TUYỆT MẬT - CHỈ ĐƯỢC ĐỌC (TOP SECRET – READ ONLY)
Drew Pearson bảo có một bản báo cáo ghi rằng trong một cuộc họp cấp sao tại Bộ Ngoại Giao người ta đã bàn đến những kế hoạch ám sát Fidel. Chúng tôi tìm được hai cuộc họp cấp cao, liên cơ quan trong đó vấn đề này được nêu ra. Cuộc họp thứ nhất (và có lẽ là cuộc họp mà Pearson đề cập) ở Bộ Ngoại Giao ngày 10 tháng 8 năm 1962. Ðó là cuộc họp của Nhóm Ðặc biệt (Tăng cường). Cuộc họp thứ hai chúng tôi nhận ra được tổ chức vào ngày 30 tháng 7 năm 1964. Ðây là cuộc họp của Ủy ban 303 và có lẽ được tổ chức tại Phòng Tình huống của Nhà Trắng. Hai cuộc họp đó được mô tử riêng biệt như sau:
Ngày 10 tháng 8 năm 1962
Nhóm Ðặc biệt (Tăng cường) họp tại Bộ Ngoại Giao, hoặc trong văn phòng của Bộ Trưởng Rusk hoặc trong phòng hội nghị của ông ta. Những nhân vật sau đây đã có mặt:
Bộ Ngoại Giao: Dean Rusk, Alexis Johnson, Edwin Martin, Richard Goodwin, Robert Hurwitch
Nhà Trắng: Maxwell Taylor, Mc George Bundy (Bill Harvey ghi chú rằng Robert Kennedy vắng mặt và Bundy đại diện cho ông)
Bộ Quốc Phòng: Robert McNamara, Roswell Gilpatric, Lyman Lemnitzer, Edward Lansdale
CIA: John McCone, William Harvey
USIA: Edward Murrow, Donald Wilson
Thư ký: Thomas Parrott.
Biển bản cuộc họp của Tom Parrott không đề cặp đến đề tài ám sát. Cả hai ông McCone và Harvey đều nhớ rằng McNamara đã nêu ra đề tài đó. Những ghi chú của Harvey tại cuộc họp chứng tỏ rằng Murrow cũng đã nêu ra điều này, nhưng bản chất của những lời này không được ghi lại. Ông McCone nói, trong bản ghi nhớ ngày 14 tháng 4 năm 1967, rằng ông nhớ những cuộc họp ngày 8 hay 9 tháng 8 được tổ chức tại Phòng Hành Quân JCS của Lầu Năm Góc và ngày 10 tháng 8 năm 1962 tại phòng hội nghị của Bộ Trưởng Rusk. Tại một trong những cuộc họp này (McCone nhớ là tại Phòng Hành Quân JCS) có người đề nghị rằng những nhân vật hàng đầu của chế độ ở Cuba, kể cả Fidel, cần phải bị xóa sổ.
(Bình luận: Sau này người ta thấy rằng hồi ức của ông McCone có thể không đúng. Rõ ràng vấn đề ám sát được đem ra thảo luận trong cuộc họp ngày 10 tháng 8 tại Bộ Ngoại giao.)
Ông McCone nói ông đã tức thời phản đối việc thảo luận đó và ngày sau cuộc họp, ông đến gặp riêng Bộ Trưởng McNamara để nhấn mạnh quan điểm của mình. Theo McCone, McNamara đã “nồng nhiệt tán thành”. McCone kể trong bản ghi nhớ của ông rằng đề nghị trên chưa bao giờ được Nhóm Ðặc biệt (Tăng cường) hay bất kỳ nhân vật có trách nhiệm về chính sách xem xét nghiêm túc. McCone còn nói rằng nhiều năm qua, vấn đề Cuba được mang ra bàn thảo liên quan đến những từ ngữ như “tống khứ Fidel”, “loại bỏ Fidel” và “tiêu diệt Fidel”...nhưng những từ ngữ đó đều được phân tích theo ý lật đổ chính phủ cộng sản ở Cuba. Harvey nhớ rằng, khi McCone nói chuyện với ông về cuộc hội thoại McCone – McNamara, McCone nói rằng nếu ông, McCone, phải tham gia vào những việc như thế ông ta sẽ bị “rút phép thông công”.
Tiếp theo cuộc họp ngày 10 tháng 8, và không thảm khảo những trao đổi đã được báo cáo giữa McCone và McNamara, Lansdale đã gửi thẳng một bản ghi nhớ cho William Harvey (CIA), Robert Hurwitch (Bộ Ngoại Giao), Tướng Harris (Bộ Quốc Phòng) và Don Wilson (USIA). Bản ghi nhớ này giao trách nhiệm thảo những văn bản về nhiều đề tài khác nhau liên quan đến chiến dịch chia rẽ trong nội bộ nhà nước, [chỗ này bị cắt bỏ trong bản sao tập hồ sơ của CIA]).”
