TUYỆT MẬT - CHỈ ĐƯỢC ĐỌC (TOP SECRET – READ ONLY)
Ngày 9 tháng 3 năm 1961 ------, một nhân viên CIA lúc đó đang làm nhiệm vụ ở Trạm Mexico City đã gặp Rolando Cubela tại Mexico City để thăm dò quan điểm của Cubela về tình hình ở Cuba. Cubela đang đi dự Hội nghị châu Mỹ La Tinh, do cánh tả bảo trợ, về Chủ Quyền Quốc Gia, Giải Phóng và Hòa Bình tổ chức tại Thành phố Mexico từ ngày 5 đến ngày 8 tháng 3. Cubela đã tỏ ra thờ ơ. Cuộc gặp đã được ------ (AMW- HIP-1), một người bạn lâu năm của Cubela sắp xếp. Cubela đã tình cờ quen ------ từ Havana, nơi ------ có lần đã công tác ở đó và cũng là nơi một cuộc gặp mặt tương tự đã được thu xếp nhưng thất bại.
(Bình luận: Rolando CUBELA Secades là lãnh đạo cao cấp, đứng thứ hai trong Hội đồng Cách mạng (DR) ngày 13 tháng Ba, một tổ chức ưu tú của các sinh viên cách tả được thành lập năm 1956 để dùng bạo lực lật đổ chế độ Batists. Cubela được tin là một trong những người tham gia ám sát Trung Tá Antonio BLANCO Rico, bấy giờ là người đứng đầu sở tình báo quân sự của nhà độc tài Batista. Những thành viên của nhóm DR tự coi mình hoàn toàn khác với Phong trào 26 tháng 7 ủng hộ Fidel cho dù họ đã miễn cưỡng đặt bút ký kết hiệp ước thống nhất. Những ngày cuối của cuộc cách mạng, tổ chức DR chiếm giữ Dinh Tổng Thống, và mặc dù đã từ chối nhượng lại cho Che Guevara nhưng cuối cùng (và miễn cưỡng) chuyển giao cho Fidel Castro. Cubela là một thiếu tá trong quân đội Cuba, cấp bậc cao nhất của quân đội Cuba.)
(Báo cáo Tình báo của CS tháng 5/1959 cho biết rằng: “Trước khi được bổ nhiệm làm Tùy viên Quân sự Cuba tại Tây Ban Nha và trước chuyến khởi hành sau đó đến Madrid ngày 27 tháng 3 năm 1959, Rolando Cubela đã thẳng thắn nói với Fidel Castro rằng ông ta không hài lòng về tình hình hiện nay ở Cuba. Cubela...nói riêng với những người thân thích rằng ông ta căm ghét Fidel, rằng nếu ông, Cubela, không ra khỏi nước sớm thì có ngày ông sẽ giết chết Fidel.
(Mặc dù cuộc hội chiến vào tháng 3 năm 1961 giữa ------ và Cubela ở Mexico City không thu lượm kết quả gì, song từ đó đã dẫn đến các cuộc họp khác khơi mào cho sự ra đời Kế hoạch AMLASH. Cubela (AMLASH-1) luôn miệng nhấn mạnh rằng bước đầu tiến tối cần thiết để lật đổ chế độ này là phải trừ khử chính Fidel, điều mà Cubela tuyên bố là ông được chuẩn bị để làm việc này. Ông ta cũng thường xuyên yêu cầu chúng ta phải cung cấp cho ông ta những trong thiết bị hoặc dụng cụ đặc biệt cần cho công việc đó. Những người trực tiếp liên quan đến việc điều hành chiến dịch giờ đây nhớ lại rằng đó là điều mà Cục Tình Báo quan tâm nhất để duy trì sự tích cực của Cubela trong kế hoạch ------ chống lại các nhà lãnh đạo quân sự Cuba, trong lúc vẫn chống lại những lời kêu nài trợ giúp kỹ thuật cho âm mưu ám sát của ông ta. Tập hồ sơ đồ sộ về kế hoạch và thông tin được ------, sĩ quan phụ trách của Cubela, cung cấp cho chúng tôi lại không đúng hẳn với những ký ức nói trên. Cục Tình Báo đã trực tiếp và gián tiếp hỗ trợ cho âm mưu của Cubela.)
Ngày 28 tháng 3 năm 1961
Một gián điệp của Trạm Miami ghi rằng Rolando Cubela và Juan Orta muốn đào phản và muốn được giúp đỡ để trốn đi. (Juan Orta là một “tay trong ở Cuba” của bọn găngstơ, người sẽ tiếp cận Fidel trong chiến dịch thuốc độc mà chúng tôi đặt tên là Nghiệp Ðoàn Cờ Bạc – Giai Ðoạn một). CIA tỏ ra quan tâm đến vụ đào thoát của Orta và Cubela. Âm mưu này bị hủy bỏ vì cảnh sát Cuba đã hay biết ý định đào ngũ của Cubela và cả kế hoạch ra đi của ông ta.
(Bình luận: Đây là một trong ba đầu mối có danh tánh mà chúng tôi tìm thấy trong hồ sơ AMLASH giữa Rolando Cubela và những người có dính líu đến các giai đoạn của chiến dịch nghiệp đoàn cờ bạc. Hai đầu mối khác thậm chí còn mù mờ hơn nữa. Nếu Cubela thực sự là một trong những “tay trong ở Cuba” của bọn găngstơ thì các nhân viên CIA đang điều hành chiến dịch liên quan đến bọn găngstơ lẫn những người đang sử dụng Cubela đều không hay biết.)
Ngày 14 tháng 8 năm 1961
------ báo cáo rằng Rolando Cubela có kế hoạch dự Liên hoan Văn hóa của Liên Ðoàn Sinh Viên Quốc Gia Pháp vào cuối tháng 8. Cubela đã gởi điện văn cho ------ nói rằng ông ta muốn nói chuyện với “một người bạn của ------” ở Paris nếu được. Bức điện được đoán là đã chuyển qua người bạn gái của Cubela, một nữ tiếp viên hàng không. [Kiểm duyệt] được phép tới gặp Cubela nhưng trong hồ sơ không có dấu hiệu nào chứng tỏ đã có cuộc gặp đó.
Ngày 15 tháng 6 năm 1962
Trạm JMWAVE đã gởi một bức điện nói rằng ------, một gián điệp của trạm, được ------ báo tin là Cubela đã rời Cuba để đến Helsinkin ngày 10 tháng 6 năm 1962. Ông ta đáp chuyến bay của Hãng Hàng không Tiệp Khắc, theo ngõ Prague, đến Helsinki để dự Liên Hoan Thanh Niên Thế Giới. Cha mẹ của ------ đã đến Miami ngày 9 tháng 6 và trong số người tiễn chân ông bà này ở sân bay Cuba, người ta nhìn thấy sự có mặt của Cubela. Mẹ của ------ nói với ------ rằng Cubela muốn đào phản và đến Mỹ. Cubela nói là khi từ Helsinki trở về, ông sẽ quá cảnh ở Paris để mong gặp một người bạn cũ, ------.
