
Đệ Đệ thần người hồi lâu, không kịp phản ứng với câu nói đơn giản không còn gì đơn giản hơn này.
Đến nhà ga. Đón mẹ.
Ai là mẹ?
Tại sao phải đi đón người đó?
Đệ Đệ đi theo bác ra nhà ga, đón được mẹ Thư Nhất Mi bước ra từ trong ảnh.
Cảm giác lúc đó vô cùng kỳ lạ, giống như một người rất đỗi quen thuộc lâu nay trên ti vi, nhìn cô ấy nói, nhìn cô ấy đi, nhìn cô ấy quay đầu mỉm cười, bỗng nhiên đùng một cái bước ra khỏi ti vi, đứng sờ sờ trước mặt mình. Đệ Đệ không thể thích nghi với sự thay đổi này. Cậu căng thẳng, bất an, ánh mắt tránh đi chỗ khác, không nhìn mẹ Thư Nhất Mi, mà nhìn sang những hành khách xuống tàu khác, nhìn họ lướt qua mình trong dáng vẻ mệt mỏi, đầu tóc bơ phờ, bánh xe kéo của va ly ma sát trên mặt đường bê tông tạo ra những âm thanh nhức tai, người lớn gắng sức nắm tay con trẻ thật chặt như sợ chỉ một phút thiếu chú ý, con trẻ sẽ bị bọn buôn người bắt đi. Trong luồng không khí bay ra từ đường sắt có một mùi lạ lẫm của phương xa. Lạ lẫm như “người mẹ” xinh đẹp đang đứng trước mặt này.
Người bác nhẹ giọng nhắc Đệ Đệ: “Gọi mẹ đi con. Gọi đi!” Cổ họng Đệ Đệ khô rát, cố gắng cỡ nào cũng không phát ra tiếng.
“Gọi đi! Đây là mẹ của con đó!” Bác lắc lắc tay cậu.
Đệ Đệ bực mình vắt tay ra sau lưng, khiến bác không tài nào chạm tới.
Bác bực mình vì nói cháu không nghe, giậm giậm chân rồi phàn nàn với Thư Nhất Mi: “Đứa bé này sao mà khó mở mồm thế!”
Mẹ Thư Nhất Mi quay người, hờ hững nói một câu: “Thế thì thôi!”
Bác với tay, véo vào vai Đệ Đệ một cái rồi lại vỗ vỗ vào đầu cậu một cách đầy bất lực. Tay bác rất to, bàn tay lại dày, vỗ vào người rất dễ chịu. Nhưng thật tiếc, bác gái không thể giữ Đệ Đệ ở lại vì bác trai không đồng ý. Bác trai có dáng người nhỏ bé, tấm lòng cũng nhỏ mọn, từ lúc mở mắt vào sáng sớm đến lúc đi ngủ khi tối muộn, trong lòng lúc nào cũng tính toán chỉ một việc: Hôm nay có thiệt cái gì không? Vì thế bác gái nói với Đệ Đệ, không sống ở nhà bác cũng may, tránh sau này bác trai đề phòng cháu như đề phòng trộm.
Ba người không nói không rằng rời khỏi nhà ga, về nhà. Là về nhà của bố. Vì bố không còn nữa nên chỉ trong vài ngày ngắn ngủi, ngôi nhà đã trở nên trống hoác, bừa bãi, lộn xộn, ngập ngụa mùi lụi bại.
Mẹ Thư Nhất Mi đi trước, Đệ Đệ đi sau, bác đi giữa hai mẹ con xa lạ này. Mẹ Thư Nhất Mi mặc một chiếc áo măng-tô ngắn màu vàng nhạt, đôi tất giấy ôm chặt lấy đôi chân thon tròn, đôi giày đang đi màu cà phê, trông có vẻ rất mềm, bởi vì đi trên nền bê tông vẫn không phát ra tiếng kêu quèn quẹt đáng ghét.