Ngày 14 tháng 8, Harvey gởi một bản ghi nhớ cho DD/P (Helms) tường trình về chỉ thị của Lansdale và những gì Harvey đã làm liên quan đến các vấn đề đó. Bản ghi nhớ gởi DD/P có viết là chỗ bị cắt bỏ là đoạn: “gồm cả việc tiêu diệt các nhà lãnh đạo.” Harvey viết rằng ông đã điện thoại đến văn phòng của Lansdale và nói chuyện với Frank Hand vì Lansdale đi vắng. Harvey bảo ông ta phản đối việc sử dụng cụm từ đó, đồng thời đề nghị các bước cần làm để cắt bỏ nó đi trong tất cả các bản sao và điều này đã được đồng ý. Harvey đã gạch bỏ cụm từ đó trong bản sao của chính ông và cho rằng chỉ thị này đã được thông báo đến những người nhận khác yêu cầu cũng phải làm như vậy. Harvey kể với chúng tôi rằng Lansdale liên tục nêu vấn đề ám sát Fidel với Harvey trong nhiều tuần lễ kế tiếp. Harvey ước tính là có khoảng năm người trong văn phòng của Lansdale biết tổng quát những chi tiết nhạy cảm của Kế hoạch CON CẦY và chuyện Lansdale quan tâm tới khía cạnh ám sát của kế hoạch.
Ngày 30 tháng 7 năm 1964
Ủy ban 303 đã họp phiên thường lệ, có lẽ tại Phòng Tình huống của Nhà trắng. (Desmond FitzGerald nhớ rằng những cuộc họp như thế thường được tổ chức tại đó.) Dưới đây là những người tham dự được ghi tên lại:
McGeorge Bundy, Cyrus Vance, John McCone, Thomas Hughes, Desmond FitzGerald để bàn về Cuba
Ðại tá Ralph Steakley có mặt vì một vấn đề khác liên quan đến Cục Tình Báo, nhưng không biết ông ta có mặt khi vấn đề Cuba được đem ta thảo luận không.
Peter Jessup là thư ký.
Biên bản cuộc họp, phần ghi chép cuộc thảo luận vấn đề Cuba:
“Ðồng ý là ông FitzGerald sẽ liên hệ với ông Sam Papich của FBI về bản tường trình trước đó đề cập đến một âm mưu trong đó Mafia ngụ ý muốn ám sát Fidel và là vụ việc mà Bộ trưởng Tư pháp đồng ý giải quyết như là một vấn đề thực thi pháp luật.
Ðiều không nói ra ở đây rõ ràng nói đến việc tường trình thông tin trong bản ghi nhớ ngày 10 tháng 6 năm 1964 của DD/P gửi cho Giám đốc CIA. Phạm vi của vấn đề đã lan rộng sang những thành phần “ưu tú” khác gồm:
Trợ lý Ðặc biệt Tổng thống về các vấn đề An ninh Quốc gia
Trợ lý Ngoại trưởng, các Vấn đề Liên Mỹ, Bộ Ngoại giao
Giám đốc Tình báo và Nghiên cứu, bộ Ngoại giao
Giám đốc, Cơ quan Tình báo Quốc phòng Mỹ.
Bộ trưởng Tư pháp Giám đốc, Cục Ðiều tra Liên bang (FBI)
Phó Giám đốc Cục Tình báo Trung ương Mỹ.
Phó Giám đốc phụ trách Tình báo
Báo cáo liên quan đến một đề nghị ám sát Fidel được những phần tử Cuba lưu vong nổi tiếng đề xuất. Mafia dường như có dính líu đến kế hoạch này. Họ yêu cầu được trả 150.000 đô la cho công tác và 10.000 đôla cho mọi chi phí. Một nhân vật lưu vong giàu có, ------, được báo cáo là sẵn sàng đóng góp 50.000 đô la. ------ tìm gặp Trưởng Trạm, JMWAVE, và đề nghị chính phủ Mỹ cùng đóng góp tài chính. Ðề nghị này đã bị bác bỏ thẳng thừng. Báo cáo này cho thấy chỉ có CIA liên hệ vào âm mưu ấy. Báo cáo cuối cùng chúng tôi tìm thấy về cố này là bản ghi nhớ của DCI (McCone) gửi cho Bundy đề ngày 19 tháng 8 năm 1964, báo cáo lại kết quả những cuộc thẩm vấn của FBI với các nhân vật được cho là có tham gia. Hiển nhiên là âm mưu này không đi đến đâu cả:
(Bình luận: Có thể thấy đây là sự trùng hợp duy nhất nhưng chúng tôi sửng sốt trước yếu tố nhóm người âm mưu này, được cho là có cả những phần tử găngstơ, đã đòi 150.000 đô la để ám sát Fidel. ó là đúng số tiền mà CIA mà đề nghị trả trong một âm mưu trước đây rõ ràng có dính líu đến những phần tử găngstơ. Có thể đây chính là nhóm găngstơ đó hoặc có thể thế giới tội ác ngầm biết “mức giá chuẩn”.)
Như chúng tôi đã nói trước đây, nếu Drew Pearson có những thông tin khẳng định về một cuộc họp cấp cao thảo luận việc ám sát Fidel, có lẽ đó là cuộc họp ngày 10 tháng 8 năm 1962 của Nhóm Ðặc biệt (Tăng cường). Cuộc họp của Ủy Ban 303 ngày 30 tháng 7 năm 1964 được kể ra chỉ vì nó đề cập đến việc ám sát Fidel, song chắc đã bị bóp méo cho hợp với một số điểm trong câu chuyện của Pearson.