Ngày 27 tháng 6 năm 1962
FBI đã chuyển đến cho CIA bản báo cáo về cuộc họp với một mật báo viên của FBI tại Miami ngày 11 tháng 6. Người này báo rằng Cubela sẽ dự Liên Hoan Thanh Niên ở Helsinki vào tháng 7 và 8 năm 1962 và muốn đào phản. Trong một biên bản chi tiết được gởi đi, FBI nêu danh tánh mật báo viên này là ------, người mà FBI biết từ lâu đã có liên hệ với CIA. ------ đề nghị hợp tác với FBI trong việc giúp Cubela đào phản. Người này nói với FBI về cuộc họp của ------ với Cubela ở Mexico City vào tháng 3 năm 1961. Trong một tài liệu gởi đến chúng tôi, FBI cho biết rằng họ đã nói với ------ rằng đề nghị của ông ta sẽ được chuyển đến cơ quan Mỹ có thẩm quyền phù hợp. FBI cũng cho biết họ sẽ thông báo với đại diện của mình ở Paris để chuyển cho CIA nếu ------ muốn tiếp xúc với Tùy viên Pháp luật ở Paris
Ngày 8 tháng 7 năm 1962
Trạm JMWAVE đã báo cáo nội dung cuộc điện đàm giữa Tepedino và một nhân viên của trạm, qua sự dàn xếp của ------ Tepedino nói rõ gốc tích nguồn tin của ông về việc Cubela muốn đào phản như Echavarrias, là người mà trạm JMWAVE đã nhận báo cáo. Tepedino nói ông đã tìm đến FBI ở Miami vì bất mãn cách CIA xử lý “cuộc đào phản có dự tính” của Cubela ở Paris vào tháng 8 năm 1961. ------ đồng ý gặp người của CIA và việc thu xếp cho cuộc họp đã được thực hiện.
Ngày 13 và 14 tháng 7 năm 1962
------, người của tổng hành dinh, đã gặp ------ tại New York ngày 13 và 14 tháng 7 năm 1962. ------ đồng ý gặp ------ ở Helsinki, và đi bất cứ nơi đâu khác cần thiết, để giúp trong âm mưu đào phản của Cubela. ------, một ------ người Cuba lưu vong thành công ở New York City, từ chối lời đề nghị thanh toán toàn bộ phí tổn mà người này bỏ ra. Ông chỉ nhận bồi hoàn tiền vé máy bay và chi phí khách sạn. Không có lời đề nghị trả lương hay tiền thưởng được đưa ra cho ông ấy.
Ngày 30 tháng 7 và 6 tháng 8 năm 1962
------ đến Helsinki vào ngày 30 tháng 7. ------ thì đã có mặt ở đó rồi. Cubela được tìm thấy, và buổi họp đầu tiên trong một loạt các cuộc họp với ông ấy được tổ chức vào ngày 1 tháng 8 ở Helsinki. Mưu đồ đào phản của Cubela đã nhanh chóng chuyển thành việc tuyển dụng ông ta tại chỗ. Ðây là những trích đoạn từ báo cáo cuộc họp của ------ với Cubela:
Ông ta bảo rằng đã cân nhắc việc không trở lại Cuba nữa. Tuy nhiên, sau khi nói chuyện với ------, ông ta cảm thấy rằng nếu có thể làm điều gì thực sự có ý nghĩa trong việc lập ra một nước Cuba mới thì ông ta muốn trở về để tiến hành cuộc chiến đó.
Cubela bảo không muốn hy sinh mạng sống cho những việc nhỏ nhưng nếu được giao những trọng trách lớn thì ông cùng một số người khác tin cẩn ở Cuba sẽ sẵn sàng liều mình.
Ông ta nói ông ta có kế hoạch làm nổ nhà máy lọc dầu vì ông cảm thấy là các sinh hoạt diễn ra có vẻ như bình thường ở Cuba tùy thuộc vào nguồn cung cấp dầu liên tục, những nguồn cung cấp, mà theo như chúng ta biết, hiện nay đang ở trong giai đoạn nghiêm trọng.
Cubela cũng muốn lên kế hoạch mưu sát Carlos Rodríguez (một cộng sự hàng đầu của Fidel), ông đại sứ Xô Viết và diệt luôn Fidel nếu cần thiết.
Vì chúng tôi không có kế hoạch hay cam kết gì cả, chúng tôi nới với Cubela bằng những kế hoạch ông ta dự tính chắc chắn sẽ cần đến, nhưng phải tốn nhiều công sức phối hợp, hoạch định và thu thập thông tin...thì mới thành công nổi.
Cubela nhắc đi nhắc lại trong nhiều buổi họp rằng ông ta nghỉ thích tham gia vào những kế hoạch có ý nghĩa, và là kế hoạch muốn giúp Cuba của ông.
Từ ngày 7 đến ngày 9 tháng 8
Vì không thể bảo đảm sự an toàn cho quá nhiều cuộc họp ở Helsinki, nơi mà Cubela luôn có những người tháp tùng trong phái đoàn Cuba vây quanh, một thỏa thuận được đưa ra là các cuộc họp thêm nữa sẽ tổ chức ở Stockholm và Copenha- gen. Cubela đồng ý gặp một nhân viên CIA đặc trách biết tiếng Tây Ban Nha tại Paris vào cuối tháng. Những cuộc họp ở Stockholm từ ngày 7 đến ngày 9 tháng 8 cũng không có gì quan trọng, ngoại trừ việc Cubela tiết lộ rằng ông ta đã nói với 4 cộng sự của ông về các cuộc họp với ------ ở Helsinki.
Ngày 10 và 11 tháng 8 năm 1962
------, ------ và Cubela đã họp thêm với nhau tại Copenhagen. ------ viết trong báo cáo của mình về cuộc tiếp xúc này như sau:
“... có một lúc khi chúng tôi (------ luôn biết về mình là chúng tôi) đã thảo luận về những khía cạnh khác nhau về vai trò trong tương lai của Cubela ở Cubela, chúng tôi dùng từ “ám sát.”
Việc sử dụng từ này, chúng tôi sau này biết được qua ------ và chính Cubela, đã bị Cubela phản đối dữ dội, và ông ta tức giận thấy rõ. Không phải ông ta phản đối hành động này mà chỉ vì do cách chọn từ để mô tả hành động. ‘Loại trừ thì có thể chấp nhận’.”
(Bình luận: Cũng đáng nêu ra ở đây là ------, một ------ người Cuba ở New York, luôn có mặt trong suốt các buổi họp có bàn đến việc ám sát Fidel giữa Cubela và ------, người mà ------ biết là nhân viên CIA.)
Ngày 14 đến 23 tháng 8 năm 1962
Cubela, ------ và ------ đã gặp nhau ở Paris, có sự tham sự của ------, nhân viên đặc trách của CIA nói tiếng Tây Ban Nha. Cubela được huấn luyện về S/W và được cấp phát các trang thiết bị S/W thích hợp. Ngày 20 tháng 8 ông ta được đưa đến miền nam nước Pháp để chứng kiến hiệu quả của việc phá hủy. ------ dự tính dùng máy phát hiện nói dối với Cubela và yêu cầu gửi một chuyên viên máy này đến Paris. Cubela giận từ chối thử máy phát hiện nói dối. Trong bức điện ngày 17 tháng 8 ------ viết:
“Không có ý định giao cho Cubela nhiệm vụ trừ khử như là một yêu cầu bắt buộc nhưng thừa nhận là ông ta có thể tìm cách tiến hành theo sáng kiến riêng của ông ấy.”
Tổng hành dinh CIA trả lời trong bức điện ngày 18 tháng 8: “Tán đồng mạnh mẽ ý kiến không giao các nhiệm vụ trừ khử cá nhân cho Cubela.”
Ngày 29 tháng 8 năm 1962
Cubela rời Prague bằng máy bay để máy bay để đi Havana.
Ngày 5 – 8 tháng 9 năm 1963
Cubela dự cuộc thi thể thao của sinh viên (Collegiate Games) ở Porto Alegre, Brazil, với tư cách là đại diện chính phủ Cuba. Tại đây, ông ta đã được gặp ------ và ------. Cùng tham dự có ------ một nhân viên đặc trách của CIA nói tiếng Tây Ban Nha, người mà sau này trở thành nhân viên đặc trách của Cubela.