Bác gái thấy biểu hiện của Đệ Đệ hôm nay giống như một đứa ngốc. Bác sợ mẹ Thư Nhất Mi sẽ nghĩ Đệ Đệ ngốc thật, lại không có ấn tượng tốt với Đệ Đệ nên luôn tìm cách giúp Đệ Đệ cứu vãn. Ở cửa ra của nhà ga, bác quay đầu đợi Đệ Đệ tiến đến, giật giật tay cậu rồi nói thầm: “Con đi giúp mẹ con xách một chiếc túi đi.”
Cơ thể Đệ Đệ cứng đơ ngay tức thì, đứng nguyên một chỗ như chiếc đinh cố định trên tường, hai chân không tài nào nhúc nhích.
Bác dọa cậu: “Con mười tuổi rồi, phải hiểu chuyện chứ.”
Đệ Đệ tỏ vẻ như định quay người lùi về phía sau.
Bác đành phải xuống nước: “Được rồi, được rồi, không xách, không xách.”
“Chiếc đinh” lỏng ra, hai chân lại bước về phía trước. Bàn chân đi đôi giày du lịch màu xanh dương cỡ 35 không mới lắm, xương mắt cá chân rất nhỏ, nhỏ đến nỗi đôi tất không giữ nổi, cứ rũ xuống miệng giày, giống như đôi tai cụp xuống của con thỏ, bước chân thì nặng nề và chậm chạp.
Bác gái khẽ thở dài một tiếng rồi lẩm bẩm: “Đúng là oan gia!”
Đệ Đệ ngước mắt, len lén nhìn dáng đi từ phía sau của mẹ Thư Nhất Mi, nhìn vạt sau của chiếc áo măng tô màu vàng nhạt lùng bùng nơi khuỷu chân, gió nhẹ dập dờn. Cậu gượng gạo nhủ thầm trong lòng một chữ: Mẹ.
Sau một hồi bàn bạc khẩn trương, lũ bọ màu nâu ở mộ đã quyết định thực hiện hành động tiếp theo: Vòng qua bức tường cao trước mặt, tìm hướng để đi tiếp.
Thế là, hai cái râu của chúng dựng lên, lắc lư, chuyển động từ trước ra sau, từ trái sang phải hòng tạo ra một từ trường có hiệu quả như ra-đa trong thời gian ngắn, từ đó quyết định sẽ lựa chọn con đường rẽ sang trái hay rẽ sang phải.
Thật ra, quay đầu tại chỗ mới là lựa chọn tốt nhất, tại sao chúng không nghĩ tới cơ chứ? Là bởi vì chúng không có cổ, cái đầu không thể nào co dãn nên đôi mắt chỉ có thể nhìn về phía trước sao? Cần phải giúp đỡ chúng. Lũ bọ đáng thương, không tìm được đường để đi trước mặt bao nhiêu người như vậy!
Đệ Đệ chẳng nghĩ gì thêm, chen ra khỏi đoàn người, tiến lên trên một cách quyết đoán. Trước tiên là chen một chân vào khoảng trống giữa hai người lớn đứng trước. Ngửi mùi thuốc lá nồng nặc trên người họ, Đệ Đệ nhận ra đó là chú Lưu và chú Dương, đồng nghiệp cùng cơ quan với bố. Tiếp đó, Đệ Đệ nghiêng người, hóp bụng và nhấc chân kia lên, tạo khoảng không để lách người qua. Cậu cảm thấy chú Lưu đang khó chịu, nhấc cánh tay như muốn mắng người, nhưng khi cúi xuống nhìn thấy Đệ Đệ mới không nổi cáu. Đệ Đệ nhanh chóng chớp thời cơ vượt qua người chú, bước thêm một bước, đứng vững ở chỗ phía trên.
Có một thứ gì đó vừa mềm mềm vừa cưng cứng chạm vào bờ vai Đệ Đệ. Cùng với đó, một mùi hương thoang thoảng tựa như mùi thơm mát lưu trên đầu ngón tay sau khi bóc cam nhè nhẹ luồn vào trong mũi Đệ Đệ từng đợt từng đợt. Cậu khó chịu, liền phản ứng bằng một tiếng hắt hơi. Một tiếng hắt xì rất to, vang đến nỗi bác rể quay đầu lại lườm cậu một cái. Đệ Đệ cảm thấy có lỗi, cậu cũng cảm thấy cái hắt xì vang lên không đúng lúc chút nào. Cậu bất giác co rúm người lại.