Câu chuyện của Drew Pearson
- Những chi tiết đã được phổ biến là CIA ngấm ngầm âm mưu loại trừ Fidel?
- Ðúng vậy.
- Robert Kennedy có thể đã chuẩn y một âm mưu ám sát
- Không đúng. Ông ta được báo cáo về Giai Ðoạn Một của Nghiệp đoàn cờ bạc – sau khi đã chấm dứt. Ông không được báo cáo về Giai Ðoạn Hai.
- Những nhân vật trong thế giới ngầm đã thật sự được tuyển mộ để tiến hành âm mưu này.
- Ðúng! Ba tên sát nhân được thuê đã bị bắt tại Havana. Một kẻ sống sót duy nhất được cho là vẫn còn mỏi mòn trong nhà tù ở đó.
Ngày 21 tháng 6 năm 1962, Roselli thông báo cho Harvey, có lẽ căn cứ vào nguồn tin của Varona, rằng một toán ba người đã có mặt tại Cuba. Chúng tôi không biết lai lịch họ cũng như chuyện gì có thể đã xảy ra với họ. Chúng tôi không có bằng chứng nào cho thấy là họ đã được phái đi. Không có việc bắt bớ hay hành quyết nào được loan báo vào thời điểm đó khớp với toán người này.
Ít nhất thì những hiểu biết của Fidel cũng đủ để tin là CIA đang tìm cách giết ông. Có tin cho biết là ông đã xếp đặt một âm mưu đáp trả dành cho Tổng thống Kennedy (nhưng chắc đó chỉ là trong một cơn giân dữ của Fidel).
Ðiều này đã được báo trong những cuộc điều tra Garrison. Nó cũng được Castillo ở Philippin nói đến trong cuộc thẩm tra trực tiếp. Chúng tôi không có sự xác nhận độc lập về các tin loại này. (Chú ý là Garrison đã gặp Roselli tại Las Vegas vào tháng 3 năm 1967.)
Những chi tiết được giữ tuyệt mật
- Những nhân viên đã được gửi đến Cuba để sử dụng vào việc ám sát
- Ðúng. Ít nhất chúng tôi đã nghe Roselli cho biết là những viên thuốc đã được gửi đến đó trong Giai đoạn 1 và Giai đoạn 2 nữa.
- Có một cuộc họp tại Bộ Ngoại Giao bàn về việc ám sát Fidel?
- Ðúng. Ðề tài này đã được nêu lên trong một cuộc họp tại Bộ Ngoại Giao ngày 10 tháng 8 năm 1962, nhưng không liên quan gì đến bất kỳ âm mưu ám sát thực thụ nào. Nó dẫn đến việc Lansdale soạn ra một bản ghi nhớ hành động trong chiến dịch CON CẦY, giao nhiệm vụ cho CIA lập kế hoạch thanh toán các nhà lãnh đạo. Cụm từ khó chịu này sau đó đã được cắt bỏ ra khỏi các bản sao chép gởi cho CIA, Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng và USIA, nhưng có thể cũng đã gây ra thiệt hại.
Sự phân nhánh chiến dịch của Nghiệp Đoàn Cờ Bạc
Phần trước của báo cáo này đã mô tả mọi âm mưu của CIA nhăm ám sát Fidel mà chúng tôi có thể đã khám phá ra được. Các tình tiết về hai giai đoạn của nghiệp đoàn cờ bạc là dữ kiện có thực trên cơ sở hồi ức của những người được phỏng vấn và tin là đúng. Rõ ràng một số dữ kiện đó đã bị tiết lộ ra ngoài, đang được nói đến và đang rêu rao. Ở trang sau là danh sách các chi tiết chính trong câu chuyện mà nhà báo Draw Pearson có, và đã đưa ra trước công luận, cùng với một lời bình ngắn về tính chính xác hiển nhiên của từng chi tiết. Thực ra đa số các chi tiết trong câu chuyện của Draw Pearson đều đáng tin cậy. Ông ta mắc sai lầm ở chỗ đã kể câu chuyện này như thể mọi chi tiết của chúng là một phần trong một câu chuyện duy nhất. Thực tế đã cho thấy không phải vậy. Dầu sao, hầu hết các dữ kiện của ông đều trung thực và ông nắm được những khía cạnh thực sự quan trọng về chiến dịch Nghiệp Ðoàn Cờ Bạc.
Chỉ đến lúc James O’Connell trở về vào ngày 2 tháng 5 từ những cuộc họp tại Las Vegas, chúng tôi mới không phải đối mặt với sự khó khăn trong việc đo lường tầm mức của vấn đề mà Cục phải đối phó, trừ khi chúng tôi phát hiện ra điều gì đã bị tiết lộ, ai đã làm việc này, tiết lộ với ai và nhằm mục đích gì. Chúng tôi không thể suy đoán ra chuyện gì đáng tin từ những thông tin mà chúng tôi có. O’Connell, người đã tường trình miệng với quí vị và sẽ gởi báo cáo viết tay thẳng tới quí vị, có thể sẽ làm sáng tỏ phần nào nguồn gốc có thể xuất phát các thông tin mà Pearson có. Ông ta cũng đã báo cáo với chúng tôi về cuộc nói chuyện với Maheu. Dưới đây là những điểm chính:
a. Maheu đã báo cho luật sư của mình, Edward P.Morgan về việc Maheu tham gia Giai đoạn Một.