Cubela xác nhân ông đã viết hai điện văn S/W. (Chỉ nhận được một bức.) Ông ta nói đã miễn cưỡng sử dụng S/W vì sợ khả năng kiểm duyệt bưu điện của Cuba.
Cubela đã thảo luận về một nhóm sĩ quan quân đội Cuba quen biết với ông, và cách thức có thể dùng để tiếp cận với họ. Ông ta giải thích mặc dù nhiều người trong số họ chống Cộng, họ vẫn trung thành với Fidel hoặc quá sợ ông đến nỗi không dám bàn đến các âm mưu. Cubela nói rằng ông nghĩ đến ------ (AMTRUNK - ------), người đang giấu ------ ------. ------ được CIA phái đến Cuba để tuyển ------ cho địa bàn ở đó, và đã làm như vậy. Cubela nói là ông có kế hoạch dùng ------ nhưng lo về “tình trạng nóng vội” của ------ và việc ông ta nghiện rượu nặng. Cubela được nói là hãy giúp ------ trong các nhiệm vụ tình báo ------, nhưng đừng giúp ------ rời khỏi Cuba – theo như đề nghị của Cubela.
Ngày 14 tháng 9 năm 1963
Cubela bay từ Porto Alegre (Brazil) đến Paris ngày 14 tháng 9. Bề ngoài ông ta đến đó là để dự hội nghị “Liên minh Pháp” (Alliance Francaise) nhưng sự thật là đi nghỉ mát – ông dự tính là sẽ báo lại cho Fidel việc này sau kỳ nghỉ này.
Ngày 16 tháng 9 năm 1963
Tại Paris, Cubela viết cho ------ (ở New York): “Tôi không định gặp (được phỏng vấn bởi) bạn anh nữa,” anh nên bảo họ như vậy, “để họ đừng đến nữa. Tôi muốn lánh xa hoàn toàn chuyện chính trị.”
Ngày 3 tháng 10 năm 1963
------ đến Paris để họp với Cubela. (Hồ sơ lưu không cho biết tại sao ------ lại đến Paris khi Cubela đã nói là không muốn gặp mặt ông ta. Có thể bức thư trên đã được viết trong lúc Cubela đang xuống tinh thần. ------ đã tiếp xúc với Cubela trước khi ------ dến). Cũng có mặt trong buổi họp này là ------ và ------ ------.
Ngày 11 tháng 10 năm 1963
XXXXX đánh điện nói rằng Cubela khăng khăng đòi gặp một quan chức cao cấp Mỹ, đặc biệt là Robert F. Kennedy để bảo đảm việc Mỹ hỗ trợ tinh thần đối với các hoạt động của ông ta tại Cuba. ------ nói rằng câu trả lời mà Cubela nhận được có lẽ đó là điểm mốc rất quan trọng trong quan hệ của CIA với Cubela. ------ khuyên rằng “nên có sự cân nhắc sâu sắc và cao độ khi cảm xúc rút ra được từ những người đã tiếp xúc với Cubela là ông ta kiến quyết âm mưu hành động chống lại Fidel cho dù Mỹ có ủng hộ hay không.”
Ngày 13 tháng 10 năm 1963
------ gửi điện nói: “------ ETA LOND 13 tháng 10. Thay đổi chưa quyết định sau cuộc gặp ------ ngày 16 tháng 10 dự trù trả về cho Tổng hành dinh sau khi LOND ngưng lại để thảo luận chi tiết chiến dịch trước khi bước vào vòng thảo luận cuối cùng với AMLASH.”
Ngày 17 tháng 10 năm 1963
------ đánh điện thông báo các kết quả của phiên họp với Cubela và ------ ------. Cubela, trong cuộc nói chuyện riêng với ------, đã lặp lại mong muốn được nói chuyện với một quan chức cấp cao của chính phủ Mỹ. ------ nói về căn bản Cubela muốn bảo đảm rằng chính phủ Mỹ sẽ yểm trợ ông ta nếu kế hoạch của ông ta thành công.
Ngày 29 tháng 10 năm 1963
Desmond FitzGerald, lúc đó chỉ huy trưởng SAS, sắp đến Paris vì chuyện khác, đã sắp xếp gặp Cubela để xác nhận những bảo đảm theo như ông ta muốn. Biên bản cuộc hội kiến có trong hồ sơ của AMLASH ghi:
FitzGerald sẽ tự giới thiệu ông là đại diện cá nhân của Robert F. Kennedy đến Paris với mục đích cụ thể là gặp Cubela và đưa ra lời bảo đảm rằng Mỹ sẽ hậu thuẫn đầy đủ nếu có sự thay đổi chính phủ hiện hữu ở Cuba.
Theo FitzGerald, ông ta đã thảo luận về cuộc gặp đã định với DD/P (Helms), người đã quyết định không cần thiết phải có sự chấp thuận của Robert Kennedy để FitzGerald làm đại diện cho ông.
Cuộc gặp diễn ra ở Paris trong nhà của ------ vào ngày 29 tháng 10 năm 1963. FitzGerald dùng tên giả là ------ ------ ------ và có vai trò nha thông dịch viên. ------ không có mặt trong buổi họp này. Ngày 13 tháng 1 năm 1963 ------ viết biên bản ghi nhớ về cuộc họp này như sau:
FitzGerald thông báo với Cubela rằng Mỹ sẵn sàng trợ giúp mọi thứ cần thiết cho tổ chức Cuba chống cộng nào thành công trong việc vô hiệu hóa ban lãnh đạo hiện thời của Cuba và đủ quyền hành để mời Mỹ cung cấp sự trợ giúp đã được chuẩn bị sẵn. Cần nhấn mạnh sự yểm trợ nói trên sẽ chỉ tiến hành sau khi đã thật sự lậy đổ chính quyền Cuba và tổ chức chống cộng đó có thẩm quyền yêu cầu Mỹ (có lẽ dưới sự bảo trợ của tổ chức OAS) công nhận và yểm trợ. Cần nói rõ là Mỹ không hứa hẹn yểm trợ một cuộc nổi dậy đơn độc nào vì một cuộc nổi dậy như thế sẽ bị dặp tắt trong vài giờ nếu chính phủ hiện hữu vẫn còn kiểm soát Havana. Sau khi lật đổ, Mỹ không muốn đồng hồ chính trị chạy lùi trở lại nhưng sẽ hậu thuẫn cho các cải cách kinh tế và chính trị cần thiết nào mang lại lợi ích cho đại đa số nhân dân Cuba.
(Bình luận: Những người có liên quan giờ đây nhớ lại rằng mục đích của buổi họp này hơi khác với những gì được ghi chép lại trong hồ sơ được chuẩn bị vào lúc có cuộc họp. FitzGerald nhớ là Cubela luôn nhắc đi nhắc lại sự cần thiết phải có vũ khí ám sát. ặc biệt, ông ta muốn một súng trường mạnh có ống ngắm hoặc là thứ vũ khí nào đó có thể giết chế Fidel từ xa. FitzGerald không đồng ý một kế hoạch như thế và bảo ------ với nói Cubela rằng M tuyệt đối không thực hiện những điều này. Khi nghe nói lại như vậy, Cubela nói ông ta muốn có sự xác nhận từ một quan chức M cao cấp, chứ không phải từ người của CIA. FitzGerald bảo khi gặp Cubela ở Paris, ông ta đã nói với Cubela rằng chính phủ M không tham dự vào việc mưu sát Fidel. Sam Helpern tuy không có mặt tại cuộc họp giữa FitzGerald và Cubela, nhưng rất tường tận những việc đã xảy ra, cũng nhớ lại y như FitzGerald.)