Lúc này, cậu mới phát hiện ra, thứ mềm mềm vừa chạm vào vai mình lúc nãy chính là khuỷu tay mẹ.
Cậu lén nhìn cái khuỷu tay đó: bị bọc trong lớp vải màu vàng nhạt nhưng vẫn là một phần cơ thể mẹ. Không hiểu tại sao, trong lòng cậu bỗng dấy lên một niềm hưng phấn, sửng sốt lạ kỳ. Cậu rất vui vì mùi hương bưởi ngọt mát đó là của mẹ, chỉ của mẹ chứ không ai khác. Ngược lại, nếu hương bưởi đến từ một người phụ nữ khác, ví dụ như bác ruột hay người thím nhỏ người mà chua ngoa, cậu sẽ tiếp tục hắt xì, hắt xì cho đến khi tắt thở, hắt xì cho đến chết.
Sau đó, Đệ Đệ đã chú ý thấy, cánh tay mẹ đang run run, đang rung lên nhè nhẹ. Nếu không phải vì cậu đứng gần như sát cạnh mẹ, thì sẽ chẳng thể nhận ra. Không, không, không chỉ có cánh tay, toàn thân mẹ đều đang run cầm cập, quần áo và cơ thể chạm vào nhau phát ra tiếng sột soạt, giống như tiếng chuột con không ngừng chạy qua chạy lại đống giấy vụn mà không biết mệt.
Đệ Đệ thấy lo, cậu đoán có phải mẹ ốm rồi không. Trước đó, cậu chỉ quan sát thấy mẹ cô đơn giữa đoàn người trong tang lễ: Một mình đến dự tang lễ (nhân tiện nói thêm, mẹ từ chối ở trong nhà bố, thà bỏ tiền ra ở khách sạn), một mình đặt một nhành hoa cúc đại đóa màu vàng lên mộ bố, một mình đứng sang bên ngoài cách xa đoàn người. Không ai nhìn ra được nét mặt của mẹ: Đau buồn? Cảm thông? Thờ ơ? Tất cả đều không đúng, nhưng hình như tất cả lại đều đúng. Đệ Đệ nghĩ, mẹ run lên cầm cập là vì: Một người có chuyện trong lòng nhưng không thể nói ra, nội tâm mới biến thành thứ như con bọ chui vào trong da, lớp da bị đâm rất đau, đau đến nỗi run lên.
Đệ Đệ không muốn giúp mấy con bọ ngu ngốc không tìm được phương hướng nữa, cậu muốn giúp mẹ Thư Nhất Mi. Dù sao đi nữa, mẹ Thư Nhất Mi cũng đang ốm, đang cảm thấy khó chịu, cậu phải giúp mẹ.
Nhưng khi Đệ Đệ còn chưa nghĩ ra cách gì hay để giúp mẹ, hai người công nhân thời vụ đã vội vàng gánh đến một thùng xi măng được trộn sẵn, ngồi xổm bên cạnh đống đất. Một trong hai người dùng xẻng sắt gọi là đào vài nhát tượng trưng lên hốc mộ, người còn lại hai tay bưng lọ tro của bố đặt vào hố xi măng. Mười đầu ngón tay của người này phủ đầy xi măng, bưng lọ tro lên một cách vô cảm, như thể đang bưng hộp cơm suất chứa đầy cơm, giá xào và canh thập cẩm vừa mua với giá năm đồng ở cửa hàng đồ ăn nhanh.
Đoàn người có sự xáo động nhẹ.