b. Maheu không biết gì đến Giai đoạn Hai đang được tiến hành và không hề nghe Roselli nói gì về nó cả.
c. Morgan và Roselli đã quen biết nhau, không phải thông qua Maheu, ngay trước khi Maheu quan hệ với Roselli trong chiến dịch nghiệp đoàn cờ bạc. Roselli đã được H.M. Greenspun, chủ bút kiêm nhà xuất bản báo Las Vegas Sun, dẫn tới gặp Morgan.
d. Maheu nghi Roselli là một khách hàng của Morgan e. Roselli nghiện rượu nặng. Morgan mới đây đã đến Las Vegas một hay hai lần, trong lúc quá say nên đã “sơ suất.”
f. Jim Garrison, Edward Morgan và Roselli đều có mặt tại Las Vegas cùng một lúc trong tháng ba vừa qua. Garrison đã tiếp xúc với Roselli, và Morgan cũng vậy. Chúng tôi nghĩ rằng Greenspun cũng đã có mặt trong các buổi nói chuyện này. Chúng tôi không biết thời điểm, nhưng có thể lưu ý là một trong các bài báo của Pearson xuất hiện vào ngày 7 tháng 3.
g. Theo Maheu, Morgan và Jack Anderson rất thân với nhau (Anderson là cộng sự của Drew Pearson.)
Có vẻ đã rõ ràng để nêu đích danh Roselli chính là nguồn thông tin cuối cùng về âm mưu của Nghiệp Ðoàn Cờ Bạc và khẳng định Morgan chính là nguồn cung cấp tin của Pearson.
Chúng tôi có thể kiểm tra tính chính xác của giả thuyết này dựa trên những phân tích mà chúng tôi đã làm trước đây khi cố nhận diện nguồn có thể cung cấp tin cho câu chuyện của Pearson. Trên trang sau, chúng tôi liệt kê danh sách những nhân vật đã được biết chắc chắn là đã biết một số dữ kiện then chốt mà giờ đây Pearson có trong tay. Danh sách này bao gồm các nhân viên CIA biết nhiều hơn một dữ kiện chính, cộng với tất cả những người không phải là CIA đã biết đến. Ðây là kết luận của chúng tôi:
a. Nếu Drew Pearson có duy nhất một nguồn cung cấp tin, và nếu nguồn trực tiếp của Pearson là nguồn cuối cùng rò rỉ, và nếu việc khoanh phạm vi không bị vi phạm, thì Bill Harvey hiện ra như một ứng viên có thể. Bill Harvey là người duy nhất được tìm thấy trong quá trình điều tra này biết tất cả bốn sự kiện chính vào thời điểm bài báo của Pearson xuất hiện. Chúng tôi không thể tìm thấy lý do thuyết phục tại sao ông ta chủ ý muốn tiết lộ sự thiếu thận trọng để tiết lộ thông tin. Hơn thế nữa, nếu ông ta là nguồn cung cấp thông tin, chúng tôi có thể mang câu chuyện của Pearson là hoàn toàn chính xác, vì Harvey biết sự thật.
b. Nếu chúng ta loại Harvey ra khỏi suy nghĩ là kẻ cung cấp tin thì dường như ít nhất có hai nguồn cuối cùng rò rỉ. Những người khác tham gia trong chiến dịch đều không biết về cuộc họp này cho một ai khác. Vì vậy hoàn toàn có thể việc rò rỉ tin này xuất phát từ ai đó không trực tiếp biết về chiến dịch Nghiệp Ðoàn Cờ Bạc nhưng lại biết về cuộc họp đó.
c. Ðứng trên quan điểm ai-biết-cái-gì, người đáng ngờ nhất kế tiếp có thể đã tiết lộ tin là John Roselli. Ông này trên thực tế là người day nhất tham gia trực tiếp và liên tục trong cả hai giai đoạn của chiến dịch Nghiệp Ðoàn Cờ Bạc. Ông ta giới thiệu Maheu với Sam Giancana là bước đầu tiên để dưa chiến dịch vào hoạt động, và ông ta là người cuối cùng cắt đứt quan hệ với Verona khi chiến dịch bị bỏ rơi. Ông ta biết hết mọi chuyện diễn ra với bọn găngstơ, với Orta và với Varona giữa khoảng thời gian đó. Ông ta và Robert Mahout là những người tham gia duy nhất không là nhân viên CIA biết trực tiếp những chi tiết liên quan đến Robert Kennedy. Shef Edwards đã ăn trưa với Roselli và Maheu tại Los Angeles vào mùa hè năm 1962. Edwards kể rằng Roselli biết tên thật của Edwards và chức vụ của ông ta trong CIA. Edwards nói rằng ông ta đã chọn dịp để bày tỏ lời khen ngợi cá nhân của ông đối với Roselli, và nói với Roselli rằng ông ta, Edwards, đã đích thân nới với Bộ trưởng Tư pháp Kennedy về những gì Roselli cố gắng làm vì quyền lợi quốc gia. Chúng ta biết Kennedy chỉ được tường trình về chiến dịch – và chỉ ở Giai đoạn Một – nhưng có thể Roselli lại suy ra rằng Kennedy có một vai trò tích cực trong chiến dịch này.