Rất có thể là như vậy, song theo văn bản lưu trữ thì câu chuyện hơi khác. Trong biên bản của ------ về cuộc gặp với Cubela có đoạn:
Không hề có bàn bạc về bản chất chiến dịch trong cuộc họp của FitzGerald. Sau cuộc họp, Cubela đã tuyên bố rằng ông ta rất hài lòng với cuộc thảo luận về chính sách, nhưng bây giờ ông ta lại muốn biết chúng ta có thể hỗ trợ kỹ thuật gì cho ông ta.
Ngày 14 tháng 11 năm 1963
------ gặp ------ tại New York ngày 14 tháng 11. Hồ sơ về cuộc gặp của ------ đã tiết lộ phản ứng của Cubela (như được kể với ------) trong cuộc họp với FitzGerald.
Cuộc họp với FitzGerald, với tư cách là người đại diện của các quan chức cao cấp trong chính phủ, về vấn đề Cuba đã khiến Cubela hãi lòng về phương diện chính sách, nhưng ông ta không vui chút nào vì vẫn không được hỗ trợ kỹ thuật cho kế hoạch theo đúng như ý ông muốn. ------ nói rằng Cubela cứ xoáy vào điểm này. Ông ta không thể hiểu tại sao lại bị từ chối vài thứ thiết bị cỏn con rất cần để giải quyết vấn đề, trong khi, mặt khác chính phủ Mỹ đã viện trợ nhiều dụng cụ và tiền bạc cho những nhóm lưu vong hoạt động không hiệu quả ở các mục tiêu duyên hải của Cuba. Theo ------ , Cubela cảm xúc rất mạnh về điểm này, và nếu ông ta không nhận được sự cố vấn và thiết bị từ một kỹ thuật viên của chính phủ Mỹ, ông ta có lẽ sẽ lại phát ngấy lên, và công sức chúng ta bấy lâu nay sẽ thành công cốc.
Ngày 19 tháng 11 năm 1963
Một biên bản trong hồ sơ này của ------ ghi: “C/SAS (FitzGerald) chấp thuận cho Cubela biết rằng ông ta sẽ được cung cấp một địa điểm cất giấu bí mật trên lãnh thổ Cuba. Ðịa điểm này có thể, nếu ông ta yêu cầu, gồm cả súng trường cực mạnh với ống ngắm...C/SAS yêu cầu các báo cáo viết tay về chiến dịch AMLASH phải được duy trì ở mức tối thiểu.
Ngày 20 tháng 11 năm 1963
Cho đến lúc này, những giải trình về dự án Cubela này đã được căn cứ hoàn toàn trên các tài liệu được tìm thấy trong hồ sơ về kế hoạch. Bất đầu từ đây là sự giải trình một giai đoạn trong chiến dịch Cubela mà không có chứng liệu nào đề cặp đến. Bác sĩ Gunn có ghi lại 9 lần tiếp xúc và cả các ngày tháng gặp; mặt khác, bản tổng kết này được rút ra từ những ký ức của những người có liên quan.
------ nói rằng, trong khi Cubela lo lắng đến chuyện trừ khử Fidel, ông ta lại không muốn lấy mạng sống của mình để đổi lấy mạng Fidel. Ðiều Cubela thực sự muốn là một khẩu súng trường hãm thanh cực mạnh, có tầm bắn hiệu quả khoảng hàng trăm, hàng ngàn thước Anh. Cuối cùng, Cubela nói, như là một bác sĩ (đây là nghề nghiệp của ông ta), ông ta khá chắc chắn là chúng ta có thể sáng chế một vài phương tiện kỹ thuật để làm việc đó mà không tự làm cho ông phải thiệt mạng khi thử nó.
Samuel Halpern và ------ đã tìm đến bác sĩ Gunn để nhờ giúp đỡ. Mặc dù không ai đề cặp rõ, nhưng tất cả ngầm hiểu là họ đang tìm kiếm loại phương tiện ám sát mà Cubela đã mong là ông có thể tự sáng chế ra. Họ định dùng loại Lá Ðen 40, một loại thuốc diệt côn trùng thông dụng và dễ tìm, chứa khoảng 40% chất nicotine sulfate. Nicotine là loại chất độc gây chết người có thể đưa vào cơ thể qua đường miệng, bằng cách tiêm hay ngấm qua da. Có thể cũng đã có nhiều cuộc thảo luận về các dụng cụ độc, vì Gunn đã sẵn sàng xúc tiến khi được yêu cầu.
Kế hoạch đã đến giai đoạn thực thi khi Halpern và ------ gặp lại Gunn vào ngày 20 tháng 11 và nói với ông ta rằng dụng cụ dùng để xử lý độc dược (một ống tiêm dưới da được ngụy trang như một cây bút bi) phải sẵn sàng cho ------ kịp chuyến bay vào trưa hôm sau. Gunn kể rằng ông đã tức tốc đến xưởng FI/D và phải mất hết thời gian còn lại trong ngày và gần như suốt đêm đó mới chế tạo xong thiết bị đúng theo yêu cầu. Những người trong FI/D làm việc chung với ông ta đều biết ông đang cố làm ra cái gì nhưng không ai biết ý định của việc này. Cuối cùng, sau bảy, tám lần thất bại, Gunn đã thành công biến cây bút bi hiệu Paper – Mate thành một ống tiêm. Ông ta nói mũi kim tiêm mảnh đến nỗi nạn nhân gần như không cảm thấy gì khi bị chích vào người – ông ta so sánh cảm giác nảy như bị vết xước gây ra do mặc một chiếc áo sơ mi được hồ quá cứng. Ông đã giao dụng cụ đó cho ------ vào sáng hôm sau và giữ lại hai cây bút hoàn thành sau đó. Gunn không biết số phận của dụng cụ mà ông đã giao cho ------ như thế nào và cũng không nhớ là nó có được trả về cho mình không. Ông tin là có nghe nói Cubela đã từ chối không nhận nó. Ông nói rằng giờ đây ông không thể phân biệt được đâu là cây bút làm ra trước và đâu là câu bút làm ra sau trong số bút mà ông còn lưu giữ lại.
Ngày 22 tháng 11 năm 1963
------ đến Paris vào sáng ngày 22 tháng 11 và gặp Cubela vào buổi chiều hôm đó. ------ nói rằng đã đưa cho Cubela xem và giải thích cách sử dụng cây bút/ống tiêm này. Người này không chắc lắm nhưng tin là Cubela đã nhận dụng cụ đó nhưng nói rằng sẽ không mang nó theo về Cuba. ------ nhớ rõ là Cubela đã không nghĩ ngợi nhiều về dụng cụ này. Cubela nói rằng là một bác sĩ, ông biết rõ về Lá Ðen 40 và cứ nghĩ rằng chúng tôi chắc chắn phải cung cấp cho ông ta một thứ gì đó tinh xảo hơn thứ này. Cả Gunn và ------ đều đồng ý là ống tiêm khi ấy chưa bơm thuốc vào. Cubela muốn sử dụng thứ độc dược của chính ông ta. Chúng tôi chỉ gợi ý rằng Lá Ðen 40 là một độc dược hiệu quả để sử dụng với ống tiêm.