Bắt đầu có tiếng khóc của họ hàng: Tiếng khóc của thím giống tiếng hát. Bác gái khóc nức nở từng hơi đứt đoạn. Tiếng chú lanh lảnh ngân dài khiến lòng người đau xót. Càng nhiều người đứng thành hàng tiến lên phía trước, thành kính bỏ bông hoa xuống mộ, một ít hoa hồng phớt và hoa bách hợp xanh nhạt. Dù sao thì những bông hoa đó cũng chẳng thể mang về nhà, hãy cứ để chúng ở bên tro cốt người đã khuất!
Trong khoảnh khắc này, tiếng hét của mẹ Thư Nhất Mi càng trở nên điên loạn. Xét từ một góc độ nào đó, nó phá vỡ bầu không khí đau thương nhưng trang trọng, khiến tang lễ nhuốm thêm chút kịch tính.
Mẹ đã hét lên như thế này: “Các người đã giết chết anh ấy! Họ Triệu các người đã giết chết anh ấy!”
Giữa vòng vây đồng tâm hiệp lực của bác gái, bác rể, chú ruột và thím, mẹ Thư Nhất Mi ra sức quẫy đạp, vẫy vùng, đôi mắt chứa đựng nỗi đau xé lòng, cho đến khi toàn thân mềm oặt rồi ngất đi bên ngôi mộ sắp được trát kín.
Vài năm sau, khi đã mười lăm tuổi, cậu bé Triệu An Địch mới quay về thành phố nhỏ ven biển để nghỉ hè và ở nhờ nhà bác ruột. Họ cùng nhắc lại “khúc nhạc đệm” này trong tang lễ. Cậu bé sắc sảo hỏi bác: “Lúc đó, mẹ rất hận mọi người, đúng không ạ?”
Người bác đang gói bánh sủi cảo, móng tay dính đầy bột mỳ trắng, mái tóc tỏa ra một mùi hỗn hợp của rau hẹ và thịt tươi. Bác lắc đầu nói: “Không biết. Có lẽ vậy. Cô ấy cho là chúng ta ngăn cản bố con, không cho bố con đi Nam Kinh tìm cô ấy. Cô ấy nghĩ, nếu năm xưa bố con đưa con đi Nam Kinh thì đã không xảy ra chuyện này.”
“Tại sao bố con không đi?”
Người bác mù mờ đáp: “Tại sao ư? Bác cũng không biết. Đó là chuyện giữa bố mẹ con.”
“Vậy thì,” Đệ Đệ lại hỏi “mọi người có hận bà ấy không? Hận mẹ con ấy?”
Người bác dừng tay trong chậu bột, nghĩ một lát rồi nói: “Không hận.”
Nhưng hoàn cảnh lúc đó không phải như vậy, tất cả mọi người có mặt khi đó đều cho rằng Thư Nhất Mi là kẻ điên, thần kinh không bình thường. Mười năm trước, cô bỏ lại đứa trẻ sơ sinh vừa lọt lòng, rời khỏi thành phố nhỏ, rời bỏ chồng con, một đi không trở về, vậy mà trong đám tang lại lên tiếng chỉ trích người khác là hung thủ giết chết chồng mình. Đó không gọi là điên thì là gì?
Nếu không phải vì bác rể ích kỷ và người thím chua ngoa, đáo để, có lẽ Đệ Đệ sẽ không đi theo mẹ Thư Nhất Mi. Cậu nhớ là, sau tang lễ, một người phụ nữ mập mạp được gọi là “cục trưởng” đã cúi người hỏi cậu: “Cháu muốn sống với ai?”
Cậu lo lắng và nhút nhát, không biết phải trả lời câu hỏi ra sao. Người thân, bạn bè đều đứng ngoài cửa, bỏ lại cậu một mình cô đơn đối diện với bà “cục trưởng” dù thân thiện nhưng vẫn khiến cậu hơi run. Cậu nhìn trái rồi lại nhìn phải, ánh mắt hốt hoảng, tim đập nhanh như đi bắt thỏ. Cậu nghĩ đến bà nội đã bị chuẩn đoán mắc bệnh Alzheimer. Nếu bà nội vẫn tinh tường như trước, cậu sẽ không chút do dự mà chọn ngay chốn đi về của mình, chứ đâu phải đứng trước sự bức ép như thế này. Bây giờ cậu phải làm gì? So với mấy con bọ ngoài mộ, trước mặt cậu chẳng phải cũng là một bức tường cao hay sao? Hoàn cảnh của cậu cũng chẳng khá hơn lũ bọ là bao, thậm chí còn không bằng một con bọ, không đủ khả năng sinh tồn nên càng hoảng hốt và bất an vì không nơi nương tựa.