d. Chúng tôi không rõ Robert Maheu đã trực tiếp biết gì về chiến dịch, vì chúng tôi có những thông tin trái ngược nhau về thời điểm chính xác ông ta bị rút ra khỏi vai trò tham gia trực tiếp. Ông ta biết trực tiếp về giai đoạn một nhưng lại biết rất ít về giai đoạn hai, nếu có biết (theo như bài báo của Pearson). Nếu ông ta biết về giai đoạn hai thì chắc chỉ có Roselli nói.
e. Maceo, người mà chúng tôi đề cập rất ít, là “người của Roselli” trong giai đoạn hai. Có thể ông ta biết về những viên thuốc và về toán ba người, còn về những chi tiết khác có lẽ do Roselli nói.
f. Những gì Varona cùng người con rể của ông ta biết sẽ được giới hạn ở những viên thuốc và toán ba người, nhưng họ sẽ biết nhiều hơn đáng kể; như, ai nhận thuốc này, thành phần của toán và số phận cuối cùng của toán này.
g. Giancana và Trafficante được cho là đã không tham gia giai đoạn hai. Có lẽ họ biết về nó chỉ qua Roselli.
Từ tất cả những gì hiện ra qua việc duyệt xét lại quan điểm “ai trực tiếp biết chuyện gì” đã hậu thuẫn cho giả thuyết nói rằng câu chuyện của Drew Pearson có lẽ do nhiều người cung cấp: một người cung cấp thông tin là về cuộc họp tại Bộ ngoại giao và người kia (hoặc những người) cung cấp tin về chiến dịch nghiệp đoàn cờ bạc. Chúng tôi cũng xác định rất có thể Roselli là nguồn tin cơ bản cho câu chuyện của Pearson. Dòng lý luận này và thông tin mà O’Connell nhận được từ Maheu là nhất quán.
Cho đến lúc này giả định của chúng tôi là nguồn cung cấp tin tối hậu và trực tiếp, nếu là ai khác, đang tiết lộ bí mật và gây rùm beng câu chuyện này với các động cơ sâu kín trong đầu. Những động cơ sâu kín đó là gì có thể thật khó thăm dò – vì những nguyên nhân sau:
a. Nếu nguồn cung cấp tin này đang tìm kiếm một sự bảo vệ, chắc chắn là anh ta sẽ được nhận được bảo vệ tốt hơn khi trực tiếp đến gặp CIA để xin giúp đỡ.
b. Maheu là mối nối duy nhất được biết đến đã kết dính Morgan với âm mưu nghiệp đoàn cờ bạc và Maheu chắc chắn chỉ thua thiệt khi để vai trò của ông trở nên công khai.
c. Những ai đã biết Morgan, Maheu và Roselli đều nghĩ là nếu vì một mục đích cá nhân bất kỳ ai đó trong ba người này lan truyền câu chuyện này một cách cố ý thì thật không đúng với tính cách của họ.
Trong việc biết được mối liên hệ Roselli-Morgan, chúng tôi không còn thấy bức thiết lắm phải suy diễn việc câu chuyện được lộ ra như thế nào. Rất có thể là Roselli là nguồn cung cấp tin, Morgan là người đưa tin, Anderson và Pearson là những người nhận tin. Chúng tôi có thể cũng không còn thấy bức thiết lắm trong việc suy diễn về lý do nào câu chuyện này đã được kể. Suy luận được rút ra từ những khám phá của O’Connell tại Las Vegas là Roselli đã uống quá nhiều rượu nên nói ra và Morgan cũng đã kể với một người bạn là nhà báo bên bàn rượu.
Với các nhìn lạc quan trước việc này – rằng không có một động cơ sâu kín nào trong việc tán phát câu chuyện này – vấn đề cần có câu trả lời là chúng ta giờ đây có khởi sắc hơn so với trước đây không; vị trí của chúng ta thậm chí có thể còn xấu hơn những gì chúng ta đã mong đợi không.
a. Giờ đây chúng ta có thể giả định rằng câu chuyện của Pearson đã không được chắp vá từ những mẩu tin vụn vặt lượm lặt từ đây đó. Nguồn cung cấp tin tối hậu của ông ta, Roselli, biết một số chi tiết về chiến dịch nghiệp đoàn cờ bạc nhiều hơn là chúng ta biết, và ông ta rõ ràng đã nói ra. Bây giờ mà cố bưng bít thêm những lỗ rò có thể sẽ có hại hơn là có lợi; câu chuyện đã thoát ra ngoài rồi và có lẽ với nhiều tìn tiết đáng kể.
b. Cuộc gặp Roselli-Garrison ở Las Vegas vào tháng 3 đặc biệt gây nhiễu loạn. Nó đã cung cấp chất liệu cho các báo cáo nói rằng Fidel có liên quan gì đó đến cuộc ám sát Kennedy nhằm trả đũa âm mưu Mỹ ám sát Fidel. Chúng tôi không biết là Fidel có thực sự tìm cách trả đũa không nữa, nhưng chúng tôi có biết có những âm mưu như thế chống lại Fidel. Không may, dường như lúc này Garrison có thể cũng biết điều này.