------ có viết một báo cáo về lần gặp gỡ đó nhưng không đề cặp về chuyện cây bút hay chất độc gì cả. Sau đây là phần tóm tắt về bản báo cáo tiếp xúc này. Cubela nói rằng khi trở về Cuba, ông ta quyết tâm theo đuổi kế hoạch lật đổ Fidel. ------ lặp lại các bảo đảm mà FitzGerald đã cam kết với Cubela về việc Mỹ hoàn toàn ủng hộ nếu thực sự xảy ra một cuộc lật đổ chế độ Fidel thành công. Cubela yêu cầu phải có những thứ sau đây tại địa điểm cất giấu trên lãnh thổ Cuba: 20 lựu đạn ném tay, 2 súng trường cực mạnh có ống ngắm và khoảng 20 ký chất nổ C4 với các vật dụng liên quan. Cubela đề nghị địa điểm cất giấu tốt nhất là trong một nông trại của bạn ông ta tên là ------. Vì phải trở lại Cuba theo đường Prague nên ông ta không muốn mang theo S/W hoặc bất cứ vật dụng phạm pháp nào. Khi ra khỏi cuộc họp, ------ và Cubela được thông báo rằng Tổng thống Kennedy đã bị ám sát. Cubela tỏ rõ xúc động khi nghe tin này. Ông hỏi: “Tại sao những điều như thế lại xảy đến cho những người tốt?” Bản báo cáo cuộc gặp này không ghi thời gian và cuộc gặp giữa ------ và Cubela kéo dài trong bao lâu, nhưng có thể đúng vào lúc Tổng thống Kennedy bị bắn, một sĩ quan CIA đã gặp một nhân vật Cuba tại Paris và giao cho ông ta một dụng cụ ám sát Fidel. ------ nói rằng có nhận một bức điện OPIM từ FitzGerald vào tối hôm đó hoặc sáng sớm hôm sau với nội dung là mọi chuyện dừng lại. Chúng tôi không tìm thấy bức điện như vậy trong tập hồ sơ AMLASH mà chỉ có một bản ghi chép trong tập hồ sơ đó cho biết ------ theo dự trù sẽ trở về Washington vào lúc 18 giờ 10 phút ngày 23 tháng 11.
Kế hoạch AMLASH có lẽ được phổ biến rộng rãi trong Sở Hoạt động Mật (Candestine Services) như các kế hoạch khác có bản chất tương tự. Tuy nhiên, chúng tôi chỉ có thể nhận diên được bốn nhân vật hiểu biết đến giai đoạn vừa nói trên liên quan đến ống tiêm và Lá Ðen 40. ------ biết toàn bộ câu chuyện, Halpern biết phần lớn sự việc và Gunn biết khá nhiều. FitzGerald không nhắc đến khía cạnh này trong chiến dịch Cubela khi ông ta tường trình với chúng tôi lần đầu tiên. Khi chúng tôi gặp lại ông ta lần sau và đưa ra các câu hỏi cụ thể, ông nói ông có nhớ điều gì đó liên quan đến Lá Ðen 40, nhưng lại không nhớ gì về một dụng cụ nào đó để dùng với thuốc độc này. Gunn nói là ông ta có ấn tượng là FitzGerald biết về chiến dịch này “nhưng coi như không biết.” ------ nói FitzGerald biết việc ông và halpern đi gặp Gunn. Harpern cũng đồng ý như vậy nhưng thêm bằng FitzGerald không biết cụ thể về việc chế tạo một dụng cụ ám sát.
Bắt đầu từ đây, những lời tưởng thuật được rút ra từ các hồ sơ trong tập hồ sơ kế hoạch AMLASH
TUYỆT MẬT - CHỈ ĐƯỢC ĐỌC (TOP SECRET – READ ONLY)
Ngày 19 tháng 12 năm 1963
FBIS báo cáo rằng Cubela từ Prague đã về đến Cuba.
Ngày 19 tháng 2 năm 1964
Trạm JMWAVE đánh điện báo rằng hai địa điểm cất giấu giống nhau y hệt nhưng riêng biệt trong tháng 3 sẽ được lập ra để hỗ trợ cho kế hoạch AMLASH. Một sẽ để ở Pinar del Rio ------ ------. Ðịa điểm còn lại sẽ là khu vực mà AMTRU- NK xâm nhập. Mỗi nơi, ngoài những thứ khác, sẽ gồm hai súng trường tự động FAL 7.62.
Ngày 6 tháng 3 năm 1964
Một bức điện từ JMWAVE viết: “Trừ phi Tổng hành dinh có những lý do mới mà WAVE không biết, liên quan đến các khâu FAL trong kho được AMTRUNK mang tới, mong muốn được nhấn mạnh cho điểm sau trong quyết định loại bỏ các khẩu FAL của WAVE: FAL cần một thùng đựng hình chữ nhật có kích thước 7x9x50 inch, rất khó xách trong...”
Ngày 7 tháng 3 năm 1964
Tổng hành dinh trả lời rằng: “Lý do muốn gồm cả các khẩu FAL là vì đây là món hàng chính được AMLASH-1 yêu cầu.”
Ngày 13 tháng 3 năm 1964
Trạm JMWAVE gửi điện nói: “Vì không thể tháo rời các khẩu FAL để vừa với các thùng đựng có kích thức nhỏ hơn 50 inch đang có sẵn, sẽ để các khẩu FAL lại trong kho AMLASH.”
Ngày 17-21 tháng 3 năm 1964
Kho cất giấu AMLASH được dành cho Chiến dịch AMTRUNK VIII.
Ngày 24 tháng 4 năm 1964
Tổng hành dinh gửi điện cho ------ nói rằng ------ được tường trình là gặp ------, “người có mang thông điệp quan trọng từ Cubela.”
Ngày 3 tháng 5 năm 1964
------ báo cáo rằng thông điệp mà ------ nhận từ Cubela nói rằng Cubela muốn có bộ hãm thanh cho khẩu tiểu liên FAL của Bỉ thật sớm.
Ngày 5 tháng 5 năm 1964
SAS yêu cầu TSD sản xuất cấp tốc một bộ hãm thanh. Có một số tài liệu sau này trong tập hồ sơ mô tả nỗ lực của TSD để giảm tiếng động của khẩu FAL và điều chỉnh hình ảnh để có thể bắn trong điều kiện thiếu ánh sáng. TSD cuối cùng đã hoàn thành một bộ hãm phanh ----------------------------------------------------------- ---------------------------------------------------------------------------------------------------
Ngày 9-11 tháng 6 năm 1964
------ lập một kho cất giấu của ALMLASH ở vùng duyên hải phía bắc Pinar del Rio, trong các thứ khác, chứa “hai khẩu súng trường tự động FAL, mỗi khẩu có 5 ổ đạn.” Không lời nào đề cập đến các bộ hãm thanh, một bộ chưa sẵn sàng vào lúc kho cất giấu chuẩn bị xong.
Ngày 1 tháng 8 năm 1964
Trạm JMWAVE báo cáo việc nhận một thông điệp S/W từ ------ ghi ngày 18/6. Trong đó nói rằng kho cất giấu AMLASH lập trong khu vực xâm nhập của AMTRUNK đã được định vị và các bước đang được tiến hành để thu hồi những thứ bên trong nó. Thông điệp nói rằng mội người hy vọng kho này sẽ có “hai súng trường hãm thanh cực mạnh,” vì ------ vẫn chưa chắc chắn là có thể thu hồi kho do ------ cất giấu ở Pinar del Rio.
Ngày 30 tháng 8 năm 1964
Manuel Artime nhận tin qua Madrid biết rằng một nhóm bất đồng chính kiến trong chế độ Fidel muốn thiết lập đường dây liên lạc trực tiếp với Artime. Vào ngày 7 tháng 10 năm 1964, một người bạn của Artime đến Pháp để họp với người trung gian của nhóm phản kháng này. Người trung gian được nêu tên là Alberto BLANCO Romariz.