Hương bưởi ngọt mát từ bên ngoài lớp cửa sổ bằng kính uốn mình chui vào, cứ như có gì đó từ trên trời rơi xuống trúng đầu Đệ Đệ. Tim cậu đập thình thịch, miệng lẩm bẩm thốt lên một từ: Mẹ.
Không sai, cậu đã gọi mẹ.
Người mẹ trước nay chưa gặp mặt bao giờ, người mẹ luôn tỏa ra mùi hương bưởi ngọt mát, người mẹ bị coi là mắc bệnh tâm thần nên mới bị mọi người giữ chặt đến ngất xỉu trong tang lễ, người mẹ có năng lực chăm sóc tốt cậu con trai, chỉ không biết cô có chịu chăm sóc cậu hay không, mẹ, mẹ, mẹ…
Sau khi thốt ra từ nồng ấm ấy, Đệ Đệ cảm thấy sợ chính bản thân mình. Cậu nhốt mình trong phòng, ngồi đờ đẫn trên ghế, lờ mờ lắng nghe tiếng nói chuyện của bà cục trưởng với mọi người bên ngoài cửa. Hai bàn tay nắm lấy nhau, mười ngón tay đan vào nhau, gắn với nhau thật chặt. Nếu như không phải vì xương tay mềm, suýt chút nữa cậu đã bẻ gãy chúng.
Cuối cùng, khi cậu mơ màng sắp chìm vào giấc ngủ, cánh cửa bị mẹ Thư Nhất Mi khẽ khàng đẩy ra. Mẹ mặc chiếc áo măng tô màu vàng nhạt, đi đôi giày màu cà phê đế mềm, mang theo mùi hương bưởi ngọt mát không dứt cùng vẻ mặt không mấy cảm xúc, tiến lại gần, đứng trước mặt Đệ Đệ, nói ngắn gọn hai tiếng: “Đi thôi.”
Trước khi đưa con trai đi, Thư Nhất Mi đã đến trường tiểu học trên đường Hải Lăng để làm thủ tục chuyển trường phức tạp cho cậu. Nhân tiện, cô tìm gặp giáo viên chủ nhiệm của Đệ Đệ, một cô giáo trẻ có dáng người mập mạp với chiếc cặp tóc hình con bướm màu xanh dương nhàn nhạt cài trên tóc.
Có một chút cố ý tỏ vẻ nghiêm trọng, cô giáo tay chống cằm, vắt óc suy nghĩ hồi lâu vẫn chẳng thể tổng kết ra bất cứ một ưu nhược điểm nào của Đệ Đệ.
“Cậu bé này không thu hút sự chú ý của người khác.” Cô mỉm cười gượng gạo và nói, nhằm biện minh cho sự thiếu quan tâm, thậm chí là coi thường đứa trẻ này.
Trong mắt giáo viên, mọi thứ ở Triệu An Định rất bình thường: thành tích bình thường, biểu hiện bình thường, thậm chí ngay cả chiều cao và vẻ ngoài cũng bình thường. Nếu cậu có một mặt nào đó nổi bật hơn người khác thì đã tốt, ví như mắt hơi nhỏ một chút, mũi hơi to một chút, răng khấp khểnh một chút, như thế sẽ dễ khiến người khác nhớ. Nhưng Triệu An Địch thật sự không có. Một cậu bé trắng trẻo, sạch sẽ, mười tuổi, học lớp bốn, yên lặng như một chiếc ghế trong phòng học, việc tốt chẳng có mặt cậu, việc xấu càng không có khả năng đến lượt cậu. Cậu từng được chọn vào đội tuyển biểu diễn thể dục nhịp điệu tập thể, nhưng tập thể có sự tồn tại của cậu lại trở nên u uất kém vui, tinh thần tập thể “không tài nào bay lên”, đạo diễn đành phải loại cậu khỏi đội hình, thế chân là một học sinh đầu tuy hơi to nhưng hoạt bát.