Việc công khai về đề tài này có lẽ vẫn chưa chạy đúng tiến trình của nó. a. Drew Pearson, theo như chúng tôi biết, đã chưa sử dụng hai trong những món khoái khẩu nhất của ông ta: câu chuyện về thuốc độc và cuộc họp của Bộ Ngoại giao.
b. Garrison vẫn chưa tiết lộ hết vụ việc của ông ta. Khi ông ta làm thế, chúng tôi sẽ mong thấy CIA được trình bày một cách nổi bật.
c. Cục Ðiều Tra Quốc Gia Philippine đang giam giữ một phạm nhân người Puerto Rico tuyên bố rằng mình là người tham gia trong một âm mưu ám sát ở Dallas được Fidel gợi hứng. Ông ta cũng nói rằng trong bài diễn văn đọc vào tháng 7 năm 1962, Fidel dọa là sẽ tìm cách ám sát Kennedy để trả đũa lại hai âm mưu ám sát Fidel của Kennedy. (Chúng tôi không tìm thấy hồ sơ lưu nào và cũng không nhớ là Fidel có đọc một bài diễn văn như vậy.) Người Puerto Rico này cư trú bất hợp pháp ở Philippine và có lẽ bị trụt xuất lại về Mỹ. Chúng tôi có thể mong FBI sẽ bắt giữ hắn và khai thác hắn tới nơi tới chốn.
Chúng tôi đang đối mặt với khả năng là mọi chuyện sẽ trở nên tệ hại trước khi chúng bắt đầu có dấu hiệu sáng sủa. Trong các đoạn dưới đây chúng tôi tìm hiểu sâu về một số các nhánh rẽ và bàn về cách ứng phó với chúng.
- Liệu chúng ta có tìm cách bịt miệng những kẻ đang nói hoặc có thể sẽ nói sau này không?
- Với chúng ta điều rõ ràng là chiến thuật này cho thấy có rất ít cơ hội thành công. Sỡ dĩ nói như vậy là vì câu chuyện dầu sao cũng được tiết lộ rồi và có lẽ với tất cả chi tiết mà nó có. Người tham gia duy nhất mà chúng ta có thể gây tác động thực sự là Maheu, và ông ta cũng đã nói hết những gì ông ta có thể nói ra rồi (với luật sư của ông ta, Morgan). Chúng ta không nắm được ai khác trong số những người có thể cung cấp sự xác nhận cho câu chuyện của Roselli.
a. Varona gần như chắc chắn không là bạn của CIA. Khi chiến dịch Vịnh Con Heo phát triển, Verona là một trong những người chỉ trách gay gắt việc người Cube lưu vong không nắm quyền kiểm soát chiến dịch và không tham gia vào đây. Ông ta cay đắng việc CIA chấm dứt sự hậu thuẫn đối với nhóm lưu vong của ông ta (và kết quả là ông ta đã mất đi phần thu thập riêng.) Ðiều cuối cùng chúng tôi biết về ông ta là ông đang ở New York và làm nghề bán xe hơi để sinh nhai qua ngày.
b. Roselli, Giancana và Trifficante đã gặp phải vận rủi. Trên tờ Chicago số gần đây loan tin Giancana đã bị lật đổ khỏi cương vị trùm Mafia ở Chicago và có lời đồn là ông ta đang sống chui rúc ở Mexico. Maheu nói rằng Trifficante đang bị giam ở Tampa. Roselli không còn được trọng vọng ở Las Vegas và mỗi khi rời khỏi nơi cư ngụ bắt buộc phải thông báo với cảnh sát. Không người nào trong số họ thấy xấu hổ phải trưng ra việc họ có quan hệ với CIA khi bị lực lượng thi hành pháp luật dồn ép họ. Giancana đã làm vậy khi FBI “quấy rầy” ông ta vào năm 1963. Roselli dường như đã làm vậy trong các lần nói chuyện với Morgan và Garrison.
(Bình luận: Câu chuyện ngụy trang được dùng với Roselli, Giancana, Trifficante, Verona và được tin là với cả Orta là những người bảo trợ là những nhà kinh doanh M có quyền lợi ở Cuba. Roselli nhanh chóng kết luận rằng CIA chính là người bảo trợ thực sự và vì vậy đã nói với O’Connell như vậy. trong những lần giao dịch sau đó với Harvey và Edwards, Roselli càng khẳng định thêm điều này. Giancana nêu tên CIA vào năm 1963. Chúng tôi phải giả định rằng những người khác, có thể Orta và cả Varona là một ngoại tệ, cũng chắc rằng CIA là người bảo trợ thực sự.)
c. Morgan có thể luôn núp ra sau bức màn của mối quan hệ luật sư-khách hàng, như đã được biết khi ông bị FBI tìm đến hỏi về câu chuyện của Pearson.
d. Pearson, Anderson và Greenspun (ở Las Vegas) là những nhà báo có những câu chuyện đáng đưa lên mặt báo. Pearson đã cho xuất bản nhiều bài báo của mình.
e. Maheu có lý do để tin ông ta không muốn câu chuyện này được loan truyền thêm nữa. Sự công khai không được ‘mến mộ’ có thể đã khiến ông mất đi khách hàng béo bở, Howard Huges. Có thể cũng thâu lượm được một số giá trị qua việc hấp nhận lời đề nghị của ông ta rằng ông tìm đến Morgan và có lẽ cả Roselli để thúc giục họ nên thận trọng.