Ngày 12 tháng 11 năm 1964
FBIS báo cáo: “Một phái đoàn của Hội Liên hiệp Sinh viên Cuba đến Prague vào ngày 11 tháng 11 để dự buổi mít tinh của Hội đồng Ðiều hành Hiệp hội Sinh viên Quốc tế (IUS) tổ chức từ 14 đến 17 tháng 11. Phái đoàn gồm...thiếu tá Rolando Cubela, đến dự với tư cách khách mời đặc biệt của IUS.”
Ngày 13 tháng 11 năm 1964
Báo cáo về cuộc tiếp xúc ở Washington với Artime: “Artime đồng ý nói chuyện với AMLASH-1 nếu cuối cùng ông ta là người tiếp xúc với nhóm phản kháng trong nước. Artime nghĩ rằng nếu AMLASH-1 là thủ lĩnh của nhóm phản kháng này tất cả chúng tôi đều có thể quên chiến dịch này đi.”
Ngày 25 tháng 11 năm 1964
------ báo cáo rằng Cubela đến Paris.
Ngày 4 tháng 12 năm 1964
------ Chuẩn bị một biên bản yêu câu chi phí bất thường 6.5000 USD cho việc đi lại của Artime ở châu Âu trong tháng 11 và 12 năm 1964 nhăm duy trì mối liên hệ với người đại diện của nhóm phản kháng trong nước. Trong tập hồ sơ này không có dấu hiệu nào cho thấy yêu cầu này được chấp thuận, nhưng những chứng cứ gián tiếp lại cho thấy điều ngược lại. Artime đã đến châu Âu để duy trì các liên hệ này.
Ngày 6-7 tháng 12 năm 1964
------ gặp Cubela ở Paris. Sau đây là những dòng tóm tắt các chi tiết được ------ báo cáo lại. Cubela, dù không vui vì trong năm qua đã không thực hiện được kế hoạch của mình, vẫn cảm thấy chỉ có giải pháp của ông ta phải tiếp tục cố gắng.
Cubela được báo cho biết chính phủ Mỹ không thể và, về mọi phương diện, sẽ không liên can hay hỗ trợ cho công việc mà ông tự vạch ra cho mình. Cubela có vẻ hiểu vị thế của chúng tôi và nói rằng nếu cần giúp đỡ, ông ta sẽ tìm kiếm ở nơi khác.
Ngày 10 tháng 12 năm 1964
Biên bản do Sanchez viết và để lại cùng với ------, về ------ như bối cảnh trên tình hình hiện thời lúc đó của chiến dịch AMLASH. Các trích dẫn:
“Artime không biết, và chúng tôi cũng không định nói cho ông ta biết là chúng tôi đã tiếp xúc trực tiếp với Cubela, -------------------------------------------------------- “Cubela đã được biết và hoàn toàn hiểu rằng chính phủ Mỹ không thể liên can, dù ở mức độ nào, vào “bước đầu tiên” trong kế hoạch của ông ta. Nếu cần hỗ trợ, ông nhận thấy rằng ông sẽ phải tìm nơi khác. Xin được thông báo: Ðây là vị trí mà Artime có thể thích hợp để đưa ra bất kỳ hỗ trợ nào do Cubela yêu cầu.
(Bình luận: Sanchez giải thích với chúng tôi biết những gì đã xảy ra: SAS mưu tính ráp Artime và Cubela lại với nhau sao cho để chẳng một ai trong hai người biết là mối quan hệ này đã được CIA khéo léo dàn dựng. Xuất phát từ nhu cầu của hai bên: Artime cần một người tay trong và Cubela muốn một khẩu súng hãm thanh mà CIA không muốn cung cấp trực tiếp cho ông ta. Bằng cách ráp hai người này lại, Artime có được Cubela làm tay trong và Cubela có thể nhận được khẩu súng hãm thanh từ phía Artime. CIA không có ý định cung cấp một vũ khí ám sát cho Artime để ông ta đưa lại cho Cubela, và đã không làm thế.)
Ngày 1 tháng 12 năm 1964
Tổng hành dinh điện cho Paris: “Khi ------ tiếp tục với Cubela để chất vấn ông ta, ...xin xác nhận câu nói mà Cubela đã nói với ------ rằng chỉ có tiền và một vài thiết bị liên lạc được các ngư dân thu hồi. Cubela và ------ không vui vì ngư dân đã không thể lấy được nhiều hơn từ kho cất giấu nhưng Cubela và ------ lại không thể đích thân đến hiện trường. (Cubela đã nói với ------ rằng ------ đã dùng một số ngư dân để thu hồi kho này và đã không thu hồi được gì cả. Ðây là kho cất giấu nằm trong khu vực xâm nhập của AMTRUNK, là nơi không có các khẩu FAL.)
Ngày 27 tháng 12 năm 1964
Artime và Cubela gặp nhau lần đầu tiên ở Madrid.
Ngày 30 tháng 12 năm 1964
Artime và Cubela gặp nhau lần thứ hai ở Madrid vào ngày 30 tháng 12. Artime báo cáo kết quả này trong lần gặp ------ ở Florida vào ngày 3 tháng 1 năm 1965. Cubela nói với Artime rằng ông ta cần Mỹ trao cho một bộ hãm thanh cho khẩu FAL nhưng họ đã không thể cung ứng. Artime đồng ý cung cấp hoặc là một bộ hãm thanh cho khẩu FAL hoặc một súng trường có gắn hãm thanh tương đương. Nếu Artime có bộ hãm thanh cho khẩu FAL, đích thân Cubela sẽ mang theo về Cuba. Nếu Artime chỉ có súng trường hãm thanh loại khác, ông ta sẽ phải giấu nó ở Cuba cho Cubela.
Ngày 28 tháng 1 năm 1965
------ đến Paris để gặp Cubela.
Ngày 2 tháng 2 năm 1965
------ từ Paris đánh điện về: “Cubela và ------ trở lại Paris vào ngày 30 tháng 1. Họp vào ngày 1 tháng 2, Cubela nói đã đạt được đầy đủ thỏa thuận với Artime và ông hoàn toàn bằng lòng với các cuộc thu xếp mà ông ta phác thảo những nét chính gửi cho chúng ta (cùng những dòng tương tự trong báo cáo của Artime)...Ở Madrid, Artime cung cấp gói hàng mà Cubela có kế hoạch mang theo về trong hành lý cá nhân.”
------ đánh điện từ Paris: “Tháng 11 năm 1964 khi Cubela khởi hành từ Cuba, ông ta và ------ không ai nhận được món gì từ kho Matanzas. ------ nói với tôi ông ta là các ngư dân thu hồi được tiền và một số phận của máy liên lạc nhưng tiền này không dùng được vì số sơ ri trên đó đã không còn lưu hành nữa.”
Ngày 11 tháng 2 năm 1965
------ đánh điện cho biết: “Từ Cuba ngày 10/2: Vào ngày 10 hay 11 tháng 2, Cubela sẽ nhận được từ thư ký của Artime một khẩu súng ngắn hãm thanh và một súng trường FAL của Bỉ có gắn hãm thanh. Cả hai đều từ Mỹ đến và đang ở Madrid.” (Báo cáo này mâu thuẫn với báo cáo trước đó nói rằng Artime sẽ phải tìm chỗ giấu khẩu súng trường và bộ hãm thanh nếu đó là tất cả những gì ông ta có thể tìm được. Chúng tôi không giải tỏa được mâu thuẫn.)
Ngày 12 tháng 2 năm 1965
------ đánh điện cho biết: “Artime báo cáo về cuộc gặp cuối cùng của ông ta với Cubela: Artime có ba kiện hàng đặc biệt được nhân viên kỹ thuật của ông chuẩn bị sẵn và giao cho Cubela ở Madrid. Cubela có vẻ bằng lòng.”