Cô tỏ vẻ nuối tiếc, nói với Thư Nhất Mi, đó là một cơ hội, bởi buổi biểu diễn thể dục nhịp điệu tập thể được lên ti vi, một việc đâu dễ dàng gì.
Câu chuyện bắt đầu từ bài thể tập thể dục nhịp điệu, cô giáo chủ nhiệm bỗng nhớ ra hình như Triệu An Địch có một biệt danh ở trường, một biệt danh không hay lắm, là gì ấy nhỉ, à, đúng rồi, “chuột chuyển nhà”!
“Đúng rồi, đúng rồi, chính là biệt danh này, ‘chuột chuyển nhà’”. Nhớ lại cái tên kỳ quái này, cô có chút hưng phấn. Dù gì cô cũng có nội dung để trao đổi, bàn giao cho mẹ học sinh.
Tại sao lại gọi là “chuột chuyển nhà”? Bởi vì Triệu An Địch thích nhặt đủ thứ lung tung về nhét vào ngăn bàn. Nào là chai lọ, nào kẹp tài liệu, nào thẻ điện thoại, nào tờ rơi quảng cáo, nào bút bi, bút ký tên dùng chưa hết… Một lần, cậu còn nhặt cả chiếc máy tính xách tay người ta vứt đi, nhưng không nhét được vào ngăn bàn nên đã để ra “góc sinh vật” trong lớp, chẳng may gặp đúng thầy hiệu phó đi kiểm tra vệ sinh, trừ luôn một lá cờ thi đua trong tuần của lớp. Chính vì tật xấu không tài nào giải thích nổi này của Triệu An Địch, gần như ngày nào cũng có người mách với giáo viên chủ nhiệm là ngăn bàn của cậu quá bẩn, ảnh hưởng mỹ quan cả lớp. Giáo viên chủ nhiệm cũng đã nói chuyện riêng với cậu hai lần, cậu hứa sẽ sửa nhưng đâu vẫn hoàn đấy.
“Là thói quen, sở thích, một chứng bệnh khó chữa. Y học đại khái gọi là chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế thì phải?” Nữ giáo viên trẻ nghiêng nghiêng đầu, thận trọng dò xét Thư Nhất Mi, sợ rằng thuật ngữ y học nghe rất nặng nề này sẽ khiến người mẹ hoảng hốt. Dù sao thì cũng chẳng ai muốn có một đứa con kỳ cục.
Thư Nhất Mi mỉm cười, lịch sự bắt tay cô giáo và nói lời tạm biệt. Đối với những vấn đề của con, cô không vội vàng phủ định, thậm chí ngay cả một chút kinh ngạc, bất an cũng không có.
Sau khi Thư Nhất Mi đi rồi, cô giáo thở dài nhẹ nhõm, đưa tay lên sờ chiếc cặp hình con bướm trên tóc, nói với đồng nghiệp trong văn phòng: “Tôi nói chuyện với chị ấy một lúc mà toát hết cả mồ hôi. Hình như chị ấy chẳng mấy quan tâm đến con trai mình nhỉ?” Một lát sau, cô lại suy ngẫm rồi lẩm nhẩm: “Nhưng chị ấy là người rất có phong cách, giọng nói và ngữ điệu cũng rất đặc biệt, rốt cuộc chị ấy làm nghề gì?”
Chẳng ai có thể trả lời câu hỏi của cô. Mẹ của Triệu An Địch là người khách bất ngờ, chưa từng đến trường. Lần đầu tiên đến đây là để chuyển trường ngay cho con.