- Các bộ phận khác trong Chính phủ biết gì về kế hoạch này? - Cựu Bộ trưởng Tư pháp Robert Kennedy đã được Houston và Edwards tường trình đầy đủ vào ngày 7 tháng 5 năm 1962. Một biên bản xác nhận thông tin thuyết trình bằng miệng được chuyển đến cho Kennedy vào ngày 14 tháng 5 năm 1962. Biên bản này không dùng từ ‘ám sát’ nhưng không dễ hiểu sai về những gì muốn nói. Bản gốc của biên bản này được cho là vẫn còn lưu trong hồ sơ của Bộ Tư pháp. Cũng cần lưu ý là buổi thuyết trình cho Kennedy được giới hạn trong Giai đoạn Một của chiến dịch này, kết thúc vào khoảng một năm trước đó. Giai đoạn Hai của chiến dịch đã tiến hành rồi vào thời điểm xảy ra buổi thuyết trình nhưng Kennedy đã không được báo cáo cho biết.
Theo chúng tôi biết, FBI đã không được báo cáo các chi tiết nhạy cảm trong chiến dịch, nhưng sẽ ngây thơ nếu cho rằng đến lúc này họ không nhìn lại vấn đề để rút ra những câu trả lời chính xác. Họ biết CIA có dính líu với Roselli và Giancana như những gì đã biết trong vụ nghe lén điện thoại ở Las Vegas. Từ các bài đăng trên tờ Chicago vào tháng 8 năm 1963, và từ chính những phát biểu của Giancana, có vẻ như họ biết việc này có liên quan đến Cuba. Khi câu chuyện về Roselli lọt vào tai họ (từ Roselli đến Morgan đến Pearson đến Warren đến Rowley đến FBI) tất cả những mẩu chuyện rời rạc này hẳn sẽ rơi đúng vào vị trí của chúng. Ðến lúc này họ hẳn đã kết luận rằng CIA âm mưu ám sát Fidel và sử dụng các phần tử găngstơ để thực hiện chuyện này.
Có một số điều hậu thuẫn cho giả thuyết này trong cuộc nói chuyện giữa tôi và Sam Papich vào ngày 3 tháng 5 năm 1967 khi tôi nói với ông ta về cuộc họp được mong đợi giữa Roselli và Harvey. Sam đã nhận xét là Roselli và Giancana đã đẩy CIA ‘vào hoàn cảnh khó khăn’ vì ‘chiến dịch đó’. Ông ta nói rằng ông ta nghi ngờ việc FBI có thể làm gì cho hoặc Roselli hoặc Giancana vì ‘các hoạt động của bọn họ trước đó với người của ông’.
- Chúng ta có thể dễ dàng phủi tay việc âm mưu với các phần tử găngstơ để ám sát Fidel không?
- Không, chúng ta không thể. Chúng ta có thể tin một cách hợp lý rằng không có văn bản viết tay nào bên ngoài Chính phủ sẽ xác nhận câu chuyện của Pearson về chiến dịch Nghiệp Ðoàn Cờ Bạc, nhưng có nhiều nhân chứng không thuộc thành phần găngstơ có thể chứng nhân việc này.
a. Maheu có thể xác nhận rằng Shef Edwards nói với Roselli rằng Edwards đã nói với Bộ trưởng Tư pháp về các hoạt động của Roselli nhân danh chính phủ.
b. Varona và con rể của ông ta có thể xác nhận các yếu tố viên thuốc độc và toán ba người trong câu chuyện này.
c. Orta có thể xác nhân yếu tố thuốc độc trong Giai đoạn Một.
d. Nếu một cuộc điều tra độc lập được phép tiến hành thì các nhà điều tra có thể biết được những gì chúng tôi đã biết. Một cuộc điều tra như thế có lẽ sẽ mật bí những điều chúng tôi chưa biết, vì họ có thể thẩm vấn cả những người tham gia không phải là nhân viên CIA.
- Liệu CIA có thể tuyên bố hoặc ám chỉ là một công cụ của chính sách không? Trường hợp này thì không. Trong khi đúng là Giai đoạn Hai được tiến hành trong bầu không khí mà chính quyền Kennedy đang tạo mọi sức ép để áp chế Fidel thì giai đoạn trước đó không đúng như vậy. Giai đoạn một mở màn vào tháng 8 năm 1960 dưới thời chính quyền Eisenhower. Giao đoạn Một, trong suy nghĩ của Harvey, liên quan đến “Khả năng Hành động cấp Ðiều hành”, theo như báo cáo, được phát triển nhằm trả lời cho những yêu cầu cấp bách của Nhà Trắng. Một lần nữa, Giai đoạn Một đã được khởi động và bỏ rơi nhiều tháng trước khi Khả năng Hành động cấp Ðiều hành xuất hiện.