Ngày 4 tháng 3 năm 1965
------ báo cáo là có nhận được điện thoại từ một người bạn ở Havana, là người đã nhìn thấy Cubela trở lại Havana ngày hôm trước.
Ngày 15 tháng 3 năm 1965
------ gửi điện nói rằng: Một ông Rafael GARCIA BANGO Dirube nào đó đã từ Cuba đến Madrid ngày 15 tháng 3 và đã được giới thiệu với ------, tuyên bố là có quan hệ với một nhóm lãnh đạo quân sự Cuba có ý định loại bỏ Fidel và chiếm chính quyền. Chẳng lâu sau đã biết rõ là ông ta muốn nói tới Cubela. ------ nói rằng ông ta luôn được mọi người biết rõ là bạn thân của Cubela, người mà ông ta gặp lần cuối cùng ở Havana vào ngày 9 tháng 3. ------ nói rằng ông ta là một luật sư ------------------------------------------------------------------------------------------------ --------------------------------------------------------------------------------------------------- --------------------------------------------------------------------------------------------------- (Bình luận: ây lại là một đầu mối có danh tánh khác giữa Cubela và âm mưu của nghiệp đoàn cờ bạc đã nhắc tới ở phần trước. ------ là một trong những nhân vật chính vào Giai đoạn Một trong chiến dịch của Shef Edwards. Ông ta được tin không chắc chắn về việc này. Rốt cuộc, ------ là người đã mang Varona vào chiến dịch ở cuối Giai đoạn Một, và Varona là một trong những người thủ vai chính trong Giai đoạn Hai. Toán ba người được Varona gửi vào Cuba được báo cáo vào ngày 21 tháng 6 năm 1962 đã có mặt ở Cuba.)
Tháng 6 năm 1965
Tổng hành dinh quyết định cắt đứt mọi liên hệ với những thành viên chủ chốt của nhóm Cubela. Sự việc càng lúc càng rõ ràng là số người Cuba biết các kế hoạch của Cubela và biết là CIA có can dự vào đang ngày càng lớn ra. Cọng rơm cuối cùng rơi xuống vào đầu tháng 6 năm 1965. (lưu ý: Có sự không nhất quán về ngày tháng. Tài liệu viết ra vào thời điểm này ghi là các ngày 2, 3 và 4 tháng 5. Qua những chứng cứ khác trong tập hồ sơ này thĩ rõ ràng sự việc xảy ra vào tháng 6, chứ không phải tháng 5.) Một ------, một cựu huấn luyện viên PM, đã ngưng làm vì bất mãn từ ngày 20 tháng 3 năm 1961, tiếp xúc với một nhân viên của Cơ quan Nhập tịch và Di dân Mỹ (INS) vào ngày 2 tháng 6 năm 1965 kể câu chuyện mà ------ cho rằng có ảnh hưởng đến an ninh của Mỹ. INS nghe người này kể hết câu chuyện và sau đó đưa anh ta đến FBI. FBI cũng nghe câu chuyện này vào ngày 3 tháng 6 và rồi chuyển anh ta sang cho CIA. Một nhân viên CIA phỏng vấn anh ta vào ngày 4 tháng 6. ------ nói rằng trong tháng 5 anh ta nhận được một lá thư từ người bạn ở Paris hối thúc anh ta đến Paris để gặp một người bạn của Cubela. ------ đến Paris và gặp ------, một trong những người cộng sự thân cận nhất của Cubela trong kế hoạch được tin là ám sát Fidel. ------ tuyên bố là mình có một thông điệp từ Cubela mà Cubela muốn chuyển đến cho CIA. Bức thông điệp nói rằng Cubela và những người theo ông ta sắp sửa giết Fidel và những người khác trong chế độ này, nhưng họ cần được giúp đỡ và muốn biết là CIA và chinh phủ Mỹ có theo họ không và sẵn lòng hậu thuẫn cho họ. Nếu câu trả lời là đồng ý, Cubela sẽ gửi chi tiết những gì ông ta cần. Từ câu chuyện của người này, rõ ràng ông ta đã biết đầy đủ các chi tiết về chiến dịch của Cubela.
(Bình luận: Trong hồ sơ này không thấy dấu hiệu nào cho biết CIA đã từng phát hiện kiểu “giúp đỡ” mà Cubela nghĩ là ông ta cần. Tại một buổi họp ở Paris ngày 1 tháng 2 năm 1965, ông ta yêu cầu 10.000 USD “để tổ chức nhóm nội gián.” CIA từ chối đưa số tiền này và đề nghị ông ta thử tìm từ phía Artime. Cubela khá tức giận vì bị khước từ. Ít ngày sau, tại Madrid, ông tìm đến một người Cuba ------, nói rằng ông ta đang kẹt cứng ở Madrid vì không có tiền. Tổng hành dinh chập thuận một “khoản nợ cá nhân” là 200 USD. Vào ngày 16 tháng 2 năm 1965, Cubela yêu cầu ------ đưa 1.000 USD – số tiền này tổng hành dinh đồng ý đưa cho ông ta. Trong lần họp sau đó với ------ tại New York City, ------ nói rằng ông ta đã đưa cho Cubela 7.000 USD.)
Ngày 23 tháng 6 năm 1965 tổng hành dinh gửi một bức điện đến các trạm với chỉ thị cắt đứt mọi quan hệ với các thành viên trong nhóm của Cubela. Một phần trong bức điện viết:
“...chứng cứ thuyết phục rằng toàn bộ nhóm AMLASH không an toàn và rằng các cuộc tiếp xúc thêm nữa với các thành viên chủ chốt của nhóm này sẽ tạo thành mối đe dọa cho các hoạt động của CIA chống lại Cuba cũng như an ninh của nhân viên hành chánh CIA ở Tâu Âu.”
Ngày 1 tháng 3 năm 1966
Hãng tin Reuters từ Havana báo cáo rằng cảnh sát an ninh Cuba đã bắt hai sĩ quan quân đội bị cho là hoạt động phản cách mạng liên quan đến Cục Tình Báo Trung Ương Mỹ. Họ được xác định là Thiếu tá Rolando Cubela và Thiếu tá Ramon Guin.
Ngày 7 tháng 3 năm 1966
FBIS trích dẫn nguồn tin từ Sở Nội chính Havana: “Phiên xử các bị cáo Rolando Cubela, Ramon Guin và những người khác có liên quan đến Cục Tình Báo Trung Ương Mỹ, đã bắt đầu tại tòa án cách mạng quận Havana ở La Cabana ngày hôm nay vào lúc 15 giờ.”
Ngày 8 tháng 3 năm 1966
Những trích dẫn từ báo cáo của Sở Nội chính Havana và FBIS ghi lại về ngày đầu tiên xét xử Cựu Thiếu tá Rolando Cubela và Ramon Guin cũng như những kẻ khác đang đứng trước tòa đã nhận tội. Các bị cáo đã bị xét xử về tội chống lại sự toàn vẹn và ổn định của quốc gia bằng cách vạch kế hoạch ám sát Fidel Castro.
Các bị cáo gồm Rolando Cubela Secades, Ramon Guin Diaz, Jose Luis Gonzalez, Gallarreta, Alberto Blanco Romariz, và Juan Alsina Navarro, tất cả đều thú nhận các tội đã bị cáo buộc trong vụ án này. Ngoài ra xuất hiện trong phiên xử còn có Guillermo Cunill Alvarez và Angel Herrero Veliz.