Nhưng thế giới ngày nay có thiếu gì việc lạ đâu? Không lâu sau cuộc nói chuyện này, cô giáo đã quên luôn một học sinh tên là Triệu An Địch cũng như vị phụ huynh tên là Thư Nhất Mi.
Còn phải bổ sung một chuyện. Trên chuyến tàu theo mẹ Thư Nhất Mi về nhà, Đệ Đệ đã theo dõi chăm chú, không rời mắt một hồi rất lâu khi người phụ nữ nông thôn cho con cô ấy bú. Một bên bầu vú lộ ra ngoài căng tròn như một ngọn núi nhỏ, dòng sữa ùa về ào ạt như núi lửa phun, đứa trẻ mới ra đời chẳng thể nuốt kịp, sặc, ho liên tục. Người phụ nữ đành phải dịch chuyển đôi môi của đứa trẻ ra chỗ khác, kéo cửa sổ lên, vắt bớt sữa thừa ra ngoài đường sắt. Cô ấy dùng ngón trỏ và ngón giữa kẹp lấy đầu ti màu nâu nhỏ như quả óc chó, hai ngón tay nhẹ nhàng ấn một cái, dòng chất lỏng màu trắng giống như được bắn ra từ nơi có áp suất cao, bị từ trường hút chụt một tiếng, phun mạnh ra ngoài cửa sổ, tạo thành một đường màu trắng rõ rệt giống như chiếc roi thừng thô. Tiếp đó, mùi sữa mẹ thơm thơm nhưng ngai ngái lan tỏa khắp toa tàu, nồng đượm như thể nhân viên đưa sữa sáng sớm làm đổ thùng sữa ngay đầu cổng khu dân cư vậy.
Người phụ nữ ngoái đầu nhìn, thấy Đệ Đệ đang nhìn chằm chằm vào bầu sữa của mình, không khỏi ngượng ngùng, nhưng cũng không quá để tâm, chỉ nở một nụ cười thân thiện với Đệ Đệ rồi vội nhét đầu ti vào miệng đứa trẻ.
Đệ Đệ tập trung suy nghĩ, nếu phải viết một bài văn về quá trình người mẹ cho con bú ra sao thì nên miêu tả bầu sữa mẹ như thế nào. Căng như này, lại trắng như này, phải so sánh với cái gì đây?
Trong một bài tập làm văn, Lý Tiểu Vĩ, bạn cùng bàn của cậu đã miêu tả đôi môi của Trình Hồng Diệp, bạn nữ xinh nhất lớp. Lý Tiểu Vĩ viết: “Khi tức giận, Trình Hồng Diệp bĩu môi lên, lúc này đôi môi không còn nữa mà biến thành một quả dâu tây chín đỏ mọng.” Cô giáo dạy văn gạch một đường đỏ dài dưới câu văn này và hạ bút phê mấy chữ bên cạnh: So sánh không hợp lý, ý thức giới tính quá mạnh.
Các bạn trong lớp chuyền tay nhau bài văn của Lý Tiểu Vĩ. Mọi người đều hiểu lờ mờ ý nghĩa lời phê của cô giáo nhưng lại chẳng thể giải thích rõ ràng. Biết nhưng không thể nói rõ, đây chính là điểm hưng phấn.
Đệ Đệ mắm chặt môi dưới một cách vô thức. Cậu không còn nhớ lúc mình bé hay lúc mình là một đứa trẻ sơ sinh, có phải mẹ cũng từng cho cậu bú như thế không.
Mẹ Thư Nhất Mi vùi đầu đọc cuốn tạp chí “Độc giả văn trích.” Cô không hề biết Đệ Đệ đang nghĩ gì lúc này. Kể từ sau khi lên tàu, cô cứ mải đọc sách một mình, đọc một cách chăm chú và tập trung, hoàn toàn quên rằng bên cạnh còn có một cậu con trai mười tuổi.
Đối với Thư Nhất Mi, việc phải thích nghi với cuộc sống hai người cũng xa xôi và gian nan như thể phải đi từ Trái Đất sang Mặt Trăng vậy.