Khi Robert Kennedy được tường trình về Giai đoạn Một vào tháng 5 năm 1962, ông ta mạnh mẽ khuyến cáo Houston và Edwards kiểm tra cùng với Bộ trưởng Tư pháp trước mọi việc cố tính sử dụng các phần tử tội phạm Mỹ trong tương lai. Ðiều này đã không được tôn trọng trong Giai đoạn Hai, đã được tiến hành rồi vào lúc Kennedy nghe thuyết trình. Câu chuyện của Pearson, giờ đây đang khiến cho chúng ta nhiều âu lo, có đưa vào một chi tiết chỉ được tìm thấy trong Giai đoạn Hai: toán ba người.
Các biện pháp nào có thể được thực hiện để làm giảm bớt thiệt hại? Chúng tôi thấy sẽ chẳng vớt vát được bao nhiêu nếu tìm cách tiếp xúc cá nhân với Maheu, Morgan và Roselli. Maheu có nhiều thứ để mất nên có thể phải thuyết phục Morgan và Roselli đừng phát tán câu chuyện này thêm nữa. Vấn đề là liệu có sự bức bách nào như thế tác động được với Roselli hay không, vì Roselli lên tiếng chỉ mong được hưởng lợi từ việc muốn rằng câu chuyện ông ta có dính líu với CIA được mọi người biết và chấp nhận. Chúng tôi không thể bịt miệng chuyện này được, vì nó đã được tung ra và có thể lại đang sôi sục hơn nữa khi vụ Garrison nổ ra. Nếu chúng ta tính chuyện tìm gặp tất cả mọi người tham gia và giục giã họ nên thận trọng, thử nghĩ, nếu việc làm này bị lộ ra, chúng ta lại vô tình làm cho câu chuyện từ chỗ nghe như ‘không lẽ nào’ trở thành một câu chuyện ‘có thể tin được’.
Trên đây là những âm mưu ám sát Fidel điển hình được CIA thừa nhận trong các bản báo cáo mật được tiết lộ. Còn rất nhiều kế hoạch ám sát Fidel chưa được ông bố. Theo Cục An ninh Quốc gia Cuba, tính đến năm 2003 đã có trên 700 vụ mưu sát vị nguyên thủ quốc gia nổi tiếng này. Ngay trong giai đoạn hiện nay, các kế hoạch sẽ còn tiếp tục khi mà M dưới nguyên cớ chống khủng bố - với lợi thế sau cuộc tấn công Afghannistan, đánh chiếm Iraq, dẹp được cái gai khó chịu với việc bắt giữ tổng thống Saddam Hussein – sẽ tăng cường sức ép với các nước “không thân M ”, hoặc chỉ cần tự gán cho cái tên “bảo trợ khủng bố” là M có thể cho mình cái quyền “nhân danh nước M ” để tiến hành những gì mà chính quyền M đã từ lâu muốn làm.
NHỮNG NGUỒN TIN
Các hồ sơ được Giám Ðốc An Ninh, Phó Giám Ðốc Hỗ Trợ, Tổng Luật Sư, Hội Ðồng Lập Pháp, Chỉ Huy Trưởng bộ phận WH và Ðại tá J.C. King, nguyên chỉ huy trưởng bộ phận W.H cung cấp. Hồ sơ về tiểu sử và những ấn phẩm về tình báo do Giám Ðốc Bộ Phận Tham khảo Trung Ương cung cấp. Ông ta không biết lý do vì sao chúng tôi quan tâm đến chúng, và những người tập hợp các tài liệu này theo lệnh ông ta cũng không biết là ai đã yêu cầu chúng.
Chúng tôi cũng mời bốn sĩ quan: Richard Rissell, Sheffield Edwards đã nghỉ hưu, William Harvey đang nghỉ dưỡng bệnh và Nestor Sanchez đang công tác ở ------ đến để phỏng vấn. Ngoài ra, chúng tôi cũng đã phỏng vấn những nhân viên đang thi hành các nhiệm vụ của tổng hành. Chúng tôi bắt đầu mỗi cuộc phỏng vấn bằng cách đề cập đến bài báo ngày 7 tháng 3 năm 1967 của Drew Pearson, đồng thời nói rõ đó là lý do khiến chúng tôi quan tâm muốn biết các âm mưu ám sát Fidel. Chúng tôi bảo những người được phỏng vấn rằng chúng tôi thừa lệnh Giám Ðốc làm nhiệm vụ tìm kiếm các dữ kiện thực tế chứ đây không phải là cuộc điều tra thông thường của Tổng Thanh Tra. Chúng tôi yêu cầu mỗi người cho biết tên bất kỳ người nào khác có thể đã biết về các âm mưu đó. Chúng tôi cũng lưu ý từng người là đừng bàn tới việc phỏng vấn này với một ai khác. Ðây là danh sách đầy đủ tên những người đã được phỏng vấn:
Desmond FitzGerald ------------Richard Bissell
Samuel Halpern ------------------Lawrence Houston
J.C.King ----------------------------John Warner
J.D.Esterline-----------------------Nestor Sanchez
Alfonso Rodriguez -------------William Harvey
Edward Gunn --------------------Cornelius Roosevelt
Howard Osborn -----------------Robert Bannerman
James O’Connell ---------------
Sidney Gottlieb ------------------
Sheffield Edwards