Bị cáo Jose Luis Gonzalez Gallarrete, người từng là tùy viên ngoại giao ở Tòa Ðại Sứ Cuba ở Tây Ban Nha, đã phản bội tổ quốc vì 100.000 đô la mà các nhân viên CIA đã đưa cho ông ta chỉ một tháng sau khi ông ta tới Tây Ban Nha. (Ông ta) gặp một quan chức thuộc tổ chức phá hoại quốc tế đã nhắc đến ở trên tên là James Noel, người đã ngụy trang hoạt động của mình dưới vỏ bọc là quan chức Tòa Ðại Sứ ở Tây Ban Nha. Noel yêu cầu cung cấp thông tin về tiểu sử và thông tin liên quan đến nhiệm vụ ngoại giao của Cuba.
Trong chuyến lưu lại ở Châu Âu, Cubela đã ba lần tới Tây Ban Nha vào ngày 26 tháng 12 năm 1964, ngày 6 và 20 tháng 2 năm 1965. Tên đầu số chống cách mạng Artime đã đi Madrid vào đầu tháng 2 năm 1965 và đã gặp Cubela cho kế hoạch cuối cùng.
Kế hoạch này sẽ khởi đầu bằng một cuộc tấn công nhắm vào cá nhân Fidel Castro Ruz. Hành động tội ác này sẽ nổi tiếng bằng cuộc xâm lược vũ trang của quân đội Mỹ vào đất nước này 48 giờ sau đó. Cuộc tấn công vào Fidel Castro định thực hiện bằng cách sử dụng khẩu súng trường FAL 7.62 của Cubela. Vũ khí này được trang bị ống ngắm cực mạnh 4x40 và một bộ hãm thanh.
Artime phái Gallego đi Mỹ để lấy ống ngắm và bộ hãm thanh và sau đó sẽ đưa cho Blanco Romariz. Ông này sẽ chuyển cho Gonzalez Gallarreta, người sẽ giao lại cho Cubela trước ngày ông ta rời Madrid.
Ðể đảm bảo kế hoạch thành công, Cubela đã gặp bị cáo Guin. Guin đã từng được CIA tuyển làm gián điệp từ tháng 9 năm 1963. Việc tuyển mộ này được nhân viên CIA là Miguel Diaz xâm nhập vào Cuba thực hiện.
Ðã tìm thấy trong nhà Cubela một ống ngắm hiệu Tasco với các phụ tùng, khẩu súng trường FAL, một lượng lớn các vũ khí và đạn dược, lựu đạn gây cháy nổ cùng với thiết bị và vật dụng quân sự khác.
Hình phạt công tố viên định dành cho các bị cáo như sau: Ðổi với Rolando Cubela Secades, Ramon Guin Diaz, Jose Luis Gonzalez Gallarreta và Alberto Blanco Romariz là xử bắn. Juan Alsina Navarro, Guillermo Cunill Alvarez và Angel Herrero Veliz, 30 năm tù cộng với những hình phạt phụ.
Ngày 9 tháng 3 năm 1966
FBIS tường thuật từ Sở Nội chính Havana: “Thủ tướng Fidel Castro đã gửi thư tới công tố viên về vụ...xử Thiếu tá Rolando Cubela, Ramon Guin và các thiết bị cáo khác. Trong đó, thủ tướng nói phải thừa nhận đây là một bài học cay đắng nhưng hữu ích và nói thêm rằng “Tôi đề nghị tòa án không áp dụng hình phạt tử hình đối với bất kỳ bị cáo nào.”
Ngày 10 tháng 3 năm 1966
FBIS tường thuật các lời khai tại phiên tòa ngày 8 tháng 3: H i: Ông nhớ bộ hãm thanh của khẩu súng bị gãy khi nào? Cubela: Bộ hãm thanh ư? Thực tế thì bộ hãm thanh không bị gãy. Bộ hãm thanh thực sự không bi gãy.
Hỏi: Bộ hãm thanh ở đâu rồi? Cubela: Tôi đã liệng bỏ bộ hãm thanh vì nó làm bỏng tay tôi. Công t : gần đây ông có nói chuyện với Fidel Castro chứ? Cubela: Có. Công t viên: Ông có thể nói cho tòa biết ông nói chuyện với Fidel khi nào không?
Cubela: Tôi nghĩ rằng đó là vào tháng giêng, để xem nào, tháng giêng, đúng là tháng giêng.
Công tố: Vào tháng giêng ư! Ông có nhớ buổi nói chuyện giữa ông với Fidel chứ, và có phải Fidel đã đề nghị được giúp ông?
Cubela: Chủ tịch Fidel mở cánh cửa, mở các cánh cửa đối với tôi. Ông ta đã cho tôi, cho tôi hiểu rằng ông ta biết tôi đang làm gì nhưng tôi đã không có đủ can đảm để kể ra với ông ấy.
Luật sư bào chữa: Cubela Secades, theo quan điểm của ông, hình phạt xứng đáng cho các hành vi mang bản chất thế này là gì?
Cubela: Xấu nhất!
Hỏi: Ý của ông là gì khi nói “xấu nhất”?
Cubela: Bức tường.
Hỏi: Ý của ông là gì khi nói”bức tường”?
Cubela: Sau lưng là bức tường, còn phía trước là các khẩu súng.
Ngày 11 tháng 3 năm 1966
FBIS tường thuật theo Phòng Nội Vụ Havana ngày 10 tháng 3: Tòa Án Cách Mạng số 1, đã xử vụ án số 108 về các tội ác chống lại sự toàn vẹn và an ninh của quốc gia, đã tuyên án các bị cáo Rolanda Cubela, Ramon Guin và các bị cáo khác.
Theo bản án này, Rolando Cubela và Ramon Guin bị kết án 25 năm tù; Jose Luis GonZalez Gallarrete và Alberto Blanco Romanriz, 20 năm và Juan Navarro, 10 năm tù.
Guillermo Cunill Alvarez và Angel Herrero Veliz được tuyên án vô tội. (Bình luận: Cũng đáng lưu ý ở đây là không một giao dịch nào giữa Cubela và CIA từ tháng 3 năm 1961 đến tháng 11 năm 1964 được đề cặp đến trong phiên bản xét xử này. Lần kết giao đầu tiên giữa Cubela và CIA xảy ra từ chuyến đến châu Âu của ông ta vào cuối năm 1964 và đầu năm 1965, là thời gian ông ta đã có các buổi gặp gỡ với Artime. Chứng cứ đưa ra trong phiên tòa giới hạn ở các hành vi phản cánh mạng của Cubela, đáng chú ý hơn là các cuộc họp với Artime vào tháng 12 năm 1964 và tháng 2 năm 1965. Trong nhiều cuộc tiếp xúc trực tiếp giữa ông ta với các nhân viên CIA – một số người ông ta biết cả tên thật – không có lần nào được nhắc đến trong phiên tòa. Thậm chí kể cả giai đoạn bút bi/ống tiêm/Lá en 40 cũng không một điều nào được ám chỉ đến. Chính quyền Cuba có thể đã lấy được các thông tin này từ Cubela và quyết định không trưng những điều đó ra làm bằng chứng, nhưng chúng ta không nghĩ ra được lý do thuyết phục nào để giải thích việc họ giữ các bằng chứng này lại. Chúng tôi chỉ có thể tìm được lý do gần nhất như sau, chỉ hoàn toàn là sự phỏng đoán: có thể Fidel đã nghĩ rằng ông sẽ khinh suất về mặt chính trị khi cho phép tử hình ai đó quá thân cận với ông ta, người mà chỉ mới mưu tính chứ chưa hành động. Từ đó, nếu để tất cả mọi chi tiết chứng tỏ có sự dính líu của Cubela với CIA được tiết lộ ở tòa án, Fidel sợ rằng không có nhiều lý do để yêu cầu tòa án khoan hồng.)